Bài tập sửa lỗi sai gerund và to ìn năm 2024

0% found this document useful (0 votes)

277 views

3 pages

Original Title

bai-tap-trac-nghiem-gerund-and-infinitive-phan-1.doc

Copyright

© © All Rights Reserved

Available Formats

DOC, PDF, TXT or read online from Scribd

Share this document

Did you find this document useful?

0% found this document useful (0 votes)

277 views3 pages

Bai Tap Trac Nghiem Gerund and Infinitive Phan 1

Jump to Page

You are on page 1of 3

Reward Your Curiosity

Everything you want to read.

Anytime. Anywhere. Any device.

No Commitment. Cancel anytime.

Bài tập sửa lỗi sai gerund và to ìn năm 2024

Nhà sáng lập Nền tảng luyện thi thông minh Prep. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong giảng dạy và luyện thi, Thầy Tú đã giúp hàng ngàn học viên đạt điểm cao trong kỳ thi IELTS. Bên cạnh đó, Thầy Tú Phạm cũng là chuyên gia tham vấn trong các chương trình của Hội Đồng Anh và là diễn giả tại nhiều sự kiện, chương trình và hội thảo hàng đầu về giáo dục.

Trong bài viết về Danh động từ, ta đã tìm hiểu về khái niệm của danh động từ cũng như chức năng của nó trong câu. Hay hiểu một cách nôm na, danh động từ là động từ nhưng được biến đổi và sử dụng như một danh từ. Tuy nhiên, trong Tiếng Việt, khi các động từ được sử dụng như một danh từ, thì cách viết của chúng vẫn không có gì thay đổi (Ví dụ: Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe => “Hút thuốc” được coi là chủ ngữ, đóng vai trò như danh từ, nhưng cách viết không có gì thay đổi so với động từ “Hút thuốc”). . Chính vì vậy, khi dịch sang Tiếng Anh, một số bạn sẽ quên mất không biến đổi cách viết của chúng, dẫn đến việc bị sai ngữ pháp.

Cùng xét câu sau:

Choose the right career is very important. (Việc lựa chọn ngành nghề đúng là rất quan trọng.)

Ở đây, “việc lựa chọn ngành nghề đúng” đóng vai trò là chủ ngữ trong câu “Việc lựa chọn ngành nghề đúng là rất quan trọng” với nội dung chính là “choose”. Tuy nhiên, vì đây là động từ nên nếu muốn dùng nó như danh từ (chủ ngữ phải là danh từ), cần phải có báo hiệu cho người nghe bằng cách thêm đuôi -ing vào cuối từ hoặc thêm to vào trước động từ đó.

Câu ví dụ trên sẽ được sửa thành:

Choosing/to choose the right career is very important.

Hoặc: It is very important to choose the right career. (Để biết tại sao to choose là chủ ngữ mà lại ở cuối câu, hãy xem link này)

Tương tự như vậy, hãy cùng tìm ra lỗi sai và sửa câu này nhé:

My favorite exercise is stretch.(Bài tập yêu thích của tôi là giãn cơ.) (1)

Ở đây, “giãn cơ” ở đằng sau từ “là” đóng vai trò như một danh từ. Đây là kiểu câu miêu tả hay gặp: A là B, trong đó cả A và B đều là người/vật, tức là phải là danh từ. Cũng giống như:

He is my lover. – Anh ấy là người yêu của tôi. (Cả “anh ấy” và “người yêu” đều là danh từ)

Vậy thì trong trường hợp như câu (1), động từ “stretch” cần được biến đổi khi được dùng như danh từ. Câu sẽ được sửa thành:

My favorite exercise is to stretch/stretching.

Ví dụ trên là danh động từ trong câu miêu tả thường gặp. Một lỗi sai phổ biến khác xuất hiện khi danh động từ đứng sau giới từ:

I am a big fan of work out. (Tôi là một fan lớn của việc tập luyện.)

Ở ví dụ này, cụm động từ “work out” đứng đằng sau giới từ “of” và được sử dụng như một danh từ. (việc gì – việc tập luyện) nên cần được biến đổi thành danh động từ. Câu trên sẽ được sửa thành:

I am a big fan of working out.

Bên cạnh đó còn xuất hiện lỗi sai khi danh động từ làm tân ngữ trong câu:

My brother likes eat hamburgers. (Anh trai tôi thích ăn hamburger.)

S V O

Thông thường khi dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, người học thường sẽ dịch từng từ một: “likes – thích”; “eat – ăn” dẫn đến lỗi sai về danh động từ. Ở đây, cả cụm “eat hamburgers” đóng vai trò như một tân ngữ trong câu với động từ “eat” là nội dung chính. Động từ này được sử dụng như một danh từ (Anh trai tôi thích cái gì/việc gì – việc ăn hamburger.) nên cần báo hiệu cho người đọc bằng cách thêm đuôi -ing vào cuối từ hoặc thêm “to” vào trước động từ đó. Câu trên sẽ được sửa thành:

My brother likes eating/to eat hamburgers.

Một lỗi sai khác cần lưu ý đó chính là về cấu trúc song song. Một số bạn mặc dù đã biến đổi đúng dạng từ nhưng lại quên mất những động từ khác sau đó. Chẳng hạn:

“My mother likes listening to music and do yoga. (Mẹ tôi thích nghe nhạc và tập yoga.)

Ở ví dụ trên, cả việc “nghe nhạc” và “tập yoga” đều là sở thích của mẹ nên đều cần biến đổi thành danh động từ. Bên cạnh đó, chúng được nối với nhau bởi từ “and” nên cần giống nhau về dạng từ (đằng trước là V-ing thì động từ đằng sau cũng phải chia như thế). Câu trên sẽ được sửa thành:

My mother likes listening to music and doing yoga.

2. Lỗi sai về chia động từ trong câu có Danh động từ

Đôi khi, danh động từ thường quá dài và gồm nhiều thành phần rắc rối nên chúng ta sẽ không biết phải chia theo danh từ nào. Nhiều bạn sẽ chọn chia theo người/vật đứng ngay trước động từ cần chia. Chẳng hạn:

Using these motorbikes are difficult.

Nhiều bạn thấy trước động từ “be” là “motorbikes” – một danh từ số nhiều, nên ngay lập tức chia động từ theo nó. Tuy nhiên, danh động từ “using” ở đây mới là phần chính nhất của chủ ngữ (Việc đó khó => Việc gì? => Việc sử dụng xe máy; chứ không phải: Xe máy khó). nên ta cần chia động từ theo “using”. Với những danh động từ đóng vai trò là chủ ngữ, ta cần chia nó theo ngôi thứ 3 số ít (Việc đó… = 1 việc => số ít).

Câu trên sẽ được sửa thành:

Using these motorbikes is difficult.

Tương tự như vậy:

Doing exercises and eating healthy food brings many benefits. (Tập thể dục và ăn thức ăn tốt cho sức khỏe đem lại rất nhiều lợi ích.)

Ở ví dụ trên, người viết chọn chia theo từ đứng ngay trước động từ cần chia là “food”. Tuy nhiên cần xác định xem đâu mới là thành phần chính của chủ ngữ: Chủ ngữ gồm 2 việc làm cụ thể nối với nhau bởi từ “and” là “doing exercises” và “eating healthy food” với danh động từ chính là “doing” và “eating”. Vì vậy, chủ ngữ ở đây gồm 2 thứ nên cần chia động từ ở dạng số nhiều: