Bà Huyện Thanh Quan sinh ra ở đâu?

Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc có nhắc tới chồng bà trong Nam thi hợp tuyển như sau: “Chồng bà là ông Lưu Nguyên Uẩn, sinh năm 1804, đậu tú tài năm 1825, cử nhân năm 1828 và được bổ nhiệm làm tri huyện Thanh Quan. Ông huyện Thanh Quan vì can án phải cách, bổ làm Bát phẩm thơ lại Bộ hình. Sau lại thăng lên chức Viên ngoại lang”.

Dưới thời Tự Đức, bà nhậm chức Cung trung giáo tập để dạy các công chúa, cung phi.

Bà đã để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất nước như đèo Ngang (bài Qua đèo Ngang), thành Thăng Long (bài Thăng Long hoài cổ), chùa Trấn Bắc (bài Chùa Trấn Bắc),… biểu thị lòng yêu mến phong cảnh thiên nhiên và tâm trạng ai hoài trước sự đổi thay của thế sự. Ngoài ra còn một bài thơ “Cảnh Thu” hiện vẫn chưa rõ là của bà hay của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Cha bà đỗ thủ khoa năm 1783, là một cựu thần nhà Lê. Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích - một tiến sĩ đời nhà Lê và là bạn thân của thi hào Nguyễn Du. Bà thắm duyên với ông Lưu Nguyên Ôn (Lưu Nghi), người làng Nguyệt áng, huyện Thanh Trì, làm Tri huyện Thanh Quan (Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) thời vua Nguyễn, nên bà thường được gọi theo chức vụ của chồng là Bà Huyện Thanh Quan.

Bà nổi tiếng là một nữ sĩ học rộng, tài cao, từng được vua Tự Đức (có thuyết là vua Minh Mạng) mời vào làm “Cung trung giáo tập” dạy học cho các cung phi và công chúa.

Năm 1847, sau khi chồng mất, bà xin phép về quê nghỉ hưu và đưa bốn con nhỏ từ Huế về sống tại quê nội ở làng Nghi Tàm ở như vậy cho đến hết đời.

Bà đã để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất nước như: Qua đèo Ngang, Thăng Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc,... Qua những bài thơ chạnh lòng thương tiếc trước cảnh bể dâu với quá khứ vàng son của triều nhà Lê đã đi qua này, nhiều nhà phê bình văn học đã xếp thơ của bà vào khuynh hướng hoài cổ.

Không biết rõ chính xác về thời gian sống của bà nhưng theo nhiều tư liệu ghi chú là bà sinh năm 1805 và mất năm 1848 ở tuổi 43. Mộ bà được đặt bên bờ Hồ Tây (Hà Nội), nhưng sau này sóng gió đã làm sạt lở không còn tăm tích

Nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan là ai? Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, bà là một nữ thi sĩ nổi tiếng của văn học Việt Nam trong thời cận đại. Bà huyện Thanh Quan là một nhà thơ nổi tiếng; thơ của bà điêu luyện, chuẩn mực về niêm luật nhưng cũng hàm súc và giàu nhạc điệu. Sở trường của bà là thơ Nôm với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ của bà thể hiện lòng yêu mến phong cảnh thiên nhiên và tâm trạng ai hoài trước sự đổi thay của thế sự. Trong sự nghiệp thi ca, bà sáng tác không nhiều, một số bài thơ như: 1. Chiều hôm nhớ nhà 2. Tức cảnh chiều thu 3. Thăng Long thành hoài cổ 4. Qua chùa Trấn Bắc 5. Qua Đèo Ngang 6. Cảnh đền Trấn Võ

7. Cảnh Hương sơn

Dưới thời vua Minh Mạng, bà Huyện Thanh Quan từng được mời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi trong cung.

Cha bà là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông.
Bà là vợ của ông Lưu Nghị, ông từng làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình), nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Chồng bà làm quan trải đến chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình, nhưng mất sớm (43 tuổi). Bà sinh được 4 người con. Sau này khi chồng mất bà cùng 4 người con sinh sống ở phố Nghi Tàm cho đến hết cuộc đời.

Các mối quan hệ thân thiết

Bạn trai/ chồng/ người yêu Nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan là ai?
Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích.

Nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan cao bao nhiêu, nặng bao nhiêu? Chiều cao: đang cập nhậtCân nặng: đang cập nhật

Số đo 3 vòng: đang cập nhật

Nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan sinh năm bao nhiêu, bao nhiêu tuổi?Bà Huyện Thanh Quan sinh ngày ?-?-1805, mất năm 1848, hưởng thọ 43 tuổi.

Nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan sinh ở đâu, con giáp/ cung hoàng đạo gì?


