Chữ viết của người bana có từ lúc nào năm 2024

Tiếng Ba Na là ngôn ngữ của người Ba Na, sắc tộc thiểu số ở miền trung Việt Nam. Số người nói là 227.716 theo Tổng điều tra dân số năm 2009.

Tiếng Ba Na còn ít được nghiên cứu. Hiện nó được xếp loại là nhóm Bắc Ba Na, thuộc Ngữ chi Bahnar, Ngữ hệ Nam Á . Ngôn ngữ này có 9 nguyên âm về chất, hơn nữa còn phân biệt độ dài nguyên âm.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin, eds. (2017). "Bahnar". Glottolog 3.1. Jena, Germany: Max Planck Institute for the Science of Human History. Truy cập 12/12/2017. Thấy được nhu cầu này, các cấp lãnh đạo tỉnh đã thực hiện nhiều chương trình kinh tế – xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có việc hoàn thiện chữ viết và biên soạn sách để dạy và học tiếng Ba na, Chăm, Hre. Hiện có một dự án hoàn thiện chữ viết và biên soạn sách để dạy và học tiếng Ba na Kriem, Chăm Hroi, Hre đang được UBND tỉnh phối hợp với viện Ngôn ngữ học thực hiện. Dự án này nếu thực hiện thành công, sẽ có một tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương, giúp đồng bào các dân tộc ở Bình Định có cái chữ để học, hòa nhập và phát triển.

Một khi đã có chữ viết và sách học tiếng sẽ giúp đồng bào Ba na Kriem, Chăm Hroi, Hre học tập, giữ gìn tiếng nói của dân tộc mình, đồng thời sẽ giúp cho cán bộ và đồng bào các dân tộc khác học tập để nắm được tiếng nói, hiểu được những nét bản sắc trong văn hóa các dân tộc trên, nhằm phục vụ tốt hơn trong các lĩnh vực công tác khác (như phát thanh truyền hình, thông tin tuyên truyền, y tế, giáo dục…) ở vùng dân tộc thiểu số Bình Định.

Chỉ xin nói một việc cụ thể, là có chữ viết sẽ giúp cho người sưu tầm văn học dân gian sưu tầm được nhiều hơn sử thi ở các dân tộc. Nhà foklore Hà Giao ở Bình Định đã từng sưu tầm sử thi ở tộc người Ba na. Để xuất bản được tập sử thi sưu tầm ở nhóm người Kriem Bình Định ("Sử thi Bahnar Kriem", Nxb. Văn hóa dân tộc, H.2002), ông đã gặp không ít khó khăn, trong đó cái khó khăn nhiều hơn cả vẫn là về ngôn ngữ như ông viết trong lời tựa tập sách trên: Ở vùng Bahnar Kriêm còn một số ít người biết chữ dân tộc mình, họ học trong rừng thời kháng chiến nên đều ở tuổi xấp xỉ năm mươi trở lên. Thế mà hòa bình đã hơn 25 năm, không có nơi nào dạy chữ Bahnar, chưa có từ điển, máy đánh chữ và máy vi tính thiếu dấu ở nhiều mẫu tự Bahnar! Vì vậy, việc tổ chức thực hiện bản thảo chữ Bahnar đến "chảy nước mắt".

Hy vọng rằng, với sự quan tâm của tỉnh, đồng bào các dân tộc Ba na Kriêm, Chăm Hroi, Hre ở Bình Định sẽ sớm có chữ viết của mình được sử dụng trong thực tế với một hiệu quả cao, để đồng bào sớm hội nhập và phát triển.

Ngườì Ba Na còn có các tên gọi khác như : Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông. Tiếng nói của người Ba Na thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Với dân số hơn 227.000 ( theo tổng điều tra dân số năm 2009) người Ba Na phân chia theo nhóm địa phương như: Rơ Ngao, Rơ Lơng , Tơ Lô, Gơ Lar Krem… Ðịa bàn cư trú của người Ba Na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây các tỉnh Bình Ðịnh, Phú Yên và Khánh Hoà. Người Ba Na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy . Từ đầu thế kỷ XX, người Ba Na đã làm ruộng nước và phương thức canh tác này hiện nay phát triển ở nhiều nơi. Người Ba Na có nhiều ngành nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn…Người Ba Na sống gần gũi với thiên nhiên núi rừng do vậy các bản làng của người Ba Na thường quần tự ở những nơi gần nơi sông, suối. Trong đời sống cộng đồng xã hội của người Ba Na, chế độ mẫu hệ vẫn thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Ở mỗi làng Ba Na thường có một nhà công cộng là nhà Rông to, đẹp ở giữa làng. Nhà rông là trụ sở của làng, nơi các già làng họp bàn việc công, nơi dân làng hội họp, nơi trai chưa vợ ngủ đêm, nơi tiến hành các nghi lễ phong tục của cộng đồng và cũng là nơi tiếp khách lạ vào làng.

