Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi văn lớp 9 năm 2024
0% found this document useful (0 votes) Show 17 views 51 pages Copyright© © All Rights Reserved Available FormatsPPT, PDF, TXT or read online from Scribd Share this documentDid you find this document useful?0% found this document useful (0 votes) 17 views51 pages Chuyen de Boi Duong HSG Mon Van 9Jump to Page You are on page 1of 51 CHUYÊN ĐỀ I MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC PHÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC PHÁT HIỆN VÀ LỰA CHỌN HỌC SINH GIỎI HIỆN VÀ LỰA CHỌN HỌC SINH GIỎI MM ÔN ÔN VĂNVĂN
1. Một số khái niệm liên quan
2. Học sinh giỏi văn thiên về khẳng định năng lực văn học hơn là nói đến năng khiếu văn chương Reward Your CuriosityEverything you want to read. Anytime. Anywhere. Any device. No Commitment. Cancel anytime. Nghị luận văn học: Nghị luận về một tác phẩm thơ, truyện hoặc một đoạn trích. 2 Nghị luận xã hội: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống; một vấn đề tư tưởng đạo lí.
Tháng 9/20.. Tháng10/ 20..
Tháng 2,3/20.. 10. Ôn tập tổng hợp và luyện đề
MỘT SỐ NỘI DUNG THAM KHẢOPHẦN VĂN NGHỊ LUẬN
Chuyên đềTỪ VĂN BẢN ĐẾN BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Tích hợp là quan điểm cơ bản của việc đổi mới nội dung chương trình SGK và đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn Ngữ văn của nhiều năm nay. Trong chương trình SGK Ngữ văn THCS, các tác giả biên soạn đã thể hiện rất rõ quan điểm tích hợp này ở mọi hình thức: tích hợp ngang giữa các phân môn, tích hợp dọc, tích hợp đồng tâm... Sự đổi mới này không chỉ giúp HS có được kiến thức tổng hợp mà còn có kĩ năng tốt hơn trong quá trình học và làm văn. Trong các kiểu làm văn, SGK Ngữ văn cũng đã thực sự chú ý đến kĩ năng vận dụng kiến thức tác phẩm để phục vụ cho các bài làm văn nghị luận văn học nh: chứng minh, giải thích, phân tích một đoạn thơ, đoạn truyện hoặc một tác phẩm thơ, một tác phẩm truyện. Bên cạnh đó còn có kiểu bài nghị luận xã hội giúp HS không chỉ rèn luyện tốt kĩ năng làm văn nghị luận mà còn có thêm cách nhìn, cách nghĩ về xã hội sâu sắc hơn, nhận thức được rõ hơn vai trò của mỗi cá nhân trước những vấn đề xã hội ngày nay. Có một điều thật lí thú là trong các tác phẩm văn học được học trong chương trình Ngữ văn, mỗi tác phẩm không chỉ là một bức tranh thu nhỏ của cuộc sống, là một nét tâm hồn của con người mà những tác phẩm đó còn có khả năng bồi đắp tâm hồn người đọc, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời và con người quanh ta. Chính vì vậy các tác phẩm văn học này thực sự đã trở thành một nguồn tư liệu quý, là những đề tài phong phú cho bài làm văn nghị luận xã hội. Việc vận dụng kiến thức có trong văn bản vào làm văn nghị luận xã hội không chỉ giúp HS củng cố lại kiến thức văn bản mà còn giúp các em thành thạo hơn về kĩ năng làm văn và biết đi từ văn học đến cuộc sống. Bài viết này xin được bàn về kĩ năng vận dụng kiến thức văn bản được học trong chương trình Ngữ văn đến việc làm văn nghị luận xã hội với mục đích khẳng định tác dụng của quan điểm tích hợp trong đổi mới phương pháp dạy học và bàn thêm về kĩ năng làm văn của HS trong nhà trường.
