Cả nước có bao nhiêu trường đại học năm 2024

Hiện nay, 15 trong số 16 bộ có trường đại học trực thuộc. Ngoài Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhiều bộ ngành khác cũng có khá nhiều trường đại học trực thuộc.

Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan quản lý nhà nước nên đương nhiên có nhiều đại học, trường đại học trực thuộc nhất. Hiện bộ này quản lý trực tiếp 119 đại học, trường đại học.

Trong số 16 bộ, chỉ có Bộ Khoa học và Công nghệ không có trường đại học trực thuộc. Bộ này chỉ có viện chuyên đào tạo sau đại học.

Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch là đơn vị có số lượng cơ sở giáo dục đại học trực thuộc đứng thứ hai với 13 trường đại học, học viện. Bộ này quản lý trực tiếp các trường khối văn hóa, thể thao, âm nhạc, nghệ thuật.

Trong khi đó, hầu hết các trường chuyên đào tạo khối ngành sức khỏe (không tính các trường, khoa thuộc các đại học quốc gia và đại học vùng) đều trực thuộc Bộ Y tế. Trong khối trường chuyên đào tạo nhóm ngành sức khỏe, có 2 trường không thuộc Bộ Y tế là Trường đại học Y khoa Vinh trực thuộc UBND tỉnh Nghệ An, và Trường đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch trực thuộc UBND TP.HCM.

Đây là bộ có số trường trực thuộc đứng thứ ba với 11 trường đại học, học viện trực thuộc.

Bộ Công Thương có 9 trường đại học trực thuộc. Hầu hết các trường thuộc bộ này là các trường khối công nghiệp, thương mại, tập trung hầu hết ở phía Bắc, chỉ có hai trường ở phía Nam.

Bộ Nội vụ trước đây có hai trường trực thuộc. Tuy nhiên từ năm 2022, Trường đại học Nội vụ đã được sáp nhập vào Học viện Hành chính quốc gia.

Việc quản lý trực tiếp các trường đại học có sự khác biệt ở nhiều khối trường. Cả nước hiện có 5 trường đại học sư phạm kỹ thuật. Tuy nhiên, ba trong số này trực thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội là Sư phạm Kỹ thuật Nam Định, Vinh và Vĩnh Long. Hai trường Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM và Hưng Yên trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Tương tự, cùng đào tạo luật nhưng Trường đại học Luật Hà Nội thuộc Bộ Tư pháp, trong khi Trường đại học Luật TP.HCM trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.

TP.HCM có nhiều trường đại học địa phương nhất

Cả nước hiện có 26 trường đại học địa phương (trực thuộc UBND tỉnh, thành). TP.HCM là địa phương có nhiều trường đại học trực thuộc nhất với 3 trường: Trường đại học Sài Gòn, Trường đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch và Học viện Cán bộ TP.HCM.

Hai tỉnh cùng có hai trường đại học trực thuộc là Thanh Hóa và Nghệ An. Các tỉnh còn lại có một trường đại học trực thuộc.

Trong số 5 thành phố trực thuộc trung ương, chỉ có Đà Nẵng không có trường đại học trực thuộc. Tại thành phố này chỉ có các đại học, trường đại học của các bộ ngành. Hải Phòng, Hà Nội, Cần Thơ có một trường đại học trực thuộc, TP.HCM có 3 trường.

Trong 5 năm, thứ hạng và số đại học Việt Nam vào top thế giới được cải thiện, nhưng theo chuyên gia, điều này không đại diện cho chất lượng chung của các trường.

Theo báo cáo nghiên cứu giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020 của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, từ năm 2005, số lượng cơ sở giáo dục đại học tăng mạnh, nhất là khu vực tư nhân. Hiện, Việt Nam có khoảng 650 cơ sở đại học, trong đó một phần ba do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, còn lại là các trường kỹ thuật và nghề thuộc Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.

