100 doanh nghiệp thuộc sở hữu thiểu số hàng đầu năm 2022

Hiện nay, cổ đông có tỷ lệ vốn góp cổ phần nhỏ trong công ty cổ phần (CTCP) chiếm số lượng rất lớn, đặc biệt là từ khi xuất hiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Song song với mức phát triển về số lượng của cổ đông nhỏ là sự vi phạm quyền lợi của họ trong CTCP, trong đó quan trọng là quyền dự họp Đại hội cổ đông. Thông qua thực tiễn đã xảy ra tại các CTCP hiện nay, chúng tôi mong muốn sẽ có những phân tích và đánh giá đem lại tính khách quan khi xem xét vấn đề này.

=>> Xem thêm: Hướng dẫn về dịch vụ kế toán trọn gói

1. Cổ đông nhỏ là ai?

Cổ đông là những người góp vốn vào công ty. Muốn trở thành cổ đông CTCP, cá nhân hoặc tổ chức hoặc góp vốn thành lập công ty hoặc mua cổ phần từ cổ đông khác. Cổ đông có nhiều loại, tùy từng tiêu chí mà chúng ta có các loại cổ đông khác nhau. Dựa vào khối lượng vốn góp, chúng ta có cổ đông nhỏ và cổ đông lớn

1. Việc xác định cổ đông nhỏ hay cổ đông lớn không có ý nghĩa khi góp vốn, mà chỉ có ý nghĩa khi các cổ đông thực hiện quyền, nghĩa vụ.

Luật Doanh nghiệp 2005 (Luật DN) xác định cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu 10% tổng số cổ phần trở lên sẽ có thêm một số quyền khác so với cổ đông phổ thông

2. Đồng thời, Luật DN cũng quy định mức cổ đông sở hữu 5% tổng số vốn điều lệ có thể tham gia Hội đồng quản trị

3. Và mức này cũng là cơ sở để cổ đông phải đăng ký/báo cáo với cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền kể từ ngày có được tỷ lệ sở hữu đó

4. Luật Chứng khoán 2007 quy định: Cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành

5. Theo quy định của luật này, cổ đông nhỏ là cổ đông sở hữu dưới 5% tổng số cổ phần của công ty.

Như vậy, ở đây có sự chênh nhau giữa quy định của Luật DN và Luật Chứng khoán. Nhưng xét về mặt thời gian ban hành luật và tính hợp lý, chúng ta thấy tỷ lệ sở hữu 5% tổng số cổ phần là mốc hợp lý để xác định cổ đông nhỏ hay cổ đông lớn. Luật DN định tỷ lệ cổ phần sở hữu 10% (1/10 vốn điều lệ) là khá lớn, ngay cả tỷ lệ cổ phần sở hữu 5% (1/20 vốn điều lệ) theo Luật Chứng khoán cũng không phải nhỏ trong CTCP, đặc biệt là các công ty đại chúng. Bởi chúng ta thấy, các CTCP hiện nay vốn điều lệ rất lớn. Ví dụ: tỷ lệ sở hữu 0,1% cổ phần trong công ty PVFC Land đã là 500 triệu đồng và tỷ lệ 5% sẽ phải rất lớn; tỷ lệ 5% của CTCP nhựa Bình Minh là hơn 7 tỷ đồng…

Do vậy, chúng ta chấp nhận cổ đông nhỏ là cổ đông sở hữu tỷ lệ vốn góp dưới 5% tổng số cổ phần của CTCP mà cổ đông là thành viên.

Luật DN quy định quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông và một số đặc thù của những cổ đông hoặc nhóm cổ đông phổ thông có tỷ lệ vốn góp trên 10%. Luật không quy định cổ đông phổ thông nắm giữ bao nhiêu phần trăm tổng số cổ phần mà tất cả các cổ đông không thuộc các cổ đông ưu đãi là cổ đông phổ thông có quyền biểu quyết. Do vậy, cổ đông phổ thông sẽ bao gồm cả cổ đông nhỏ và cổ đông lớn. Các quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông là như nhau, bất kể họ là cổ đông nhỏ hay lớn.

Việc xác định cổ đông nhỏ và cổ đông lớn có ý nghĩa pháp lý rất to lớn để thực hiện và bảo vệ quyền của cổ đông nhỏ trong CTCP thông qua hình thức dự họp và tham gia biểu quyết tại Đại hội cổ đông.

2. Thực trạng quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ trong CTCP hiện nay

Tuy pháp luật đã quy định quyền dự họp Đại hội cổ đông của các cổ đông nhỏ cụ thể và chi tiết, nhưng việc thực hiện và đảm bảo thực hiện trên thực tế chưa được nghiêm chỉnh. Những điều tưởng chừng như vô lý, thiếu công bằng đã và đang diễn ra, bất chấp những quy định pháp luật và nỗi bức xúc của cổ đông nhỏ, trở thành những vấn đề nổi cộm hiện nay.

Điều 78, Điều 101 Luật DN quy định: Cổ đông phổ thông có quyền tham dự và phát biểu trong các Đại hội cổ đông…; mỗi cổ phần phổ thông có một phiếu biểu quyết;

Pháp luật quy định minh thị như vậy nhưng không ít CTCP đưa ra các yêu sách bắt buộc cổ đông phải có tỷ lệ sở hữu số cổ phần tối thiểu mới được tham gia Đại hội cổ đông. Chẳng hạn như PVFC Land yêu cầu phải sở hữu từ 0,1% vốn điều lệ trở lên (tương đương khoảng 500 triệu đồng) mới được tham dự. Một số đơn vị khác cũng yêu cầu cổ đông phải sở hữu tối thiểu hàng trăm triệu đồng mệnh giá cổ phiếu mới được tham dự Đại hội cổ đông thường niên như CTCP Dược phẩm TW2 (hơn 5.000 cổ phần), Licogi 18 (hơn 15.000 cổ phần), Lilama 18 (hơn 35.000 cổ phần), CTCP Đầu tư PV-Inconess (hơn 100.000 cổ phần, tương đương gần 1 tỷ đồng), Công ty Bia Thanh Hóa (hơn 5.000 cổ phần), CTCP Thương mại Bia Hà Nội (hơn 20.000 cổ phần) . Trường hợp gần đây nhất là CTCP Chế biến Xuất khẩu Thuỷ sản Minh Hải yêu cầu điều kiện tham dự Đại hội cổ đông phải sở hữu từ 5.000 cổ phần trở lên, các cổ đông sở hữu dưới 5.000 cổ phần phải tập hợp lại cử đại diện tham dự6.