hiện trong những rung động và niềm yêu mến, tự hào về quê hương, thiên nhiên đất nước, tự hào về tiếng nói của dân tộc... Các sáng tác văn học còn đề cao tinh thần nhân đạo - tình yêu thương con người - một truyền thống sâu đậm của văn học Việt Nam. Tất cả đều hướng về khẳng định những giá trị tốt đẹp của con người, lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, mơ ước về tự do, lẽ công bằng. Nhiều tác phẩm hướng tinh thần nhân đạo vào những tầng lớp nghèo khổ, tố cáo mạnh mẽ những bất công xã hội, những thế lực thống trị, áp bức và lên tiếng đòi quyền sống xứng đáng cho con người. Các tác phẩm văn học mới đặc biệt hướng vào khẳng định những phẩm chất tốt đẹp và sức mạnh giải phóng của quần chúng nhân dân lao động, ngợi ca những tình cảm cộng đồng nh tình đồng chí, đồng bào. Nhiều tác phẩm đề cập đến những vấn đề gần gũi thiết thực trong đời sống tinh thần của mỗi con người nh tình cảm gia đình, sự giật mình thức tỉnh của lơng tâm trước vòng xoáy cuộc đời, truyền thống uống nước nhớ nguồn, những bài học đạo đức nhẹ nhàng mà sâu sắc về cái đẹp, tình yêu thương loài vật... Văn học Việt Nam có lịch sử lâu dài, gắn bó mật thiết với lịch sử, với vận mệnh của nhân dân, lu giữ và toả chiếu tinh hoa, bản sắc tâm hồn dân tộc qua các thời đại; là vốn quý của nền văn hoá dân tộc; nuôi dưỡng và bồi đắp tâm hồn, tính cách, tư tưởng cho các thế hệ người Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Tất cả các nội dung đó đều mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc và đều có thể trở thành một đề tài độc đáo cho các bài làm văn nghị luận, nhất là kiểu bài làm văn nghị luận xã hội. II. Đặc trưng của kiểu bài nghị luận xã hội. Văn bản nghị luận được tạo lập nhằm giải quyết một vấn đề nào đó đặt ra trong cuộc sống. Người viết sẽ trình bày các tư tưởng, quan điểm của mình về vấn đề đặt ra nhằm thuyết phục người đọc tán thành và làm theo. Vấn đề càng có ý nghĩa xã hội sâu rộng, văn bản nghị luận càng có giá trị. Nghệ thuật nghị luận càng sắc bén, chặt chẽ, văn bản càng có tác dụng rộng rãi và mạnh mẽ. Nghị luận xã hội là một lĩnh vực rất rộng lớn, từ bàn bạc những sự việc, hiện tượng đời sống đến bàn luận những vấn đề chính trị, chính sách, từ những vấn đề đạo đức, lối sống đến những vấn đề có tầm chiến lợc, những vấn đề tư tưởng triết lí. Hình thức nghị luận thứ nhất là nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống. Vốn sống của học sinh bắt đầu từ nhận thức về từng sự việc trong đời sống hàng ngày: một vụ cãi lộn, đánh nhau, một vụ đụng xe dọc đường, một việc quay cóp khi làm bài, một hiện tượng nói tục, chửi bậy, thói ăn vặt xả rác, trẻ em hút thuốc lá, đam mê trò chơi điện tử, bỏ bê học tập... Các sự việc, hiện tượng nh thế học sinh nhìn thấy hằng ngày ở xung quanh nhưng ít có dịp suy nghĩ, phân tích, đánh giá chúng về các mặt đúng - sai, lợi - hại, tốt - xấu... Bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng xung quanh mà các em không xa lạ, từ những suy nghĩ của bản thân mà viết những bài văn nghị luận nêu tư tưởng, quan niệm, đánh giá đúng đắn của mình. Đó có thể coi là một hình thức nghị luận phù hợp với kinh nghiệm lứa tuổi và trình độ suy luận của học sinh. Hình thức nghị luận thứ hai là nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí bàn về một tư tưởng, đạo đức, lối sống có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống con người. Các tư tưởng đó thường được đúc kết trong những câu tục ngữ, danh ngôn, ngụ ngôn, khẩu hiệu hoặc khái niệm. Những tư tưởng, đạo lí ấy thường đựơc nhắc đến trong đời người (được gợi ý từ văn bản “Nói với con”), mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể (được gợi ý từ kịch “Tôi và chúng ta”, “Mùa xuân nho nhỏ”)... - Đề có thể mở để học sinh chọn lựa nội dung nghị luận, bàn sâu vào một vấn đề nào đó được gợi ý từ văn bản đã học. Ví dụ: vẻ đẹp của đức tính khiêm nhường em học được trong ý thơ Thanh Hải trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”, và cũng ở đó có thể chọn nội dung nghị luận khác quan niệm về sự cống hiến của mỗi cá nhân với quê hương, với cuộc đời chung... d. Các nội dung chính trong bài viết: - Trước hết học sinh hiểu và phải trình bày được những ý hiểu của mình về nội dung mà tác phẩm đề cập đến. Đây là ý phụ trong bài viết nhưng không thể thiếu và cũng không làm quá kĩ dễ lạc sang kiểu bài nghị luận văn học. Học sinh bằng sự phân tích để đi đến khái quát nội dung xã hội cần nghị luận. - Nội dung chính của bài viết là các em cần trình bày những hiểu biết của bản thân về vấn đề xã hội được nhắc đến trong văn bản bằng vốn kiến thức thực tế trong cuộc sống, thực trạng của vấn đề với các mặt tốt - xấu, đúng - sai, cũ - mới... Từ đó bày tỏ thái độ, quan điểm và đa ra những giải pháp, liên hệ mở rộng vấn đề , giải quyết vấn đề sâu sắc và thuyết phục. e. Hình thức của bài viết: - Bài viết đảm bảo bố cục thông thường một bài văn nghị luận: mở bài, thân bài và kết luân. Các đoạn văn trong bài có tính liên kết chặt chẽ cả về nội dung và hình thức. - Diễn đạt bằng các hình thức lập luận của văn nghị luận: giải thích, chứng minh, phân tích, tổng hợp. Dẫn chứng của kiểu bài này có phạm vi rộng, nhiều nhất là trong đời sống xã hội và có thể trong cả văn học, lịch sử...
niềm tin, là sức mạnh nâng bước chân con trên đường đời,... Công lao của mẹ nh nước trong nguồn, nước biển Đông vô tận. (Dẫn chứng cụ thể) + Mỗi chúng ta cần phải làm gì để đền đáp công ơn của mẹ? Cuộc đời mẹ không gì vui hơn khi thấy con mình mạnh khoẻ, chăm ngoan, giỏi giang và hiếu thảo. Mỗi chúng ta cần rèn luyện, học tập và chăm ngoan để mẹ vui lòng: vâng lời, chăm chỉ, siêng năng, học giỏi, biết giúp đỡ cha mẹ...(Có dẫn chứng minh hoạ). + Phê phán những biểu hiện, những thái độ, hành vi cha đúng với đạo lí làm con của một số người trong cuộc sống hiện nay: cãi lại cha mẹ, ham chơi, làm những việc vi phạm pháp luật để mẹ lo lắng, đau lòng... Có thể phê phán tới cả những hiện tượng mẹ ruồng rẫy, vất bỏ con, cha làm tròn trách nhiệm của người cha, người mẹ... + Liên hệ, mở rông đến những tình cảm gia đình khác: tình cha con, tình cảm của ông bà và các cháu, tình cảm anh chị em để khẳng định đó là những tình cảm bền vững trong đời sống tinh thần của mỗi người. Vì vậy mỗi chúng ta cần gìn giữ và nâng niu. Tình cảm gia đình bền vững cũng là cội nguồn sức mạnh dựng xây một xã hội bền vững, đẹp tươi. Đề số 2: Lấy tựa đề “Gia đình và quê hương - chiếc nôi nâng đỡ đời con”, hãy viết một bài nghị luận nêu suy nghĩ của em về nguồn cội yêu thương của mỗi con người.
