Thông tư hướng dẫn nghị định 116 năm 2010 năm 2024

Tôi tên là Đinh Thị Hên Tôi xin hỏi về chế độ chính sách liên quan đến trợ cấp lần đầu theo Nghị định 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 và NĐ 76/CP ngày 08/10/2019. Nội dung như sau: Ngày 01/7/2015 tôi trúng tuyển công tác tại khoa nội Trung Tâm Y tế Huyện Vĩnh Thạnh thuộc thôn không đặc biệt khó khăn. Đến ngày 01/9/2019 chuyển công tác về trạm y tế xã Vĩnh Hảo thuộc xã đặc biệt khó khăn. Nhưng theo nghị định 116/CP thì chuyển công tác từ nơi khác chuyển đến nơi đặc biệt khó khăn phải đủ 3 năm với nữ và 5 năm với nam. Giao thời Nghị định 116/CP hết hiệu lực ngày 30/11/2019 và được thay thế bằng NĐ 76/Cp ngày 01/12/2019. Vậy tôi được áp dụng hưởng trợ cấp 10 tháng lương cơ sở theo nghị định nào? Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: Hên Email: [email protected] Địa chỉ: Vĩnh Hảo, Vĩnh Thạnh Số điện thoại: 0374603608 Lĩnh vực: Tài chính - Ngân sách Ngày gửi: 14/09/2020 Trả lời bạn đọc: vào ngày 01/10/2020

Theo như câu hỏi của bà thì có thể hiểu là đến thời điểm hiện tại bà chưa được nhận chi phí trợ cấp lần đầu (mức cấp bằng 10 tháng lương tối thiểu chung) theo quy định tại Khoản 1, Điều 6 của Nghị định 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ. Trường hợp này, Sở Tài chính phúc đáp câu hỏi của bà như sau: Đối với nội dung “Trợ cấp lần đầu” theo quy định tại Khoản 1, Điều 6 của Nghị định 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ, ngày 03/4/2017 Bộ Nội vụ có Công văn số 1784/BNV-TL hướng dẫn cụ thể như sau: “Cán cộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang được cơ quan có thẩm quyền quyết định đến công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn kể từ ngày 01/3/2011 (ngày Nghị định 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ có hiệu lực) được chi trợ cấp lần đầu ngay khi cán bộ, công chức, viên chức đên nhận công tác và được tính theo mức lương cơ sở do Chính phủ quy định tại thời điểm chi trả”. Đồng thời, căn cứ quy định tại Điều 5 Thông tư Liên tịch số 08/2011/TTLT-BNV-BTC ngày 31/8/2011 của Liên Bộ Nội vụ, Tài chính thì: Đối với “Trợ cấp lần đầu” sẽ do cơ quan, tổ chức, đơn vị ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nơi tiếp nhận, bố trí phân công công tác chi trả một lần. Ngày 08/10/2019 Chính Phủ ban hành Nghị định số 76/2019/NĐ-CP về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có hiệu lực từ ngày 01/12/2019 và thay thế Nghị định 116/2010/NĐ-CP. Theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 76/2019/NĐ-CP: cán bộ, công chức, viên chức khi nhận công tác lần đầu ở cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng trợ cấp lần đầu bằng 10 tháng lương cơ sở tại thời điểm nhận công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Như vậy, theo quy định và hướng dẫn nêu trên thì: Trạm y tế xã Vĩnh Hảo có trách nhiệm chi trả một lần cho bà tại thời điểm bà đến nhận công tác (ngày 01/9/2019) theo quy định tại Khoản 1, Điều 6 của Nghị định 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ. Trường hợp, bà chưa được nhận kinh phí “Hỗ trợ một lần” đến thời điểm hiện tại, bà có quyền yêu cầu Lãnh đạo Trạm y tế xã Vĩnh Hảo xem xét, căn cứ quy định tại Điều 6 Nghị định số 76/2019/NĐ-CP ngày 08/10/2019 của Chính Phủ để thực hiện chi trả cho bà đúng theo quy định (Mức hỗ trợ bằng 10 tháng lương cơ sở). Trên đây là ý kiến trả lời của Sở Tài chính, gửi đến bà Đinh Thị Hên. Xin trân trọng cảm ơn./.

Giải đáp các vướng mắc khi thực hiện các chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) trong ngành Thuế, Hải quan công tác tại vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, Bộ Tài chính hướng dẫn như sau:

Chỉ được hưởng một mức cao nhất của chính sách cùng loại

Căn cứ Điều 1 và Điều 3 Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ về chính sách đối với CBCCVC và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, thì CBCCVC thuộc đối tượng áp dụng của chính sách quy định tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP, đồng thời thuộc đối tượng áp dụng của chính sách cùng loại quy định tại văn bản quy phạm pháp luật khác thì chỉ được hưởng một mức cao nhất của chính sách đó.

Đối với các loại phụ cấp quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 11/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với CBCCVC và lực lượng vũ trang, nhưng không quy định tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP như phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt… thì thực hiện theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn.

Phụ cấp thu hút: Hưởng đủ 5 năm

Theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 10/2005/TTLT/BNV-BLĐTBXH-BTC ngày 5/1/2005 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thì thời gian hưởng phụ cấp thu hút được xác định trong khung thời gian từ 3 năm đến 5 năm. Chế độ phụ cấp thu hút được tính hưởng kể từ ngày 1/10/2004.

Theo quy định tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 08/2011/TTLT-BNV-BTC ngày 31/8/2011 của Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính thì thời gian hưởng phụ cấp thu hút là thời gian thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và không quá 5 năm. Chế độ phụ cấp thu hút được tính hưởng kể từ ngày 1/3/2011. Trường hợp đến công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ tháng 3 năm 2011 trở về trước và hiện nay còn đang công tác ở vùng đó thì được tính hưởng phụ cấp thu hút kể từ tháng 3/2011.

Do vậy, trường hợp từ trước đến nay vẫn đang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đến tháng 3/2011 đã hưởng phụ cấp thu hút đủ 5 năm theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP thì không được hưởng phụ cấp thu hút quy định tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP.

Trường hợp từ trước đến nay vẫn đang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đến tháng 3/2011 đã hưởng phụ cấp thu hút theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP nhưng chưa đủ 5 năm thì được tiếp tục hưởng phụ cấp thu hút quy định tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP (từ tháng 3/2011) cho đến khi đủ 5 năm theo quy định.

Về truy thu trợ cấp lần đầu đã lĩnh

Về vướng mắc trong việc chi trả, truy thu trợ cấp lần đầu đối với CBCCVC công tác chưa đủ thời gian theo quy định, theo Bộ Tài chính, chưa có căn cứ truy thu trợ cấp lần đầu đã lĩnh.

Bởi, Nghị định số 116/2010/NĐ-CP và Thông tư số 08/2011/TTLT-BNV-BTC quy định CBCCVC công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ đủ 3 năm trở lên đối với nữ và đủ 5 năm trở lên đối với nam được hưởng trợ cấp lần đầu bằng 10 tháng lương tối thiểu chung; nhưng không quy định về truy thu trợ cấp lần đầu đã chi trả đối với CBCCVC công tác chưa đủ thời gian theo quy định.