Các cổ đông nhỏ bị hạn chế họp Đại hội cổ đông “đương nhiên” bị tước đi quyền cao quý nhất của cổ đông là quyết định một số nội dung Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. Dẫu biết rằng quyền tham gia đại hội cổ đông không đồng nhất với quyền biểu quyết có tính chất quyết định. Biểu quyết thông qua có tính chất quyết định dựa trên tỷ lệ cổ phần vốn góp. Nhưng đó là quyền theo quy định của pháp luật mà Hội đồng quản trị phải thực hiện, để họ thấy mình cũng là thành viên công ty, thấy mình là chủ sở hữu. Dự họp Đại hội cổ đông họ có quyền được nắm bắt thông tin, có ý kiến, có các quyền khác… và biểu quyết góp phần hình thành quyết định trong công ty.

Cổ đông nhỏ bị hạn chế quyền tham dự đại hội cổ đông, đồng nghĩa với việc mất đi quyền tiếp cận, trao đổi, chất vấn ban lãnh đạo thì không thể đảm bảo tính khách quan, công bằng. Dự họp Đại hội cổ đông, chí ít cổ đông cũng được nghe báo cáo về hoạt động hiện tại, nói lên nguyện vọng của cổ đông; đồng thời, những người điều hành công ty sẽ nghe tâm tư nguyện vọng của những ông chủ để xây dựng kế hoạch hoạt động của công ty. Không được quyền dự họp diễn ra thường xuyên sẽ làm cho các nhà đầu tư mất lòng tin vào những quy định của pháp luật, ngán ngại khi có ý định đầu tư và dần dần làm cho nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Đồng tiền nhàn rỗi không được đầu tư để phát triển kinh tế là điều không một nhà điều hành tài chính nào mong muốn. Nó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế.

Một hệ quả khác của việc không được dự họp Đại hội cổ đông là các cổ đông nhỏ không được chia xẻ ý kiến của mình đối với những người điều hành công ty. Đặc biệt liên quan đến việc chào bán cổ phần/cổ phiếu. Nếu các cổ đông nhỏ biết liên kết để hình thành nhóm cổ đông sở hữu đạt tỷ lệ 10% tổng số cổ phần, họ có quyền cử người vào Hội đồng quản trị. Có người là thành viên hội đồng quản trị, họ nắm bắt được thông tin và tham gia quyết định giá cổ phần chào bán ra bên ngoài – vấn đề nổi cộm hiện nay. Giá cổ phần chào bán liên quan đến lợi ích kinh tế. Do đó, có rất nhiều công ty quyết định giá cổ phần/cổ phiếu thấp hơn giá thị trường sao cho có lợi cho những cổ đông lớn, thành viên Hội đồng quản trị… Ví dụ như trong các công ty CTCP Giao nhận vận tải & thương mại (Vinalink), CTCP dịch vụ Sài Gòn – Savico (SVC),… Liên quan đến giá cổ phần/cổ phiếu, một số công ty cho phép cổ đông nhỏ mua cổ phần/cổ phiếu của công ty nhưng quy định giá mua của cổ đông nhỏ cao hơn nhiều lần giá mua của cổ đông lớn như CTCP vận tải xăng dầu (VIPCO)7. Những cổ đông nhỏ bị mất quyền lợi của mình ngay chính tại công ty mà mình là chủ sở hữu.

Theo Luật Chứng khoán của Australia, Uỷ ban Chứng khoán và đầu tư (Australian Sercurities and Investments Comission – ASIC) sẽ xem xét những trường hợp ưu ái cổ đông lớn. Nếu sự ưu ái đó bị những cổ đông nhỏ phản đối, ASIC sẽ phải vào cuộc để đòi lại sự công bằng cho cổ đông8. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, ở Việt Nam chưa có vụ việc nào được đưa ra phân xử, tạo ra tiền lệ xấu cho các doanh nghiệp lợi dụng để trục lợi cho một nhóm cổ đông lớn.

Ngược lại, một số CTCP như Ngân hàng Sacombank và Quỹ Đầu tư VF1 cho phép các cổ đông tham gia Đại hội cổ đông nhưng Ban điều hành hạn chế quyền chất vấn dưới nhiều hình thức khác nhau như: hạn chế thời gian chất vấn, chất vấn bằng ghi câu hỏi ra giấy và gửi lên bàn chủ toạ hoặc gửi và được trả lời công khai trên website của công ty… Trong khi các công ty khác như ACB, PDM…với hàng nghìn cổ đông đã đến dự Đại hội cổ đông đều được quyền chất vấn, trực tiếp đặt câu hỏi, không giới hạn thời gian. Bởi thời gian chất vấn của cổ đông nhanh hay chậm phụ thuộc vào cách trả lời của lãnh đạo doanh nghiệp có thuyết phục hay không và Ban lãnh đạo doanh nghiệp có tiếp thu ý kiến cổ đông một cách dân chủ hay không9. Không những thế, các cổ đông thường không yêu cầu cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán của công ty… hoặc cũng có thể họ chưa biết mình có quyền đó.

Quyền của cổ đông nhỏ hiện nay chưa được quan tâm, hoặc đôi khi bị vi phạm nhưng luật không quy định quyền cổ đông trực tiếp khởi kiện HĐQT – cơ quan triệu tập Đại hội cổ đông, nếu xét thấy cần thiết; cũng không quy định quyền của cổ đông yêu cầu Toà án xem xét miễn nhiệm thành viên HĐQT hoặc BKS trong trường hợp cần thiết. Luật hiện hành chỉ dành cho cổ đông phổ thông có 2 quyền tư pháp liên quan là: (1) có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty,… liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty10; và (2) quyền yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài xem xét, huỷ bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông trong một số trường hợp11. Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật DN quy định chỉ mang tính chung chung, chưa cụ thể. Hoạt động của doanh nghiệp rất nhiều và phức tạp, có bao gồm hoạt động triệu tập tham dự Đại hội cổ đông không? Quy định như vậy dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng gây khó khăn, trở ngại cho các cổ đông nhỏ khi thực hiện quyền khởi kiện, khiếu nại.

Tóm lại: Quyền lợi của cổ đông nhỏ theo quy định của pháp luật tại Điều 79 Luật DN rất nhiều nội dung, nhưng quan trọng là quyền dự họp Đại hội cổ đông thường niên của cổ đông. Bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ là quyền và nghĩa vụ của chính cổ đông, và còn là nghĩa vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Không thực hiện tốt việc bảo vệ quyền của cổ đông nhỏ ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, trước hết là hạn chế nguồn vốn đầu tư của xã hội, quan trọng hơn, đây là một trong mười tiêu chí mà WB đánh giá môi trường kinh doanh của Việt Nam. Bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ là từng bước lành mạnh hoá môi trường kinh doanh ở Việt Nam.

3. Một số nội dung hoàn thiện pháp luật về quyền dự họp của cổ đông nhỏ

Dự họp Đại hội cổ đông là quyền của cổ đông, bất kể là cổ đông nhỏ hay cổ đông lớn. Hội đồng quản trị CTCP không được viện dẫn lý do Điều lệ công ty quy định mức cổ phần đang nắm giữ của cổ đông để hạn chế triệu tập dự họp Đại hội cổ đông. Việc quy định bất kỳ mức tổi thiểu nào cũng vi phạm quy định tại điểm a, Khoản 1, Điều 79 của Luật DN. Do đó, việc đầu tiên là các CTCP phải sửa đổi Điều lệ công ty cho phù hợp với quy định của Luật DN. Các Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh phải thể hiện trách nhiệm của mình khi xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh hoặc hồ sơ thay đổi nội dung Bản điều lệ; đối với các Công ty đại chúng, Ủy ban Chứng khoán nhà nước yêu cầu các CTCP đảm bảo quyền lợi cho tất cả các cổ đông và có các kiến nghị cần thiết đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Một số công ty cho rằng đã thông qua ý kiến của các cổ đông khi áp dụng mức cổ phần tối thiểu, nhưng mọi thoả thuận trái với quy định của pháp luật đều không có giá trị pháp lý.

Khi các CTCP thực hiện theo đúng quy định của pháp luật thì quyền lợi của cổ đông nhỏ cũng chưa được thể hiện rõ nét trên thực tế. Bởi CTCP là công ty đối vốn, quyền quyết định thuộc cổ đông hoặc nhóm cổ đông có vốn chiếm tỷ lệ cao. Cổ đông góp vốn nhiều, chịu nhiều rủi ro thì đương nhiên họ sẽ được hưởng nhiều quyền lợi hơn. Đây là quy định hợp lý cả về mặt lý luận lẫn mặt thực tế nhưng phải có biện pháp bảo vệ quyền của cổ đông nhỏ trong CTCP. Vấn đề này, theo TS Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Nghiên cứu chính sách kinh tế vĩ mô (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương), các cổ đông có thể tập hợp nhau lại thành Câu lạc bộ của nhà đầu tư thiểu số, nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng nhau góp tiếng nói chung, nâng cao sức mạnh của mình22.

Tỷ lệ cổ phần/cổ phiếu của nhóm cổ đông thể hiện sức mạnh của mình là từ 10% trở lên. Với tỷ lệ này, nhóm cổ đông sẽ có các quyền quy định tại khoản 2, Điều 79, Luật DN:

– Đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát (nếu có);

– Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát;

– Yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này;

– Yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết.

– Và các quyền khác do điều lệ công ty quy định.

Nếu tỷ lệ cổ phần của nhóm cổ đông đạt hơn 20% tổng số cổ phần trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng, nhóm cổ đông còn có thể thực hiện các quyền quyết định quan trọng hơn nữa, có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với CTCP lâm vào tình trạng phá sản.

Chúng ta đã đề cập phần đầu, vi tỷ lệ vốn góp 10% để có các quyền tại khoản 2, Điều 79, Luật DN là khá cao. Trong thời gian tới, Luật DN nên được sửa đổi, điều chỉnh tỷ lệ này xuống còn 5%, vừa phù hợp với thực tế nguồn vốn điều lệ của các CTCP hiện nay, vừa tương đồng với quy định của Luật Chứng khoán ban hành năm 2007.

Quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ phải được đảm bảo bằng những biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp tư pháp. Bộ luật Tố tụng dân sự 2003 quy định: Cổ đông có quyền yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài xem xét, huỷ bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp: (1) Trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty; (2) Trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty13. Cổ đông nhỏ sẽ khởi kiện đến Toà án có thẩm quyền nếu Hội đồng quản trị không triệu tập họ dự họp. Nhưng các cơ quan có thẩm quyền phải hướng dẫn cụ thể để Các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi quyền của cổ đông nhỏ.

Các cổ đông nhỏ tham gia CTCP với vốn góp ít phải nghiên cứu kỹ càng về công ty, Bản điều lệ công ty và xác định mục đích của mình (cổ tức và lãi vốn chẳng hạn). Cổ đông nhỏ được luật pháp trao cho quyền nhất định để tự bảo vệ mình, nhưng cũng đừng quên quyền chỉ giới hạn trong số vốn góp.

Tóm lại, khi chúng ta có những cơ chế đảm bảo quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ là chúng ta bước đầu thực hiện quyền của họ. Bởi quyền dự họp Đại hội cổ đông là nền tảng để cổ đông nhỏ thực hiện các quyền khác của mình. Nhưng thực tế, quyền dự họp đang trở thành vấn đề nóng bỏng do các CTCP đang vi phạm. Thiết nghĩ, chúng ta cần chấn chỉnh lại việc thực thi Luật DN, sau đó phải có định hướng cho các cổ đông nhỏ biết liên kết, tự bảo vệ quyền của mình. Cuối cùng, quyền đó phải được bảo đảm từ phía các cơ quan bảo vệ pháp luật. Như thế, môi trường kinh doanh của Việt Nam chắc chắn sẽ được cải thiện trong thời gian tới.

Chú thích:

(1) Một số tài liệu còn được gọi là: cổ đông thiểu số và cổ đông đa số.

(2) Điều 79, khoản 2, 3, 4 Luật Doanh nghiệp 2005.

(3) Điều 110, khoản 1, điểm b Luật Doanh nghiệp 2005.

(4) Điều 86, khoản 4 Luật Doanh nghiệp 2005; Điều 29 Luật Chứng khoán 2007.

(5) Khoản 9 điều 6 Luật Chứng khoán.

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử

xem thêm:

  • Trách nhiệm hữu hạn của thành viên và cổ đông trong doanh nghiệp
  • Những lợi thế của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường

Những doanh nghiệp thuộc sở hữu đen hàng đầu ở Hoa Kỳ ngày nay là gì? Với nhiều doanh nghiệp thành công được tổ chức một cách riêng tư và không bắt buộc phải báo cáo thông tin chi tiết cho Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC) Báo cáo này tập trung vào các công ty giao dịch công khai.

Công cộng so với riêng tư

Nhiều doanh nghiệp thành công nhất thế giới là các công ty giao dịch công khai, như Amazon, ban đầu được công khai vào năm 1997 và có giá trị ròng là 1.446,82 tỷ đô la vào ngày 24 tháng 1 năm 2022. Điều đó nói rằng, một số công ty rất thành công đã chọn cách riêng tư để duy trì sự riêng tư để duy trì sự riêng tư Tránh sự giám sát và các quy định đi kèm với công khai. Cargill, ví dụ, đã hoạt động và vẫn riêng tư từ năm 1965; Tính đến năm 2021, Tập đoàn Thực phẩm Toàn cầu đã thu về doanh thu 134,4 tỷ đô la. Được cấp, quyền riêng tư hoạt động này có chi phí không thể bán cổ phiếu trên một sàn giao dịch công cộng, điều này có thể giúp một công ty phát triển hơn nữa. That said, some very successful companies chose to stay private to avoid the scrutiny and regulations that come with going public. Cargill, for instance, has been in operation and remained private since 1965; as of 2021, the global food corporation has already pulled in $134.4 billion in revenue. Granted, this operational privacy comes at the cost of not being able to sell stock on a public exchange, which could help a company grow even further.

Vì các công ty tư nhân không cần phải đáp ứng các yêu cầu nộp đơn nghiêm ngặt của SEC, có thể khó có được thông tin cụ thể về sự thành công của một doanh nghiệp tư nhân. Các công ty đại chúng, tuy nhiên, phải tuân thủ các quy tắc của SEC; Điều này cho phép chúng tôi tìm hiểu nhiều hơn về họ. Thật không may, SEC chỉ yêu cầu các doanh nghiệp tiết lộ dữ liệu hiệu quả tài chính, trong đó sẽ bao gồm các nhân khẩu học của cổ đông cần thiết để xác định xem một công ty có thuộc sở hữu thiểu số hay không.

Trong một minh chứng khác về các tác động kinh tế lâu dài của phân biệt chủng tộc có hệ thống, chỉ có 134.567 trong số khoảng 5,9 triệu doanh nghiệp sử dụng lao động tại Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2020 là sở hữu đen. Đó là khoảng 2,29% doanh nghiệp sử dụng lao động. Tuy nhiên, 41,1 triệu người da đen sống ở Hoa Kỳ vào cuối năm 2020 chiếm 12,4% tổng dân số. Yet the 41.1 million Black people living in the U.S. at the end of 2020 comprise 12.4% of the total population.

Khi bạn đến các công ty đại chúng, các con số thậm chí còn nhỏ hơn: trong số 3.671 công ty đại chúng ở Hoa Kỳ được báo cáo bởi Tạp chí Phố Wall năm 2017, chúng tôi đã tìm thấy tám công ty thuộc sở hữu đen. Điều đó đến khoảng 0,22% các công ty đại chúng.

Key Takeaways

  • Trong số 1,1 triệu doanh nghiệp sử dụng lao động tại Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2020, 134.567 thuộc sở hữu đen.
  • Chín mươi sáu phần trăm các doanh nghiệp thuộc sở hữu đen là các công ty không sử dụng, so với 80% của tất cả các doanh nghiệp nhỏ. Ba mươi hai phần trăm các công ty sử dụng lao động thuộc sở hữu đen thuộc ngành chăm sóc sức khỏe và dịch vụ xã hội.
  • Các doanh nhân da đen phải đối mặt với những trở ngại như quyền truy cập hạn chế vào vốn khởi nghiệp, ít kinh nghiệm quản lý và công nghiệp hơn và hoạt động trong các ngành công nghiệp giảm giá thấp hơn.
  • RLJ Lodging Trust, một trong những doanh nghiệp da đen thuộc sở hữu công khai lớn nhất, đã báo cáo tổng tài sản là 5,92 tỷ đô la vào tháng 6 năm 2020.

Điều gì làm cho một doanh nghiệp thuộc sở hữu đen?

Một biến chứng với việc phân loại quyền sở hữu của bất kỳ công ty đại chúng nào là nó có cổ đông. Điều gì làm cho một công ty đại chúng trở thành hoặc bất kỳ doanh nghiệp nào thuộc sở hữu của Black? Hội đồng Phát triển Nhà cung cấp Dân tộc thiểu số (NMSDC) định nghĩa một doanh nghiệp kinh doanh thiểu số (MBE) là một doanh nghiệp của người Hồi , trong trường hợp của một doanh nghiệp thuộc sở hữu công khai, ít nhất 51% cổ phiếu thuộc sở hữu của một hoặc nhiều cá nhân như vậy. Nói một cách đơn giản, quản lý và hoạt động hàng ngày nên được kiểm soát bởi chủ sở hữu thiểu số/cổ đông. NMSDC làm rõ thêm rằng một doanh nghiệp thuộc sở hữu đen là một doanh nghiệp có chủ sở hữu là một Công dân gốc Phi, người bao gồm cả người Mỹ gốc Phi và người nhập cư châu Phi.

Mặc dù xác định những gì cấu thành một công ty đại chúng thuộc sở hữu thiểu số, NMSDC không cung cấp bất kỳ dữ liệu cụ thể nào về số lượng các công ty đại chúng thuộc sở hữu đen đang hoạt động ở Hoa Kỳ, cũng như không có thông tin nào từ các nguồn chính thức khác. Tất cả các công ty đã được đưa vào bài viết này chủ yếu dựa trên tự báo cáo là các công ty đại chúng thuộc sở hữu đen.

Shomari Wills, một nhà báo và tác giả của Black Fortunes, một trong những người đọc thực sự của tạp chí Ebony, năm 2018. Ngoài ra, tôi sẽ đưa ra một cảnh báo cho các tình huống mà ai đó là một bên liên quan thiểu số, không phải là chủ sở hữu, nhưng họ đang hoạt động như một đối tác quản lý của công ty.

Và đây là hai thuật ngữ khác giúp xác định thị trường:

  1. Dựa trên cuộc khảo sát điều tra dân số gần đây nhất của Hoa Kỳ về các chủ doanh nghiệp, 96% doanh nghiệp thuộc sở hữu đen là các công ty không phải là công ty, so với 80% của tất cả các doanh nghiệp nhỏ. Các công ty không phải là người làm việc được định nghĩa là các doanh nghiệp không có nhân viên được trả lương và phải chịu thuế thu nhập liên bang. Vì các công ty này nói chung là nhỏ và có tác động kinh tế tối thiểu, nên họ bị loại khỏi hầu hết các thống kê kinh doanh của Cục điều tra dân số khác, gây khó khăn cho việc có được một bức tranh đầy đủ về bối cảnh kinh doanh đen ở Hoa Kỳ. Nonemployer firms are defined as “businesses that that have no paid employees and are subject to federal income tax.” As these firms are generally small and have minimal economic impact, they are left out of most other Census Bureau business statistics, making it difficult to acquire a full picture of the Black business landscape in the U.S.
  2. 4% còn lại của các doanh nghiệp thuộc sở hữu đen là các công ty sử dụng lao động. Theo Khảo sát kinh doanh hàng năm của Cục điều tra dân số, 29,5% các công ty sử dụng lao động thuộc sở hữu đen thuộc ngành dịch vụ chăm sóc sức khỏe và dịch vụ xã hội. According to the Census Bureau’s Annual Business Survey, 29.5% of Black-owned employer firms were in the healthcare and social services sector.

Tôi nghĩ rằng [các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và dịch vụ xã hội] cho vay đối với các doanh nghiệp dựa vào cộng đồng, có lịch sử khá rộng lớn .... cung cấp dịch vụ địa phương hoặc dịch vụ dựa vào cộng đồng là điều trở lại để phân biệt khi bạn không thể Không nhất thiết phải đi và mở một trung tâm kinh doanh nếu bạn là người da đen, vì vậy bạn phải xem xét các doanh nghiệp mà bạn có thể hoạt động trong cộng đồng của riêng mình, theo Will Wills giải thích.

Một số trong những doanh nghiệp dựa trên cộng đồng đã phát triển thành các công ty lớn: ba trong số tám công ty đại chúng thuộc sở hữu đen hàng đầu mà chúng tôi xác định là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.

Những thách thức đặc biệt đối với các doanh nghiệp thuộc sở hữu đen

Năm 1992, đã có 621.912 doanh nghiệp thuộc sở hữu đen ở Hoa Kỳ vào năm 2012, con số đó đã tăng lên 2,58 triệu, trước khi giảm xuống còn 1,1 triệu vào năm 2020 (trước đại học). Hai tháng sau, con số này đã giảm xuống còn 640.000. Thời gian thăng trầm là phổ biến cho tất cả các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nhân da đen tiếp tục gặp phải những trở ngại độc đáo gây khó khăn cho việc đạt được mức độ thành công tương đương với nhiều đối thủ cạnh tranh của họ, chẳng hạn như khả năng tiếp cận với vốn khởi nghiệp, ít kết nối hữu ích hơn và hoạt động trong các ngành công nghiệp doanh thu thấp hơn. By 2012, that number rose to 2.58 million, before decreasing to 1.1 million by 2020 (pre-pandemic). Two months later, this number had fallen to 640,000. Periods of ups and downs are common to all businesses. However, Black entrepreneurs continue to encounter unique obstacles that make it difficult to reach the same level of success as many of their competitors, such as a limited access to startup capital, fewer useful connections, and operating in lower-revenue industries.

Đô thị đen: Một nghiên cứu về cuộc sống của người da đen ở một thành phố phía bắc, được xuất bản năm 1945 bởi hai nhà xã hội học Mỹ được coi là một công trình nền tảng về chủ đề xã hội học và văn hóa người Mỹ gốc Phi. để điều tra & nbsp; tác động của việc tái tạo, thiên vị chủng tộc trong các công cụ ra quyết định chăm sóc y tế và & nbsp; lịch sử phân biệt đối xử cho vay & nbsp; tại Hoa Kỳ.

Thủ đô

Khoảng 44% chủ doanh nghiệp da đen dựa vào tiền mặt để tài trợ cho doanh nghiệp của họ, so với 37% cho chủ doanh nghiệp nhỏ trung bình. Tiền mặt là một phương tiện rủi ro hơn để tài trợ cho một doanh nghiệp, vì nó cũng cần thiết cho các khoản tiền thiết yếu và thanh toán hóa đơn, so với khoản vay thương mại, cho phép các chủ doanh nghiệp giữ lại nhiều tài sản thanh khoản của họ. Nhưng nhận được quyền truy cập vào các khoản vay là dễ dàng. Cash is a riskier means of financing a business, as it dips into funds also needed for essential items and paying bills, compared to a commercial loan, which allows business owners to retain much of their liquid assets. But getting access to loans isn’t easy.

Trong năm 2017, các ngân hàng có khả năng cung cấp các khoản vay kinh doanh cho các doanh nhân da trắng gấp đôi so với các đối tác đen của họ. Ngược lại, họ cũng có khả năng theo dõi gấp ba lần với các ứng viên da trắng so với các chủ doanh nghiệp da đen có trình độ hơn. Trong năm 2014, 28,4% doanh nhân da đen nhận thấy rằng lợi nhuận của họ bị ảnh hưởng tiêu cực khi tiếp cận vốn của họ, trong khi 22,6% bị ảnh hưởng tiêu cực bởi chi phí vốn thực tế. In 2014, 28.4% of Black entrepreneurs found that their profits were negatively impacted by their access to capital, while 22.6% were themselves negatively impacted by the actual cost of capital.