Đề số 4: Nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “Bến quê” (Nguyễn Minh Châu) vào những ngày cuối cùng của cuộc đời mình đã tìm thấy vẻ đẹp quê hương nơi bãi bồi bên kia sông ngay trước của sổ nhà mình. Sự phát hiện đó của Nhĩ gợi cho em suy nghĩ gì về cái đẹp trong cuộc sống?
Đề số 5: Từ nhan đề và ý nghĩa vở kịch: “Tôi và chúng ta” của tác giả Lu Quang Vũ, hãy viết bài văn nghị luận nêu suy nghĩ của em về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống ngày nay.
Đề 3: Hãy cùng nhà thơ Hữu Thỉnh đón chào vẻ đẹp một ngày thu trong bài thơ “Chiều sông Thương” của tác giả: Đi suốt cả ngày thu Vẫn cha về tới ngõ Dùng dằng câu quan họ Nở tím bên sông Thương. Nước vẫn nước đôi dòng Chiều uốn cong lỡi hái Những gì sông muốn nói Cho sắc mặt mùa vàng Đất quê mình thịnh vượng Những gì ta gửi gắm Sắp vàng hoe bốn bên. Hạt phù sa rất quen Sao mà nh cổ tích Mấy cô coi máy nước Cánh buồm đang hát lên. Đám mây trên Việt Yên Rủ bóng về Bố Hạ Lúa cúi mình giấu quả Ruộng bời con gió xanh. Nước màu đang chảy ngoan Giữa lòng mơng máng nổi Mạ đã thò lá mới Trên lớp bùn sếnh sang. Mắt dài nh dao cau. Ôi con sông màu nâu Ôi con sông màu biếc Dâng cho mùa sắp gặt Bồi cho mùa phôi thai. Nắng thu đang trải đầy Đã trăng non múi bởi Bên cầu con nghé đợi Cả chiều thu sang sông. (Tháng 10 năm 1973) TÀI LIỆU THAM KHẢO BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎIMÔN NGỮ VĂN 9 (phần 2)PHẦN CẢM THỤ VĂN HỌC
II. Tác giả Nguyễn Dữ và “Chuyện ngưòi con gái Nam Xương”.
III. Tác giả Nguyễn Du và “Truyện Kiều”Ngoài các kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm GV có thể nhấn mạnh một số nội dung sau:
IV. Một số văn bản khác (GV bổ sung một số kiến thức cơ bản)
V. Giới thiệu một số chuyên đề (GV tham khảo)1. Nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”Bút pháp của đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút trong đó nghệ thuật tả cảnh tả tình được người đời sau khen ngợi “như máu chảy ở đầu ngọn bút” và “thấu nghỡn đời”. Xin giới thiệu bài viết của nhà phờ bình Trần Ngọc về Nghệ Thuật Tả Cảnh của Thi Hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một áng văn chương tuyệt tác trong lịch sử văn học nước ta. Truyện Kiều có giá trị về mọi mặt: tư tưởng, triết lý, luân lý, tâm lý và văn chương. Truyện Kiều vì thế đó trở thành quyển truyện thơ phổ thông nhất nước ta: từ các bậc cao sang quyền quý, trí thức khoa bảng, văn nhân thi sĩ, cho đến những người bình dân ít học, ai cũng biết đến truyện Kiều, thích đọc truyện Kiều, ngâm Kiều và thậm chí bói Kiều. Giá trị tuyệt hảo của truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá trị văn chương lại giữ một địa vị rất cao. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được bàn đến nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều .. |