Luyện tập yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận năm 2024

– Những từ ngữ mà đã thành công biểu lộ được tình cảm mãnh liệt của tác giả là: “muốn hòa bình”, “phải nhân nhượng”, “càng nhân nhượng, càng lấn tới”, “thà hi sinh, nhất định không chịu mất nước”, “nhất định không chịu làm nô lệ”, “phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, nhất định thắng lợi”.

– Những câu văn mang tính cảm thán là:

  • Không!
  • Hỡi đồng bào toàn quốc!
  • Hỡi anh em hình sĩ, dân quân, tự vệ!
  • Hỡi đồng bào!
  • Chúng ta phải đứng lên!
  • Việt Nam độc lập thống nhất muôn năm!

– Cách dùng từ ngữ của văn bản “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Bác Hồ Chí Minh và văn bản “Hịch tướng sĩ” của ông Trần Quốc Tuấn giống nhau ở việc sử dụng nhiều từ ngữ và những câu văn có giá trị biểu cảm cao.

b)

Nguyên nhân:

– Cả hai tác phẩm đều được viết ra với mục đích nghị luận chứ không phải là biểu cảm (nêu được quan điểm, ý kiến bàn luận đúng sai, phải trái, nêu lên được suy nghĩ, cách sống và cách hành động như thế nào).

– Ở hai văn bản này, các yếu tố biểu cảm thì không đóng vai trò chủ đạo mà chỉ mang tính chất phụ trợ cho vấn đề nghị luận đã được đưa ra.

  1. Các câu ở cột hai hay hơn các câu ở cột một vì có chứa những từ ngữ biểu cảm, những câu cảm thán làm cho câu văn trở nên giàu hình ảnh, giàu sự sinh động, gây được ấn tượng cho người đọc và người nghe.

Câu 2 (trang 96 | Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập hai)

Thông qua những việc tìm hiểu các văn bản như văn bản “Hịch tướng sĩ” và văn bản “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, em hãy cho biết là: Làm thế nào để phát huy được hết tác dụng của những yếu tố biểu cảm có trong văn nghị luận?

  1. Người làm văn chỉ cần phải suy nghĩ về luận điểm và lập luận hay còn phải thật sự cảm thấy xúc động trước từng điều mình đang nói tới?
  1. Chỉ có rung cảm không thôi thì đã đủ chưa? Phải chăng là chỉ cần có lòng yêu nước và lòng căm thù giặc nồng cháy là đã có thể dễ dàng tìm ra những cách nói như là: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả…” hay là “uốn lưỡi cú diều…”? Để viết được ra những câu như thế, người viết cần phải có những phẩm chất gì khác nữa?
  1. Có bạn thì cho rằng: Càng dùng nhiều từ ngữ biểu cảm, càng đặt thật nhiều câu cảm thán thì giá trị biểu cảm trong văn nghị luận càng tăng lên. Ý kiến ấy có đúng không? Giải thích lý do vì sao?

Hướng dẫn trả lời:

Phương pháp mà phát huy được tác dụng của những yếu tố biểu cảm có trong văn nghị luận:

  1. Người viết ngoài cái việc suy nghĩ về luận điểm, lập luận người viết còn phải thực sự xúc động trước những điều mình đang nói tới nữa.
  1. Chỉ rung cảm thôi là chưa đủ. Ngoài ra cần phải có một quan điểm rõ ràng để lập luận được một cách chính xác những vấn đề mà mình đang trình bày.
  1. Ý kiến chưa được chính xác. Các từ ngữ, các câu văn có giá trị biểu cảm thì chỉ mang tính hỗ trợ. Nếu sử dụng nhiều quá có thể sẽ khiến bài viết mang tính chủ quan, không có sự thuyết phục.

Tổng kết:

– Văn nghị luận rất là cần yếu tố biểu cảm. Yếu tố biểu cảm giúp cho một bài văn nghị luận có được hiệu quả thuyết phục lớn hơn, vì nó tác động mạnh mẽ tới tình cảm, cảm xúc của người đọc (và người nghe).

– Để bài văn nghị luận có thêm sức biểu cảm cao, người làm văn cần phải thật sự có cảm xúc trước những điều mà mình viết (hoặc nói) và phải biết diễn đạt cảm xúc đó bằng những từ ngữ, câu văn có sức truyền cảm. Sự diễn tả cảm xúc thì cần phải chân thực và không được phá vỡ, hoặc ngắt quãng mạch nghị luận của bài văn.

II. Luyện tập: Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận

Câu 1 (trang 97 | Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập hai)

Hãy chỉ ra các yếu tố biểu cảm được nêu ở trong phần I – “Chiến tranh” và “người bản xứ” (ở trong văn bản “Thuế máu”) và cho biết tác giả đã sử dụng trong bài những biện pháp gì để biểu cảm. Tác dụng biểu cảm đó là gì vậy?

Hướng dẫn trả lời:

a)

– Các yếu tố biểu cảm được sử dụng trong phần I – “Chiến tranh” và “người bản xứ” (ở trong văn bản “Thuế máu”) được thể hiện qua những hình ảnh so sánh, hình ảnh liên tưởng, những từ ngữ mang tính đối lập nhau:

  • “Những tên da đen bẩn thỉu” đối lập với cả “những đứa con yêu, những người bạn hiền, những chiến sĩ mà đang bảo vệ công lý và tự do”.
  • “Chiến tranh vui tươi” đối lập với cả “rời xa vợ con gia đình, phơi thây trên các bãi chiến trường”.
  • “Cảnh kì diệu của cái trò biểu diễn khoa học về vụ phóng ngư lôi” với “xuống tận đáy biển để mà bảo vệ tổ quốc của các loại thủy quái”.

Những hình ảnh liên tưởng:

  • Bỏ xác tại những miền thơ mộng, hoang vu.
  • Lấy máu mình để mà tưới lên những vòng nguyệt quế.
  • Khạc ra từng miếng phổi một.
  1. Tác dụng của những từ ngữ này

– Giúp cho người đọc thấy rõ được bộ mặt thâm độc, giả nhân giả nghĩa cũng như những âm mưu quỷ quyệt của cái bọn thực dân Pháp.

– Những từ ngữ này làm cho tăng lên tính mỉa mai, tính trào phúng của bài viết mạnh mẽ hơn.

Câu 2 (trang 97 | Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập hai)

Đọc đoạn nghị luận sau đây và hãy cho biết: Những cảm xúc gì mà đã được biểu hiện qua đoạn văn? Tác giả đã làm như thế nào để những đoạn văn đó không chỉ có mỗi sức thuyết phục lý trí mà còn gợi cảm?

Hướng dẫn trả lời:

– Đoạn trích đã thể hiện:

  • Nỗi buồn của tác giả – một nhà giáo tâm huyết với nghề dạy học – trước tình trạng học tủ, học vẹt của học sinh.
  • Những dằn vặt, những trăn trở của một nhà giáo trước một thực tế thật đáng buồn diễn ra trong đời sống giáo dục nước nhà từ trước đây.

– Tình cảm ấy thể hiện:

  • Từ ngữ bộc lộ cảm xúc là: giãi bày hết ra, nỗi khổ tâm, nói làm sao.
  • Câu văn mà thể hiện nỗi buồn, thể hiện được thái độ bất bình: “Sự học mà đã hạ xuống là học “tủ” thì chúng tôi cũng không còn cần làm việc cùng với các bạn nữa”.
  • Câu văn mang giọng điệu mỉa mai được sử dụng ở đây là: “Sao không có một “hãng”… đến trường?”.

Câu 3 (trang 97 | Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập hai)

Viết một đoạn văn nghị luận để trình bày được luận điểm “Chúng ta không nên học vẹt và học tủ” sao cho đoạn văn ấy vừa có những lí lẽ chặt chẽ, lại vừa có sức truyền cảm cao.

Hướng dẫn trả lời:

Học tủ và học vẹt đang là tình trạng rất chung của nhiều học sinh hiện nay. Đầu tiên, có thể hiểu rằng học vẹt là cách học làu làu mà không suy nghĩ, học mà không thể nắm rõ nội dung mình học là gì. Còn học tủ thì đơn giản là chỉ học cầu may, rủi, đoán đề mà thành công. Hai phương pháp học kể trên đều gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho người học. Nó khiến cho học sinh hổng nặng kiến thức, không nắm rõ được nội dung của bài học. Khi học mà chỉ dựa theo mô típ đã có sẵn, hoặc chờ đợi vào yếu tố may rủi sẽ hạn chế khả năng tư duy và sáng tạo. Chính vì lẽ đó mà mỗi chúng ta hãy ý thức được cho riêng mình về sự học quan trọng như thế nào. Hãy tìm ra cho bản thân một phương pháp học tập đúng đắn và phù hợp nhé.

Vậy là các em học sinh thân yêu đã cùng với HOCMAI soạn xong bài Soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận. Vậy là các em đã hiểu được cách sử dụng yếu tố biểu cảm sao cho hợp lý, phù hợp, sinh động trong một bài văn nghị luận rồi phải không nào.. Các em hãy đừng quên truy cập

Yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận là gì?

Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận được biểu hiện dưới các dạng thức như sau: - Tính khẳng định hay phủ định. - Biểu lộ các cảm xúc như yêu, ghét, căm giận, quý mến, khen, chê, lo âu. tin tưởng... - Giọng văn.

Các yếu tố chính của văn bản nghị luận là gì?

Nội dung và cấu trúc của một bài nghị luận được hình thành từ các yếu tố cơ bản là: vấn đề nghị luận ( luận đề ), luận điểm, luận cứ và lập luận.

Yếu tố miêu tả là như thế nào?

Còn yếu tố miêu tả là yếu tố dùng trong việc giúp người nghe, người đọc hình dung, hiểu được những đặc điểm, tính chất, tâm trạng của một vật một người hoặc cảnh vật,... Làm cho chúng hiện lên trước mắt người đọc qua sự liên tưởng, trí tưởng tượng.

Việc sử dụng các yếu tố biểu cảm trong văn bản có tác dụng gì?

Tác dụng của các yếu tố tự sự, biểu cảm là giúp cho bài viết thêm hấp dẫn hơn, giàu tính hình ảnh; người đọc có thể dễ dàng hòa vào suy nghĩ của người viết, cảm nhận được rõ hơn cảm xúc của người viết.