Với nhóm do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, trong giai đoạn 2015-2020, số trường đại học dao động 223-242, trong đó 163-176 trường công lập (chiếm hơn 70%), còn lại 60-66 trường ngoài công lập.

Giai đoạn 2010-2019, mỗi năm trung bình có khoảng 300.000 sinh viên đại học tốt nghiệp. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đánh giá ở một số ngành của các trường trọng điểm như hai Đại học Quốc gia Hà Nội, TP HCM, trường Đại học Bách khoa Hà Nội... trình độ của sinh viên tốt nghiệp đã tiệm cận với các đại học trong khu vực.

Đi cùng với sự chuyển biến của số sinh viên và trường đại học, thành tích và số lượng đại học Việt Nam góp mặt trong các bảng xếp hạng quốc tế có sự cải thiện.

Với bảng xếp hạng của QS (Quacquarelli Symonds), tổ chức xếp hạng đại học uy tín hàng đầu thế giới có trụ sở tại Anh, 2019 là năm đầu tiên Việt Nam có đại diện góp mặt. Hai Đại học Quốc gia Hà Nội, TP HCM lần lượt thuộc hạng 801-1.000 và 701-750 thế giới. Đến năm 2020, thêm trường Đại học Tôn Đức Thắng được xếp hạng, giữ vị trí 1.001+. Hai trường quốc gia không thay đổi thứ hạng.

Ba năm tiếp theo, Việt Nam có thêm trường Đại học Bách khoa Hà Nội và Duy Tân, nâng tổng số trường được xếp hạng lên 5. Trong đó, tại bảng xếp hạng năm 2023 (được công bố tháng 6/2022), ba trường cùng đứng hạng 801-1.000 là Quốc gia TP HCM, Quốc gia Hà Nội, Duy Tân; Tôn Đức Thắng hạng 1.001-1.200 và Bách khoa Hà Nội 1.201-1.400.

Còn tại bảng xếp hạng THE (Times Higher Education), Việt Nam mới có đại diện từ năm 2020, gồm Quốc gia Hà Nội, Bách khoa Hà Nội (cùng hạng 801-1.000) và Quốc gia TP HCM (1.000+), nhưng cũng nhanh chóng đuổi kịp số lượng trường (5) xuất hiện trong bảng của QS.

Năm 2022, năm đại học được THE xếp hạng, trong đó Đại học Tôn Đức Thắng, Duy Tân giữ hạng 401-500, vị trí cao nhất của Việt Nam trong các bảng xếp hạng quốc tế. Các trường Bách khoa Hà Nội, Quốc gia TP HCM hạng 1.201+, Quốc gia Hà Nội 1.001-1.200, riêng Đại học Đà Nẵng được báo cáo nhưng chưa được xếp hạng. Hiện, THE chưa công bố bảng xếp hạng năm 2023.

Theo TS Lê Đông Phương, cán bộ nghiên cứu của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, việc ngày càng nhiều đại học Việt Nam góp mặt trong các bảng xếp hạng thế giới là một chuyển biến tích cực, nhưng không nên coi đây là biển hiện cho chất lượng tổng thể của các trường.

Từng giữ vị trí Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu giáo dục đại học của Viện Khoa học Giáo dục, ông Phương lưu ý rằng QS và THE là những bảng xếp hạng thương mại, các trường đại học muốn được xếp hạng cần đóng phí và cung cấp dữ liệu cho hai tổ chức này. Điều này lý giải vì sao chỉ có một vài trường xuất hiện. "Không phải đại học nào cũng có kinh phí cho việc này, hoặc kể cả đăng ký tham gia và gửi dữ liệu, một số trường không vào nhóm được xếp hạng nên vẫn không có tên", ông Phương nói.