Chữ viết của người bana có từ lúc nào năm 2024

Nhà ở của người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn. Trước đây, trong mỗi ngôi nhà thường có nhiều thế hệ sinh sống, nên ở vùng người Ba Na sinh sống thường có những căn nhà dài hàng trăm mét, tuy nhiên hiện nay, mô hình các gia đình nhỏ với những căn nhà sàn gọn gàng xuất hiện ngày càng nhiều. Là tộc người sống chất phác, cần cù , khéo léo và có đời sống tinh thần phong phú, người Ba Na có nền văn hoá dân gian đặc sắc, trong đó âm nhạc cồng chiêng gắn liền với những sinh hoạt lễ hội truyền thống. Đối với người Ba Na, cồng chiềng không chỉ là biểu tượng linh thiêng trong thờ cúng mà còn là tài sản có giá trị trong đời sống vật chất. Âm vang của cồng chiêng là thứ không thể thiếu trong các lễ hội của đồng bào. Ông Đinh Srưm, dân tộc Ba Na sinh sống ở tỉnh Đắc Lắc, cho biết: Bản làng của người Ba Na có truyền thống đánh cồng chiêng lâu đời. Khi mà đến mùa ăn tết hay liên hoan, lễ hội thì phải có cồng chiêng đánh lên để thêm hào hứng. Bà con nghe tiếng chiêng cồng thì mừng. Tiếng cồng chiêng làm cho lòng người thêm phấn khởi.

Dân tộc Ba Na có nền âm nhạc rất phong phú. Nhạc cụ của Ba Na cũng rất đa dạng gồm cả bộ dây, bộ hơi và bộ gõ. Múa dân gian Ba Na trong đó có múa phục vụ nghi lễ và biểu diễn ở hội hè được nhiều người ưa chuộng. Trường ca, Truyện cổ của dân tộc Ba Na cũng là những tác phẩm dân gian cổ truyền độc đáo, có giá trị trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Đối với đồng bào Ba Na, nghề dệt thổ cẩm là một nét văn hoá độc đáo có từ rất lâu đời. Nghệ thuật trang trí của người Ba Na rất phong phú và độc đáo, thể hiện trên các loại hoa văn, hoạ tiết sống động trên trang phục, đồ đan. Hoạ tiết thổ cẩm được sử dụng nhiều ở áo, váy, chăn, đồ đan. Người Ba Na thường sử dụng các màu: đen, đỏ, trắng, tạo ấn tượng mạnh mẽ. Hoạ tiết đối xứng phản ánh quan niệm về vũ trụ, lý âm dương, trời đất và lấy thiên nhiên làm hình mẫu, nên thổ cẩm của người Ba Na không khác cảnh thiên nhiên thu nhỏ. Người phụ nữ Ba Na đều có rất thạo nghề dệt thổ cẩm truyền thống. Bà La Lan Thị Minh, nghệ nhân dệt thổ cẩm người Ba Na cho biết: Hồi tôi 14-15 tuổi là đã dệt đủ thứ rồi. Truyền thống là mình không có bỏ . Hồi xưa bà cố làm, người già bây giờ làm lại rồi mở lớp học mỗi đợt cho 2,3 chục em. Bây giờ chúng nó làm nó đẹt đẹp lắm, lại phát triển nghề dệt nữa

Người Ba Na có nhiều lễ hội như; Lễ tạ ơn cha mẹ, lễ đâm trâu, lễ bỏ mả, lễ tạ ơn thần lúa. Những lễ hội không chỉ là dịp để đồng bào tạ ơn trời đất cho vụ mùa bội thu mà còn là dịp vui chơi,đánh cồng chiêng, uống rượu cần...và cũng là dịp để người Ba Na thể hiện tài năng chế biến những món ăn vô cùng độc đáo. Được thưởng thức những món ngon của người Ba Na bên bếp lửa đỏ rực, bên những ché rượu cần thơm lựng nghe những người già kể về nguồn gốc của từng món ăn sẽ là những trải nghiệm thú vị đối với mỗi người./.