Theo báo cáo của & nbsp; các tạp chí kinh doanh, kể từ khi đạt đỉnh cao trước cuộc khủng hoảng tài chính 2007 2007 Từ chối trong 7 (a) các khoản vay được trao tổng thể. Báo cáo đã tìm thấy một xu hướng tổng thể cho vay ít hơn đáng kể cho các doanh nghiệp trong các khu phố đa số đen, so với các khu vực đa số trắng. Orv Kimbrough, Giám đốc điều hành (CEO) của Midwest Bankcentre, gọi vấn đề này là công ty tái lập.

Kết nối

Các chủ doanh nghiệp da đen có ít quyền truy cập vào các loại hình cố vấn và mạng lưới đồng đẳng có thể giúp phát triển một doanh nghiệp và họ ít có khả năng có kết nối gia đình có thể giúp đỡ. Trong một cuộc khảo sát năm 2017 được thực hiện bởi sự thịnh vượng hiện nay, 23,3% chủ sở hữu công ty da trắng đã có được kinh nghiệm làm việc trước đây như một phần của doanh nghiệp thành viên gia đình, so với 12,6% doanh nhân da đen.

Dòng tiền

Các công ty đen thường được tìm thấy trong các ngành công nghiệp có tiềm năng thu nhập thấp hơn, bao gồm các tiệm làm đẹp, & NBSP; chăm sóc trẻ em, dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà, dịch vụ bảo vệ và tiệm hớt tóc. Và ngay cả trong các lĩnh vực này, các doanh nghiệp da trắng vẫn có xu hướng kiếm được nhiều hơn là các doanh nghiệp thuộc sở hữu đen cạnh tranh.

Trong khi đó, các doanh nghiệp da đen trong các bộ phận sinh lợi hơn, bao gồm các văn phòng bác sĩ và sức khỏe tâm thần, hệ thống ống nước và sưởi ấm/điều hòa không khí, văn phòng của luật sư, và các nhà hàng dịch vụ đầy đủ, cũng kiếm được ít hơn so với các đối tác trắng.

Nhìn chung, các công ty thuộc sở hữu đen trung bình doanh thu 58.000 đô la trong năm 2017, trong khi các doanh nghiệp da trắng trung bình 546.000 đô la.

Các doanh nghiệp thuộc sở hữu đen được giao dịch công khai

Trong bối cảnh và mặc dù có những thách thức này, một số doanh nghiệp thuộc sở hữu đen đã trở thành các công ty đại chúng đáng kể. Dưới đây là một số doanh nghiệp thuộc sở hữu đen được giao dịch công khai lớn nhất, được tổ chức theo tổng tài sản.

Họ hoạt động trong một loạt các lĩnh vực: chăm sóc sức khỏe, tài chính, phát sóng và công nghệ. Hai được thành lập vào những năm 1940, hai năm 1979191980, và phần còn lại là các công ty thế kỷ 21.

RLJ Trust

  • Tổng tài sản (tháng 9 năm 2021): 5,12 tỷ đô la (September 2021): $5.12 billion
  • Tổng doanh thu (tháng 9 năm 2021): $ 547,57 triệu (September 2021): $547.57 million
  • Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (tháng 9 năm 2021): $ (1.81)$(1.81)
  • Năm thành lập: 20002000
  • Trụ sở: Bethesda, MD.Bethesda, Md.

Công ty thành công nhất được liệt kê ở đây, RLJ Lodging Trust (RLJ), là một ủy thác đầu tư bất động sản với danh mục đầu tư bao gồm 103 khách sạn trên khắp 23 tiểu bang và Quận Columbia. Được thành lập bởi Robert L. Johnson và Thomas J. Baltimore Jr. vào năm 2000 với tư cách là RLJ Development, RLJ Logging tập trung vào các khách sạn dịch vụ đầy đủ thương hiệu cao cấp, tập trung và làm việc đầy đủ để tận dụng tiềm năng tăng giá của họ. RLJ đã được giao dịch công khai cho đến năm 2011. Năm 2017, nó đã hoàn thành việc sáp nhập với Felcor Log Trust, cho phép nó có được 37 tài sản bổ sung. Danh mục đầu tư của công ty bao gồm một số thương hiệu nổi tiếng, chẳng hạn như Courtyard của Marriott, Residence Inn của Marriott, Hilton Garden Inn, Homewood Suites của Hilton, Đại sứ quán của Hilton, Hyatt Place và Wyndham.

Đô thị

  • Tổng tài sản (tháng 9 năm 2021): 1,24 tỷ đô la $1.24 billion
  • Tổng doanh thu (tháng 9 năm 2021): $ 310,50 triệu $310.50 million
  • Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (tháng 9 năm 2021): $ (0,29) $(0.29)
  • Năm thành lập: 1979 1979
  • Trụ sở: Mùa xuân bạc, MD.Silver Spring, Md.

Được thành lập bởi Cathy Hughes khi phát sóng Almic vào năm 1979, Radio One bắt đầu chỉ với một đài duy nhất: Wol-Am ở Washington, D.C. vào năm 1987, Radio One đã thêm một đài FM vào danh sách của mình: WMMJ, cũng ở Washington, D.C. Mười hai năm Sau đó, Radio One đã bán cổ phiếu đầu tiên của cổ phiếu phổ thông, biến Hughes trở thành người phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên đứng đầu một công ty giao dịch công khai. Từ 1999 đến 2000, Radio One đã mua thêm 35 đài phát thanh. Vào thời điểm công ty đổi tên thành Urban One (Uone và Uonek) vào năm 2017, nó đã mở rộng thành một tập đoàn đa phương tiện, với các thương hiệu bao gồm một mạng truyền hình (TV One, ra mắt năm 2004), hai nhóm radio Syndication (sau này, Reach Media, đã được mua lại vào năm 2005), một công ty truyền thông kỹ thuật số (một kỹ thuật số, ra mắt năm 2007) và một cơ quan nội dung có thương hiệu (một giải pháp, được tạo ra vào năm 2008). Sau đó, nó sẽ thêm một tạp chí kỹ thuật số tập trung vào truyền hình, Cleo TV, vào năm 2019. It would later add a television-focused digital magazine, CLEO TV, in 2019.

