Sách so sánh blds 2023 và blds 2023

Cuốn sách do PGS.TS. Đoàn Đức Lương (Đại học Luật, Đại học Huế) và TS. Dương Quỳnh Hoa (Viện Nhà nước và Pháp luật) đồng chủ biên, do Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2020.

Sách so sánh blds 2023 và blds 2023
Chế định hợp đồng là chế định quan trọng bậc nhất trong Bộ luật Dân sự (BLDS), xét trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Ở Việt Nam đã sớm xác định vai trò và ý nghĩa của chế định này trong việc vận hành các yếu tố của nền kinh tế thị trường. Ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới, một loạt các văn bản điều chỉnh quan hệ hợp đồng đã ra đời, trong đó quan trọng nhất là Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991, BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005. Việc ban hành các văn bản pháp luật này có thể coi là những bước đi quan trọng về mặt lập pháp khẳng định vai trò và ý nghĩa đặc biệt của chế định hợp đồng trong đời sống xã hội cũng như quyết tâm của Việt Nam trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sau 10 năm thi hành BLDS năm 2005 cho thấy, mặc dù về cơ bản, các quy định về hợp đồng đã đi vào đời sống xã hội nhưng khi bước sang giai đoạn phát triển mới của đất nước, trước yêu cầu thể chế hóa Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược ccải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, lần thứ XII và đặc biệt là yêu cầu cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về công nhận, ton trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do kinh doanh, bao gồm tự do khế ước; về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã cho thấy những hạn chế, bất cập của chế định này. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả của BLDS nói chung, chế định hợp đồng nói riêng; ảnh hưởng đến môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, BLDS năm 2015 đã được thông qua tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII ngày 24/11/2015 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 thay thế cho BLDS năm 2005.

Trong quá trình xây dựng BLDS năm 2015, nhà làm luật đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là sửa đổi cơ bản và toàn diện chế định hợp đồng. Nhìn chung, chế định này đã có nhiều điểm mới tiến bộ. Các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng đã thể hiện quan điểm tăng cường quyền tự do hợp đồng thông qua việc các bên được toàn quyền quyết định về đối tác tham gia ký kết hợp đồng, hình thức hợp đồng, nội dung của hợp đồng và trách nhiệm của các bên khi có vi phạm. Những quy định về hợp đồng nói riêng và và BLDS nói chung được xem là cơ sở để cho các luật chuyên ngành làm căn cứ điều chỉnh mối quan hệ dân sự, tạo thành một hệ thống pháp luật thống nhất, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ khi áp dụng pháp luật vào điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng, góp phần tạo nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật. Do vậy, duy trì những nhận thức và chính sách, pháp luật truyền thống cũng như nhận thức mới và thống nhất về nội dung pháp luật được bổ sung trong BLDS mới rõ ràng là nhu cầu cấp thiết trong khoa học, trong đời sống pháp lý cũng như công tác giảng dạy, học tập tại các trường đào tạo pháp luật hiện nay.

Xuất phát từ tầm quan trọng của chế định hợp đồng đối với sự phát triển của hệ thống pháp luật nói chung, hệ thống luật tư nói riêng, cũng như đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nhu cầu giảng dạy, học tập, nghiên cứu luật dân sự, việc tìm hiểu nội dung của chế định này, tập thể các tác giả là các chuyên gia về pháp luật dân sự, các nhà nghiên cứu đã biên soạn cuốn “Bình luận chuyên sâu chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015”. Thông qua việc phân tích, bình luận những vấn đề chung về hợp đồng và từng điều luật quy định về một số hợp đồng cụ thể trong BLDS năm 2015, cuốn sách phản ánh quan điểm của các tác giả về những nội dung mới, những sửa đổi mang tính tích cực của Bộ luật, đồng thời cũng đề cập những vấn đề còn có thể có ý kiến đa chiều để bạn đọc tiếp cận.

Hy vọng cuốn sách sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho bạn đọc. Thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật trân trọng giới thiệu!

Bộ luật dân sự 2015 ra đời với nhiều điểm sửa đổi, bổ sung, làm mới. Vấn đề đại diện theo BLDS 2015 cũng có những điểm mới, khác biệt so với quy định trong BLDS 2005

Đại diện trong BLDS 2015

So sánh đối chiếu với đại diện trong BLDS 2005

Chủ thể quan hệ đại diện

Cá nhân, pháp nhân (Khoản 2 Điều 134 Bộ Luật dân sự 2015)

Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác (Khoản 2 Điều 139, Bộ Luật dân sự 2005)

BLDS 2005 có “chủ thể khác” bởi lẽ BLDS 2005 còn có hộ gia đình tổ hợp tác. BLDS 2015 không ghi nhận tổ hợp tác và hộ gia đình với tư cách chủ thể nữa.

Pháp nhân đại diên

Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. (Điều 134

+ Pháp nhân có thể đại diện cho cá nhân và pháp nhân khác

Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện

Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 của Bộ luật này.

+ Không thừa nhận khả năng đại diện của pháp nhân

(Điều 139)

Số người đại diện

Một người hay nhiều người cùng đại diện

Một người (Điều 139, BLDS 2005

Năng lực của người đại diên

Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện. (Khoản 3 Điều 134)

Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 (khoản 5 Điều 139)

Phân loại đại diện

Phân loại dựa vào cả căn cứ xác lập quyền và chủ thể đại diện

+ Đại diên theo pháp luật của cá nhân

+ Đại diện theo pháp luật của pháp nhân

+ Đại diện theo ủy quyền

Phân loại dựa vào tiêu chí căn cứ xác lập quyền (Theo pháp luật hay theo ủy quyền)

+ Đại diện theo pháp luật

+ Đại diện theo ủy quyền

Hình thức ủy quyền

Bỏ qua quy định về hình thức (vì nếu có quy định buộc ủy quyền theo một hình thức nhất định thì các quy định chung về giao dịch dân sự đã buộc phải tuân thủ)

Hình thức ủy quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản.

(khoản 2 Điều 142)

Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện

Điều 139 Bộ luật dân sự 2015 (mới ở khoản 2)

Người được đại diện có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập

(khoản 4 điều 139)

Thời hạn đại diện và phạm vi đại diện

Điều 140 BLDS 2015 Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật

Đại diện theo ủy quyền cũng như đại diện theo pháp luật

Quy định thời hạn 1 năm chỉ đối với đại diện theo ủy quyền

Không có quyền đại diện

Không nhập hai trường hợp trong cùng một điêu luật

+ Không có quyền đại diện: Điều 142

BLDS 2015 đã sửa từ “đồng ý” thành cụm từ “công nhận giao dịch” và bổ sung thêm hai trường hợp

+ Không có quyền đại diện

.Điều 142 BLDS 2005

Vượt quá phạm vi đại diện

+ Vượt quá phạm vi đại diện: Điều 143

Quy định thêm trường hợp: Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện.