Chất lượng đào tạo là gì
đào tạo nào. Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về “chất lượng đào tạo” dựa trên các “góc nhìn” khác nhau: Chất lượng đào tạo được hiểu là mức độ đạt được mục tiêu đề ra đối với một chương trình đào tạo. (Lê Đức Ngọc, 2005) Chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về phẩm chất, giá trị, nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình theo các ngành nghề cụ thể (Trần Khánh Đức, 2004). Như vậy, mặc dù khó có thể đưa ra một định nghĩa về chất lượng trong đào tạo, song các nhà nghiên cứu cũng cố gắng tìm ra những cách tiếp cận phổ biến nhất. Cơ sở của các cách tiếp cận này xem chất lượng là khái niệm đa chiều, với những người ở cương vị khác nhau có thể có những ưu tiên khác nhau khi xem xét nó. Đối với cán bộ giảng dạy thì ưu tiên của khái niệm chất lượng đào tạo phải là ở quá trình đào tạo, còn đối với người học và những người sử dụng lao động, ưu tiên về chất lượng đào tạo của họ lại ở đầu ra, tức là trình độ, năng lực, và kiến thức của sinh viên khi ra trường… Có thể nói: “Chất lượng đào tạo phải được thể hiện trong mục tiêu đào tạo và đáp ứng càng nhiều ước muốn của các bên liên quan càng tốt”. Nhu cầu xã hội Kết quả đào tạo khớp với mục tiêu đào tạo Kết quả đào tạo phù hợp với nhu cầu sử dụng Kết quả đào tạo Sơ đồ 2.2: Sơ đồ quan niệm về chất lượng đào tạo (Nguồn: Trần Khánh Đức, 2004) 2.1.1.3. Quản lý chất lượng đào tạo “Quản lý chất lượng đào tạo là quá trình tổ chức thực hiện có hệ thống các biện pháp quản lý toàn bộ quá trình đào tạo nhằm đảm bảo không ngừng nâng cao Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 5 chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động” (Trần Khánh Đức, 2004) MỤC TIÊU ĐÀO TẠO Quá trình đào tạo CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO Kiến thức - Đặc trưng, giá trị nhân cách, nghề nghiệp. - Giá trị sức lao động - Năng lực hành nghề - Trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp Kỹ năng Thái độ (Theo chương trình đào tạo) NGƯỜI LAO ĐỘNG - Năng lực thích nghi với thị trường lao động - Năng lực phát triển nghề nghiệp Sơ đồ 2.3: Sơ đồ mối quan hệ giữa mục tiêu đào tạo và chất lượng đào tạo (Nguồn: Trần Khánh Đức, 2004) Trong đào tạo, quản lý chất lượng đào tạo là quá trình tổ chức thực hiện có hệ thống các biện pháp quản lý toàn bộ quá trình đào tạo nhằm đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu người sử dụng lao động (từ khâu tìm hiểu nhu cầu thị trường lao động, thiết kế chương trình đào tạo đến khâu tuyển sinh, tổ chức đào tạo và kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo). Trường học là nơi tạo ra chất lượng đào tạo, nơi đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo. Đảm bảo nâng cao chất lượng đào tạo là trách nhiệm của mỗi giáo viên, mỗi cán bộ, công nhân viên. Trong đào tạo, quản lý chất lượng đào tạo là quá trình tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý toàn bộ quá trình đào tạo nhằm đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu trong cơ chế thị trường. Nhà trường là khâu đóng vai trò quyết định đối với việc đảm bảo và nâng cao chất lượng. Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 6 Thực hiện được mục tiêu quản lý chất lượng sẽ tạo cơ sở vững chắc để thực hiện các mục tiêu khác của Nhà trường như: Nâng cao sức cạnh tranh tạo uy tín và thương hiệu của Nhà trường, mục tiêu ổn định và phát triển. Nhà trường cần có các chức năng chủ yếu sau đây về quản lý chất lượng đào tạo. - Hiện trưởng hướng dẫn đôn đốc kiểm tra để đạt được mục tiêu chất lượng. - Lập mục tiêu kế hoạch và nhiệm vụ chất lượng. - Xác định đổi mới giáo trình phù hợp với nhu cầu, cơ cấu cán bộ và trình độ giáo viên cần phải có để đảm bảo chất lượng đào tạo. - Phân phối hoạt động giữ các phòng, khoa một cách khoa học. - Kiểm soát, kiểm tra chất lượng đào tạo (theo giáo trình quản lý chất lượng trong các tổ chức). 2.1.1.4. Đánh giá chất lượng đào tạo Đánh giá trong giáo dục đào tạo là một quá trình hoạt động được tiến hành có hệ thống nhằm xác định mức độ đạt được của đối tượng quản lý về mục tiêu đã định. Chất lượng đào tạo như đã trình bày ở phần trên, là một khái niệm động, đa chiều, và gắn với các yếu tố chủ quan thông qua quan hệ giữa người và người, do vậy không thể dùng một phép đo đơn giản để đánh giá. Việc đánh giá, đo lường chất lượng có thể được tiến hành bởi chính cán bộ giảng dạy, sinh viên của trường nhằm mục đích tự đánh giá các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo cũng như đánh giá bản thân chất lượng đào tạo của trường mình. Hoặc việc đánh giá, đo lường chất lượng cũng có thể được tiến hành từ bên ngoài do các cơ quan hữu quan thực hiện với các mục đích khác nhau (khen - chê, xếp hạng, khuyến khích tài chính, kiểm định công nhận…) Dù đối tượng của việc đo lường, đánh giá chất lượng là gì và chủ thể của việc đo lường, đánh giá là ai thì việc đầu tiên, quan trọng nhất vẫn là xác định mục đích của việc đo lường, đánh giá. Từ đó mới xác định được việc sử dụng phương pháp cũng như các công cụ đo lường tương ứng. Mục đích của đánh giá trong giáo dục hết sức đa dạng tuỳ thuộc vào đặc thù của từng trường, sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và cả tuỳ thuộc vào quan điểm đánh giá của các chủ thể. Ví dụ, nếu mục đích của giáo dục đào tạo đại học, cao đẳng là cung cấp nguồn lao động Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 7 được đào tạo cho xã hội thì chất lượng ở đây sẽ được xem là mức độ đáp ứng của sinh viên tốt nghiệp đối với thị trường lao động. Còn nếu lấy chương trình, muc tiêu đào tạo làm cơ sở đánh giá thì chất lượng sẽ được xem xét trên góc độ là khối lượng kiến thức, kỹ năng mà khoá học đã cung cấp, mức độ nắm bắt và sử dụng các kiến thức và kỹ năng của sinh viên sau khoá học. Đánh giá chất lượng đào tạo còn nhằm mục đích đảm bảo với những đối tượng tham gia vào công tác giáo dục rằng một chương trình đào tạo, hay một trường, khoa nào đó chưa đạt, đã đạt hay vượt mức những chuẩn mực nhất định về chất lượng. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ, thách thức, cơ hội đối với các cơ sở đào tạo và đề xuất các biện pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng đào tạo. Kiến nghị với các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong công việc hoạch định các chính sách hỗ trợ cho nhà trường không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo của mình. Các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo trường cao đẳng - Tiêu chuẩn 1: Sứ mạng và mục tiêu của trường cao đẳng - Tiêu chuẩn 2: Tổ chức và quản lý - Tiêu chuẩn 3: Chương trình đào tạo - Tiêu chuẩn 4: Hoạt động đào tạo - Tiêu chuẩn 5: Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên - Tiêu chuẩn 6: Người học - Tiêu chuẩn 7: Nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ - Tiêu chuẩn 8: Thư viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác - Tiêu chuẩn 9: Tài chính và quản lý tài chính - Tiêu chuẩn 10: Quan hệ giữa nhà trường và xã hội 2.1.2. Các lý thuyết liên quan đến chất lượng đào tạo 2.1.2.1. Các mô hình quản lý chất lượng đào tạo a. Mô hình quản lý chất lượng theo ISO 9000 ISO (International Organization Sandardization) - Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá với gần 200 quốc gia thành viên trong đó có Việt Nam. ISO không quy Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 8 định những tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm mà chỉ đưa ra những hướng dẫn, các định mức về quản lý chất lượng sản phẩm. ISO 9000 là sự kế thừa các tiêu chuẩn đã tồn tại