Ping Danh tính giữ

  • Tổng tài sản (tháng 9 năm 2021): $ 984,42 triệu $984.42 million
  • Tổng doanh thu (tháng 9 năm 2021): $ 224,03 triệu $224.03 million
  • Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (tháng 9 năm 2021): $ (0,47) $(0.47)
  • Năm thành lập: 2002 2002
  • Trụ sở chính: Denver Denver

Được thành lập bởi Andre Durand vào năm 2002, Ping Identity Holding (PING) chuyên về nhiều dịch vụ bảo vệ nhận dạng kỹ thuật số và kỹ thuật số thông qua nền tảng nhận dạng thông minh ping được đăng ký nhãn hiệu, bao gồm xác thực đa yếu tố, kiểm soát truy cập thông minh và quản lý dữ liệu nhận dạng. Vista Equity Partners đã mua lại công ty vào năm 2016 và sau đó đã công khai vào năm 2019. Ping Identity Holding có một khách hàng ấn tượng, bao gồm năm trong số các nhà bán lẻ hàng đầu ở Bắc Mỹ, bảy trong số các công ty chăm sóc sức khỏe lớn nhất và 13 trong số các ngân hàng lớn nhất của Hoa Kỳ. Vista Equity Partners bought out the company in 2016 and later took it public in 2019. Ping Identity Holding has an impressive clientele, which includes five of the top North American retailers, seven of the largest healthcare companies, and 13 of the largest U.S. banks.

Trị liệu máu toàn cầu

  • Tổng tài sản (tháng 9 năm 2021): $ 607,68 triệu $607.68 million
  • Tổng doanh thu (tháng 9 năm 2021): $ 138,65 triệu $138.65 million
  • Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (tháng 9 năm 2021): $ (3,45) $(3.45)
  • Năm thành lập: 2011 2011
  • Trụ sở chính: Nam San Francisco, Calif. South San Francisco, Calif.

Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), khoảng 100.000 người Mỹ đang sống với bệnh hồng cầu hình liềm (SCD); Một trong số 365 trẻ em da đen được sinh ra bị rối loạn di truyền này. Công ty dược phẩm sinh học Global Blood Therapeutics (GBT) đang dẫn đầu cáo buộc chống lại SCD bằng cách phát triển một số phương pháp điều trị và điều trị, ngoài việc nâng cao nhận thức và ủng hộ việc tăng khả năng tiếp cận chăm sóc. GBT đã hoàn thành đợt chào bán công khai ban đầu (IPO) chỉ bốn năm sau khi thành lập. Voxelotor của GBT (tên thương hiệu Oxbryta) cũng là phương pháp điều trị đầu tiên được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt để nhắm mục tiêu nguyên nhân cơ bản của SCD. Vào năm 2019, GBT đã hợp tác với Dược phẩm Syros để phát triển các liệu pháp mới cho cả SCD và beta thalassemia, một rối loạn máu khác. Biopharmaceutical company Global Blood Therapeutics (GBT) is leading the charge against SCD by developing several treatments and therapies, in addition to raising awareness and advocating for increased access to care. GBT completed its initial public offering (IPO) just four years after its founding. GBT’s voxelotor (brand name Oxbryta) is also the first treatment approved by the U.S. Food and Drug Administration (FDA) to target an underlying cause of SCD. In 2019, GBT partnered with Syros Pharmaceuticals to develop novel therapies for both SCD and beta thalassemia, another blood disorder.

Carver Bancorp

  • Tổng tài sản (tháng 9 năm 2021): 706,87 triệu đô la $706.87 million
  • Tổng doanh thu (tháng 9 năm 2021): 11,05 triệu đô la $11.05 million
  • Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (tháng 9 năm 2021): $ (0,49) $(0.49)
  • Năm thành lập: 19481948
  • Trụ sở chính: Thành phố New YorkNew York City

Carver Bancorp (CARV) là công ty cổ phần của Ngân hàng Tiết kiệm Liên bang Carver, một ngân hàng tiết kiệm được liên bang điều lệ. Được thành lập bởi một nhóm các nhà lãnh đạo cộng đồng và chủ doanh nghiệp nhỏ vào năm 1948, Carver cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng của người tiêu dùng và kinh doanh cho các cộng đồng người Mỹ gốc Phi truyền thống. Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã chỉ định Ngân hàng là một tổ chức tài chính phát triển cộng đồng (CDFI), do sự cống hiến của nó để phục vụ những người khác sẽ bị khóa khỏi hệ thống tài chính.

Broadway Financial Corp.

  • Tổng tài sản (tháng 6 năm 2021): 1,04 tỷ đô la $1.04 billion
  • Tổng doanh thu (tháng 6 năm 2021): 10,66 triệu đô la $10.66 million
  • Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (tháng 6 năm 2021): $ (0,06) $(0.06)
  • Năm thành lập: 19471947
  • Trụ sở chính: Los AngelesLos Angeles

Giống như Carver Bancorp, Broadway Financial Corp (BYFC) là công ty cổ phần của City First Bank, một CDFI khác. Ngân hàng Liên bang Broadway được thành lập vào năm 1947 với tư cách là Hiệp hội cho vay và tiết kiệm liên bang tại Broadway bởi một nhóm các nhà lãnh đạo dân sự ở Los Angeles, bao gồm cả nhà môi giới bất động sản H.A. Howard và nha sĩ Tiến sĩ H. Claude Hudson. Năm 2021, Ngân hàng Liên bang Broadway đã sáp nhập với Ngân hàng City First, nơi khiến nó trở thành tổ chức lưu ký thiểu số thuộc sở hữu đen lớn nhất (MDI) ở Hoa Kỳ.

Trị liệu Axsome

  • Tổng tài sản (tháng 9 năm 2021): $ 116,60 triệu $116.60 million
  • Tổng doanh thu (tháng 9 năm 2021): N/A N/A
  • Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (tháng 9 năm 2021): $ (2,57) $(2.57)
  • Năm thành lập: 2012 2012
  • Trụ sở chính: Thành phố New York New York City

Công ty lớn tiếp theo trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe trong danh sách này, Axsome Therapeutics (AXSM), cũng là một công ty dược phẩm sinh học. Được thành lập vào năm 2012 bởi Tiến sĩ Herriot Tabuteau, Axsome tập trung vào việc phát triển các liệu pháp mới để quản lý các rối loạn hệ thần kinh trung ương (CNS), trong đó các lựa chọn điều trị bị hạn chế. Các điều kiện mà các sản phẩm trị liệu axsome được thiết kế để điều trị bao gồm đau nửa đầu, chứng ngủ rũ, đau cơ xơ hóa, rối loạn trầm cảm chính (MDD) và sự kích động liên quan đến bệnh Alzheimer, ngoài việc điều trị cai thuốc. The conditions that Axsome Therapeutics’ products are designed to treat include migraines, narcolepsy, fibromyalgia, major depressive disorder (MDD), and Alzheimer’s disease-related agitation, in addition to smoking cessation treatment.

Dịch vụ bệnh viện chia sẻ của Mỹ

  • Tổng tài sản (tháng 9 năm 2021): 44,15 triệu đô la $44.15 million
  • Tổng doanh thu (tháng 9 năm 2021): 12,94 triệu đô la $12.94 million
  • Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (tháng 9 năm 2021): $ (0,00)$(0.00)
  • Năm thành lập: 1980 1980
  • Trụ sở chính: San Francisco San Francisco

Dịch vụ bệnh viện chia sẻ của Mỹ (AMS) hoạt động trong khía cạnh công nghệ của ngành chăm sóc sức khỏe bằng cách cung cấp thiết bị cho các bệnh viện và trung tâm y tế. Mặc dù người tiền nhiệm và quan hệ đối tác giới hạn California Ernest A. Bates, M.D., Ltd. (D/B/A American Shared Bệnh viện Dịch vụ để các tổ chức y tế có thể đủ khả năng cho công nghệ y tế tiên tiến mà thông thường có thể nằm ngoài tầm với của họ. Các dịch vụ bệnh viện chia sẻ của Mỹ chuyên về phẫu thuật phóng xạ, xạ trị chùm tia proton (PBRT) và liệu pháp xạ trị điều chế cường độ (IMRT) và thiết bị xạ trị hướng dẫn hình ảnh (IGRT). Thông qua công ty con về tài chính GK, Dịch vụ bệnh viện chia sẻ của Mỹ cũng là người dẫn đầu trên toàn thế giới về quyền sở hữu đơn vị dao Gamma, với mô hình tài chính liên quan đã được mở rộng để kết hợp tài chính cho các giải pháp công nghệ khác, như IMRT và PBRT. Although predecessor and California limited partnership Ernest A. Bates, M.D., Ltd. (d/b/a American Shared Hospital Services) was originally formed in 1980, American Shared Hospital Services wasn’t incorporated until 1983. The company offers several different financing solutions so that medical institutions can afford the state-of-the-art medical technology that ordinarily might be out of their reach. American Shared Hospital Services specializes in leasing radiosurgery, proton beam radiation therapy (PBRT), and intensity-modulated radiation therapy (IMRT) and image-guided radiation therapy (IGRT) equipment. Through its GK Financing subsidiary, American Shared Hospital Services is also the worldwide leader in Gamma Knife unit ownership, with the associated financing model having been expanded to incorporate the financing of other technology solutions, such as IMRT and PBRT.

Điểm mấu chốt

Nếu bạn đang tìm kiếm một cách khác để hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc sở hữu đen bên ngoài việc mua hàng hóa và/hoặc dịch vụ, hãy xem xét một trong những công ty này cho danh mục đầu tư của bạn.

Thư mục của các doanh nghiệp thuộc sở hữu đen

Để biết thêm thông tin về số lượng lớn các doanh nghiệp có quyền sở hữu màu đen, hãy tham khảo các trang web sau:

  • Phố Wall đen chính thức
  • Mua từ thư mục phụ nữ da đen
  • Thị trường thuộc sở hữu đen
  • Cửa hàng Etsy thuộc sở hữu đen
  • Bankblackusa
  • Doanh nghiệp đen là 100s: Các doanh nghiệp da đen lớn nhất quốc gia
  • Danh sách nhà hàng thuộc sở hữu đen của Bon Appétit, lưu hành trên Internet, được tổ chức bởi City

Công ty thuộc sở hữu thiểu số lớn nhất là gì?

Công ty ủy thác đầu tư bất động sản RLJ Trust là một trong những doanh nghiệp công cộng thuộc sở hữu đen lớn nhất ở Mỹ, với tài sản 5,92 tỷ đô la vào tháng 6 năm 2020. Các doanh nghiệp lớn đáng chú ý khác bao gồm World Wide Technology, một công ty tư vấn công nghệ toàn cầu;Salamander Resort & Spa, thuộc sở hữu của Sheila C.RLJ Lodging Trust is one of the largest Black-owned public businesses in America, with assets of $5.92 billion as of June 2020. Other notable big businesses include World Wide Technology, a global tech consulting firm; Salamander Resort & Spa, which is owned by Sheila C.

Công ty số 1 trong danh sách Black Enterprise 100 là gì?

Top 100.

Doanh nghiệp thuộc sở hữu thiểu số lớn nhất ở Hoa Kỳ là gì?

RLJ Lodging Trust, một trong những doanh nghiệp da đen thuộc sở hữu công khai lớn nhất, đã báo cáo tổng tài sản là 5,92 tỷ đô la vào tháng 6 năm 2020., one of the largest publicly owned Black businesses, reported total assets of $5.92 billion in June 2020.

Đen lớn nhất là gì

World Wide Technology là doanh nghiệp thuộc sở hữu đen lớn nhất trong cả nước.Công ty tư vấn công nghệ toàn cầu World Wide Technology là doanh nghiệp thuộc sở hữu đen lớn nhất, đăng doanh thu hơn 2 tỷ đô la trong năm 2016. is the largest Black-owned business in the country. Global tech consulting firm World Wide Technology is the largest Black-owned business, posting revenues of more than $2 billion in 2016.