Theo ông, việc có thêm đại học Việt Nam trong các bảng xếp hạng thế giới phần nào nói lên hai xu hướng: số lượng trường quan tâm đến thứ hạng quốc tế tăng dần và chất lượng đại học cũng phần nào có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh "mỗi bảng xếp hạng có tiêu chuẩn và trọng số riêng cho từng yếu tố đánh giá, do đó không thể đánh đồng các bảng khác nhau, hoặc coi đây là đại diện cho chất lượng tổng thể của các trường".

Để giải thích quan điểm trên, ông Phương cho biết các bảng xếp hạng nói chung (gồm cả QS và THE) đều dành sự quan tâm cho số lượng trích dẫn, bài báo quốc tế của một trường đại học, nhưng lại không công bố ai là người thực hiện đánh giá đó. Chẳng hạn, đánh giá của các doanh nghiệp, người sử dụng lao động về chất lượng, trình độ sinh viên tốt nghiệp từ các đại học cũng quan trọng, nhưng không được khảo sát. Tương tự, việc người học được học gì tại trường cũng không được thể hiện tại kết quả xếp hạng.

"Nếu đánh giá ở góc độ nghiên cứu, QS và THE có thể giúp người đọc nhận thức được vị trí của các trường được xếp hạng trong hệ thống giáo dục Việt Nam, cũng như có thể so sánh một cách tương đối với quốc tế. Còn để nói về hoạt động đào tạo - nhiệm vụ chính của các trường - thì hơi khó", ông Phương nhận định.

Chưa kể, nếu so sánh với các trường trong khu vực, chất lượng giáo dục đại học Việt Nam vẫn tụt hậu. Khi Việt Nam mới có hai đại diện thuộc top 1.000 trong bảng xếp hạng QS và THE, Indonesia đã có 9 và 3 trường, Thái Lan 8 và 5. Malaysia và Philippines đều có số lượng trường được xếp hạng nhiều hơn Việt Nam.

TS Phương cũng chỉ ra hoạt động nghiên cứu trong các đại học Việt Nam tụt hậu. Xét tỷ lệ nghiên cứu trên một triệu dân giai đoạn 2010-2017, Việt Nam tăng từ 23 lên 63, thấp hơn với mức 10-71 của Indonesia, 140-212 của Thái Lan và còn kém xa mức 4.092-4.813 của Thuỵ Sĩ - quốc gia đứng đầu danh sách.

Xét số bằng sáng chế trên một triệu dân, Việt Nam đạt 1,24, trong khi Philippines 1,35, Indonesia 1,67, Thái Lan 3,16, Malaysia 30.

Vì vậy, với các thí sinh đang đăng ký nguyện vọng xét tuyển năm nay, ông Phương cho rằng, ngoài thứ hạng, cần đánh giá trường đại học dựa trên một số yếu tố khác và nên "chọn ngành, không chọn trường".

Nước ta có tất cả bao nhiêu trường đại học?

Tính đến năm 2021, có khoảng 450 trường đại học ở Việt Nam được Bộ Giáo dục và Đào tạo chứng nhận. Tuy nhiên, con số này có thể thay đổi theo thời gian khi trường mới mở hoặc trường không còn tồn tại đóng cửa.

Cả nước có bao nhiêu trường đại học công lập?

Đầu tiên, giới thiệu sơ bộ qua hệ thống giáo dục đại học tại Việt Nam đa dạng với 237 cơ sở, bao gồm 172 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, cùng với 5 trường có 100% vốn nước ngoài.

Hiện nay trên cả nước có bao nhiêu đại học quốc gia?

Các đại học quốc gia được trao quyền để chủ động xây dựng chương trình đào tạo đại học, sau đại học, chủ động đào tạo nghiên cứu sinh, thẩm định luận án và ra quyết định cấp bằng tiến sĩ các lĩnh vực. Hiện nay cả nước có hai đại học quốc gia, bao gồm Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Có bao nhiêu sinh viên đại học?

Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy mô đào tạo đại học năm học 2021-2022 có 2.145.426 sinh viên.