và được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. ISO 9000 cũng đã được áp dụng vào giáo dục với yêu cầu cơ bản là hình thành ở các cơ sở đào tạo hệ thống quản lý chất lượng theo tư tưởng đảm bảo tính liên tục của các quá trình. Quá trình xây dựng hệ thống chất lượng là quá trình hết sức quan trọng. Quá trình này gồm bốn giai đoạn chủ yếu: Giai đoạn 1: Phân tích tình hình và hoạch định. Giai đoạn 2: Viết các tài liệu của hệ thống chất lượng Giai đoan 3: Thực hiện và cải tiến. Giai đoạn 4: Công nhận. Mô hình này có ưu điểm là quản lý được toàn bộ các khâu, các giai đoạn, các hoạt động của quá trình đào tạo, nhất là các khâu, các hoạt động có thể dễ dàng lượng hoá được như phát triển đội ngũ giảng viên, xây dựng trường sở, xây dựng chương trình đào tạo,.... Hơn thế nữa, sản phẩm đào tạo không chỉ đáp ứng mục tiêu của nhà trường mà còn thoả mãn nhu cầu của người sử dụng lao động. Tuy nhiên, việc vận dụng ISO 9000 vào trong quản lý giáo dục không đơn giản vì việc thực hiện ISO đòi hỏi mọi cá nhân, từ người lãnh đạo đến các thành viên từng bộ phận phải hành động một cách đồng bộ. Hơn nữa, không như trong quản lý sản xuất hoặc kỹ thuật, quản lý giáo dục là quản lý con người, trong đó luôn diễn ra quan hệ người - người hết sức phong phú, sinh động và cũng rất phức tạp. Rất nhiều biểu hiện không cân đong, đo đếm được. Vì những lý do đó, muốn áp dụng ISO 9000 trong quản lý giáo dục thì trước hết cần làm cho mọi người hiểu thế nào là ISO 9000, lợi ích của nó trong quản lý giáo dục. Đồng thời xác định phạm vi, mức độ có thể áp dụng ISO 9000 trong tổ chức của mình. b. Mô hình quản lý chất lượng tổng thể (TQM) Quản lý chất lượng tổng thể (total quality management - TQM) là cách tiếp cận về quản lý chất lượng ở mọi công đoạn trong quá trình nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả chung của tổ chức. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau của nhiều tác giả, nhưng nhìn chung mọi người đều cho rằng TQM là sự lưu tâm đến Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 9 chất lượng trong tất cả các hoạt động, là sự hiểu biết, sự cam kết, hợp tác của toàn thể thành viên trong tổ chức, nhất là ở cấp lãnh đạo. Mô hình quản lý chất lượng tổng thể là một mô hình cũng có xuất xứ từ thương mại và công nghiệp nhưng tỏ ra phù hợp hơn với giáo dục đại học, cao đẳng. Đặc trưng của mô hình TQM là ở chỗ nó không áp đặt một hệ thống cho bất kỳ cơ sở đào tạo nào. Khi áp dụng TQM vào quản lý giáo dục nói chung, quản lý nhà trường nói riêng, đây thực sự là công cụ tốt hỗ trợ cho thiết chế tổ chức, bởi vì: - Mỗi người đều có vai trò nhất định trong chu trình đó với yêu cầu chất lượng cao, vì vậy có sự phân cấp từ người lãnh đạo (Hiệu trưởng nhà trường) đến từng bộ phận (Phòng chức năng, khoa) và cá nhân (Cán bộ, giảng viên, sinh viên..). Mọi người đều trở thành người tự quản thực hiện công việc của mình với những yêu cầu chặt chẽ của hệ thống quản lý chất lượng. - Cải tiến từng bước, cải tiến liên tục, hoạt động của mọi người đều hướng tới chất lượng theo mục tiêu của nhà trường. Vì vậy TQM có thể áp dụng với các nội dung quản lý giáo dục khác nhau, từ công tác đào tạo đến hoạt động nghiên cứu khoa học, từ quản lý tài chính đến quản lý học sinh sinh viên... c. Mô hình các yếu tố tổ chức (Organizational Elements Model) Mô hình này đưa ra 5 yếu tố để đánh giá như sau: - Đầu vào : Sinh viên, cán bộ trong trường, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, quy chế, luật định, tài chính... - Quá trình đào tạo: Phương pháp và quy trình đào tạo, quản lý đào tạo... - Kết quả đào tạo: Mức độ hoàn thành khóa học, năng lực đạt được và khả năng thích ứng của sinh viên. - Đầu ra: Sinh viên tốt nghiệp, kết quả nghiên cứu và các dịch vụ khác đáp ứng nhu cầu kinh tế và xã hội. - Hiệu quả: Kết quả của giáo dục đại học và ảnh hưởng của nó đối với xã hội. Dựa vào 05 yếu tố đánh giá trên các học giả đã đưa ra 05 khái niệm về chất lượng giáo dục đại học như sau: - Chất lượng đầu vào: Trình độ đầu vào thỏa mãn các tiêu chí, mục tiêu đề ra. Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 10 - Chất lượng quá trình đào tạo: Mức độ đáp ứng yêu cầu của quá trình dạy và học và các quá trình đào tạo khác. - Chất lượng đầu ra: Mức độ đạt được của đầu ra (sinh viên tốt nghiệp, kết quả nghiên cứu khoa học và các dịch vụ khác) so với Bộ tiêu chí hoặc so với các mục tiêu đã định sẵn. - Chất lượng sản phẩm: Mức độ đạt các yêu cầu công tác của sinh viên tốt nghiệp qua đánh giá của chính bản thân sinh viên, của cha mẹ, của cơ quan công tác và của xã hội. - Chất lượng giá trị gia tăng: Mức độ năng lực của sinh viên tốt nghiệp (kiến thức, kỹ năng, quan điểm) đóng góp cho xã hội và đặc biệt hệ thống giáo dục đại học. 2.1.2.2. Các quan điểm đánh giá chất lượng đào tạo a. Chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “Đầu vào” Quan điểm này cho rằng: “Chất lượng một trường đào tạo phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của trường đó”. Quan điểm này được gọi là “Quan điểm nguồn lực”, có nghĩa là: Nguồn lực = Chất lượng. Theo quan điểm này, một trường đại học, cao đẳng tuyển được sinh viên giỏi, có nguồn tài chính cẩn thiết để trang bị các phòng thí nghiệm, giảng đường, các thiết bị tốt nhất được coi là trường có chất lượng cao. Quan điểm này đã bỏ qua quá trình tổ chức và quản lý và đào tạo diễn ra rất đa dạng và liên tục trong một khoảng thời gian. Sẽ khó giải thích trường hợp một trường đã có nguồn lực "đầu vào" dồi dào nhưng chất lượng đầu ra hạn chế hoặc ngược lại. Theo cách đánh giá này, cho rằng dựa vào chất lượng nguồn lực đầu vào có thể đánh giá được chất lượng đầu ra. b. Chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “Đầu ra” "Đầu ra" là kết quả, là sản phẩm của quá trình đào tạo được thể hiện bằng năng lực, chuyên môn nghiệp vụ, sự thành thạo trong công việc hay khả năng cung cấp các dịch vụ của cơ sở đào tạo đó. Có quan điểm cho rằng "đầu ra" của quá trình đào tạo có tầm quan trọng hơn nhiều so với "đầu vào". Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 11 Có thể hiểu là kết quả của quả trình đào tạo và được thể hiện ở các phẩm chất, giá trị nhân cách, năng lực hành nghề của người tốt ghiệp tương ứng với mục tiêu đào tạo của từng ngành đào tạo. Với yêu cầu đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động, quan niệm về chất lượng đào tạo không chỉ dừng lại ở kết quả của quá trình đào tạo trong nhà trường mà còn phải tính đến mức độ thích ứng và phù hợp của người tốt nghiệp với thị trường lao động như tỷ lệ có việc làm sau khi ra trường, khả năng làm chủ và vị trí của người đó trong doanh nghiệp. c. Chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “Giá trị gia tăng” Quan điểm thứ ba về chất lượng giáo dục đào tạo cho rằng một trường đại học có chất lượng đào tạo cao khi trường đó tạo ra được sự khác biệt trong sự phát triển về trí tuệ và cá nhân của sinh viên. “Giá trị gia tăng” được xác định bằng giá trị “đầu ra” trừ đi giá trị “đầu vào”, kết quả thu được là giá trị gia tăng mà trường học đã đem lại cho sinh viên và được cho rằng đó là chất lượng đào tạo của trường. Quan điểm này chỉ tồn tại về mặt lý thuyết vì trên thực tế rất khó có thể thiết kế một thước đo thống nhất về mặt định lượng để đánh giá chất lượng "đầu vào" và "đầu ra" từ đó tìm ra mức chênh lệch để đánh giá chất lượng đào tạo. d. Chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “Giá trị học thuật” Đây là quan điểm truyền thống của nhiều trường học phương tây, chủ yếu dựa vào sự đánh giá của các chuyên gia về năng lực học thuật của đội ngũ giảng viên trong từng trường trong quá trình thẩm định, công nhận chất lượng đào tạo của trường. Điều này có nghĩa là trường nào có đội ngũ giảng viên có học vị, học hàm cao, có uy tín khoa học lớn thì được xem là trường có chất lượng cao. Hạn chế của quan điểm này là ở chỗ, cho dù năng lực học thuật có thể được đánh giá một cách khách quan, thì cũng khó có thể đánh giá những cuộc cạnh tranh của các trường để nhận tài trợ cho các chương trình nghiên cứu trong môi trường không thuần học thuật. Ngoài ra, liệu có thể đánh giá được năng lực chất xám của đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu khi có xu hướng chuyên ngành hóa ngày càng sâu, phương pháp luận ngày càng đa dạng. Đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục hiện nay có quá nhiều các trường trung cấp, cao đẳng, đại học, xu thế đa dạng hóa ngành Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 12 nghề, lĩnh vực đào tạo; sự buông lỏng trong quản lý cũng như khả năng quản lý yếu kém trong giáo dục đã làm cho số lượng các học thuật mà các trường sở hữu tăng những chất lượng cũng đang báo động. e. Chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “Văn hoá tổ chức riêng” Quan điểm này dựa trên nguyên tắc các trường đại học, cao đẳng phải tạo ra văn hoá tố chức riêng” với những nét đặc trưng quan trọng là không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Quan điểm này được mượn từ lĩnh vực công nghiệp và thương mại. f. Chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “Kiểm toán” Quan điểm này về chất lượng đào tạo xem trọng quá trình bên trong của các trường đại học, cao đẳng và nguồn thông tin cung cấp cho việc ra quyết định. Kiểm toán chất lượng quan tâm xem các trường đại học cao đẳng có thu thập đủ thông tin phù hợp và người ra quyết định có đủ các thông tin cần thiết không, quá trình thực hiện các quyết định về chất lượng có hợp lý và hiệu quả không. 2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo Đào tạo các ngành học đại học, cao đẳng là bậc học đào tạo nghề nghiệp chuyên sâu, phục vụ yêu cầu của nền kinh tế tri thức, tạo nguồn lực lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn cao. Chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng thể hiện chiến lược về con người của một quốc gia. Vì vậy, chất lượng đào tạo nói chung và chất lượng đào tạo các ngành học đại học, cao đẳng nói riêng là vấn đề trăn trở của mỗi quốc gia. Có 5 yếu tố tác động rất lớn đến chất lượng đào tạo, đó là: - Trình độ và kinh nghiệm của giảng viên - Chương trình đào tạo - Công tác quản trị trường - Cơ sở vật chất và các phương tiện phục vụ giảng dạy, học tập - Chất lượng tuyển sinh đầu vào Nội dung ảnh hưởng cụ thể của các yếu tố như sau: Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 13 2.1.3.1. Trình độ và kinh nghiệm của giảng viên Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục là “Trình độ và kinh nghiệm của giảng viên”. Dân gian nói “Không thầy đố mày làm nên” vẫn nguyên giá trị, chất lượng người thầy quyết định chất lượng giáo dục. Dạy học là quá trình người thầy truyền đạt cho học sinh, sinh viên hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm phát triển năng lực trí tuệ và hình thành thế giới quan cho họ. Đối tượng của quá trình dạy học là học sinh, sinh viên - con người với sự đa dạng về nhận thức, quan điểm, tình cảm... làm cho quá trình dạy học trở thành hoạt động rất khó khăn và phức tạp. Người thầy không thể dạy tốt được nếu chỉ nắm vững kiến thức của một môn học, có nghĩa là ngoài kiến thức của môn học người thầy phải hiểu biết nhiều lĩnh vực khác như: Kiến thức của các môn học khác có liên quan, kiến thức về tâm lý, giao tiếp, xử lý các tình huống sư phạm... Vì vậy, đối với giáo viên, thời gian và kinh nghiệm giảng dạy là một vốn quý, có vai trò rất lớn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo. Giảng dạy là quá trình truyền đạt tri thức, vấn đề quan trọng là người thầy phải nắm vững kiến thức; biết mười dạy một, hai là thể hiện người thầy có kiến thức. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn là phải làm cho kiến thức của thầy trở thành kiến thức của trò, có nghĩa là trò phải tiếp thu tốt kiến thức của thầy. Điều này có quan hệ mật thiết đến phương pháp giảng dạy. Phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức tác động của giáo viên và học sinh, sinh viên nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học. Phương pháp giảng dạy được quy định bởi nội dung dạy học, nói cách khác, nội dung dạy học chi phối việc lựa chọn và vận dụng phối hợp các phương pháp giảng dạy. Mặt khác, bản thân phương pháp là con đường, cách thức để đạt tới mục đích nhất định. Để đạt được cùng một mục đích, những con người khác nhau sẽ chọn những con đường (phương pháp) khác nhau. Lựa chọn con đường nào lại tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, như: Nhận thức của mỗi người, đánh giá chủ quan của mỗi người về đối tượng giảng dạy... Ngay cả khi cùng sử dụng một phương pháp thì do khả năng và trình độ của mỗi người thì khác nhau, nên kết quả là chất lượng giảng dạy sẽ khác nhau. Xét phương pháp giảng dạy ở giác độ con Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 14 đường để đạt được mục đích, thì việc chọn con đường và đi trên con đường ấy như thế nào là khả năng của mỗi người thầy và nó gần như có sẵn (bẩm sinh). Như vậy, việc lựa chọn phương pháp, phối hợp và thực hiện các phương pháp giảng dạy vừa dựa vào nội dung dạy học, vừa dựa vào khả năng của mỗi giáo viên, đây là công việc rất khó khăn đối với bất kỳ giáo viên giảng dạy ở bậc học nào. Ngoài ra, phương pháp không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo mà còn giúp cho học sinh, sinh viên tự học và giải quyết công việc sau này. Đây chính là dạy cho học sinh, sinh viên phương pháp nghiên cứu. Quá trình tự học tập của học sinh, sinh viên sẽ có hiệu quả hơn nhiều, chất lượng đào tạo vì thế tăng lên rất nhiều. Điều này rất quan trọng, bởi vì ngày nay nhà trường đào tạo ra những người chủ động nghiên cứu, giải quyết công việc, chứ không chỉ học thuộc lòng những kiến thức thầy dạy. Dù dạy học theo phương pháp nào thì vấn đề giảng viên tinh thông chuyên môn là điều kiện tiên quyết để dạy đạt chất lượng cao. Vấn đề đặt ra với hệ thống giảng viên hiện nay là vấn đề tự học, tự nghiên cứu, chỉ có như vậy mới có thể trau dồi đủ kiến thức để truyền đạt cho học sinh. Ngoài ra, người giảng viên không thể dạy tốt được nếu chỉ nắm vững kiến thức môn học, có nghĩa là ngoài kiến thức của môn học, người giảng viên phải hiểu biết nhiều lĩnh vực khác như: Kiến thức của các môn học khác có liên quan, kiến thức về tâm lý, giao tiếp, xử lý các tình huống sư phạm,... Tuy nhiên, nghiệp vụ sư phạm là yếu tố quan trọng làm cho giảng dạy đào tạo có chất lượng và hiệu quả hơn. Dạy học là quá trình người thầy truyền đạt cho sinh viên hệ thống những tri thức, kỹ năng,… nhằm phát triển năng lực, trí tuệ và hình thành nên thế giới quan của họ. Đối tượng của quá trình dạy học là sinh viên – con người với sự đa dạng về nhận thức, quan điểm, tình cảm…Vì vậy, giảng viên để truyền đạt kiến thức tốt nhất phải vận dụng kiến thức, kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy một cách phù hợp, sáng tạo vào công việc của mình để đạt đến đỉnh cao chất lượng trong đào tạo giảng dạy. 2.1.3.2. Chương trình đào tạo Chương trình đào tạo là một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo cho biết toàn bộ nội dung cần đào tạo, chỉ rõ những gì cần đạt được của người học Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 15 |