Bà Huyện Thanh Quan sinh ra tại Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam. Cô sinh thuộc cung (chưa rõ), cầm tinh con (giáp) trâu (Ất Sửu 1805). Bà Huyện Thanh Quan xếp hạng nổi tiếng thứ 1321 trên thế giới và thứ 1 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng.

Người nổi tiếng theo ngày sinh:
12345678910111213141516171819202122232425262728293031 / 123456789101112 196219631964196519661967196819691970197119721973197419751976197719781979198019811982198319841985198619871988198919901991199219931994199519961997199819992000200120022003200420052006200720082009201020112012201320142015201620172018

Bà Huyện Thanh Quan sinh ra ở đâu?


Chân dung Nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan


Hình vẽ chân dung nữ thi sĩ Bà Huyện Thanh Quan

Bình luận: Tên bạn:
Nội dung:

Thông tin/ profile đầy đủ và mới nhất của Bà Huyện Thanh Quan được nguoinoitieng.tv cập nhật liên tục. Các thông tin về Nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan có thể chưa đủ hoặc chưa chính xác và chỉ mang tính tham khảo, nếu bạn thấy thông tin là chưa chính xác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email: .

Giáo sư Dương Quảng Hàm đã từng ca tụng về tài năng thi phú của Bà Huyện Thanh Quan như sau “Những bài thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tỏ tình, nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là một người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện”

Dù thân phận nữ nhi song, bà huyện thanh quan thể hiện tài năng của mình không thua kém bất cứ bậc nam nhân nào. Thơ của bà đầy chất nhạc và họa, ngôn từ điêu luyện, cảnh và vật rất đỗi trữ tình. Thơ bà thể hiện lòng yêu mến cảnh quan thiên nhiên, đất nước và tâm sự u hoài trước thế sự đổi thay.

Tiểu sử về cuộc đời

Nguyễn Thị Hinh là người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ), Hà Nội. Cha bà là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông.

Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825), và là vợ của Lưu Nghị (1804-1847), hiệu là Ái Lan, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông đỗ cử nhân năm 1821 (Minh Mạng thứ 2), từng làm tri huyện Thanh Quan (nay là một phần huyện Đông Hưng và huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình), nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Sau đó, ông bị giáng chức rồi lại được bổ chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình. Chồng bà làm quan trải đến chức Viên ngoại lang bộ Hình, nhưng mất sớm (43 tuổi).

Dưới thời vua Minh Mạng, bà được mời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi.

Khoảng một tháng sau khi chồng mất, bà lấy cớ sức yếu xin thôi việc, rồi dẫn bốn con về lại Nghi Tàm và ở vậy cho đến hết đời.

Không biết rõ chính xác về thời gian sống của bà nhưng theo nhiều tư liệu ghi chú là bà sinh năm 1805 và mất năm 1848 ở tuổi 43. Mộ bà được đặt bên bờ Hồ Tây (Hà Nội), nhưng sau này sóng gió đã làm sạt lở không còn tăm tích. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật.

Sự nghiệp văn chương

Có lẽ hồn thơ của bà không chỉ bắt nguồn từ cái nôi của gia đình khoa bảng, mà trên hết, chính là từ mảnh đất quê hương bà, làng Nghi Tàm, nơi công chúa Từ Hoa, con gái vua Thần Tông nhà Lý vào thế kỷ XII đã lập trại dạy cung nữ trồng dâu nuôi tằm. Bà huyện Thanh quan sáng tác không nhiều, các tác phẩm của bà để lại cho hậu thế là rất ít ỏi, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Đường luật. Hiện tìm được những bài sau: 

  • Thăng Long thành hoài cổ 

  • Qua chùa Trấn Bắc

  •  Qua Đèo Ngang

  •  Chiều hôm nhớ nhà

  • Tức cảnh chiều thu

  • Cảnh đền Trấn Võ

  • Cảnh Hương sơn.

Tuy sáng tác không nhiều, song các tác phẩm của bà đều gây được tiếng vang lớn trên thi đàn Việt Nam, thể hiện tấm lòng nhớ nước thương nhà hồn hậu, đau đáu khôn nguôi; một tài năng thiên bẩm về thi phú mà không phải ai cũng có được.

Nổi bật nhất trong sự nghiệp văn chương của nhà thơ có thể kể đến tác phẩm “qua đèo ngang”, một bức tranh tả cảnh và tình đẹp nao lòng, vừa diễn tả được thiên nhiên heo hút, vừa truyền tải được tâm sự u buồn trước thời cuộc đang đảo điên nhiều biến động.

Phong cách nghệ thuật

Thơ đường luật thường bị gò bó, hạn chế cảm xúc bởi các niêm luật, điển tích điển cố, thơ chữ nôm đôi khi lại quá nông không đủ để diễn tả được sức gợi của ngôn từ.Bà huyện thanh quan là một trong số ít nhà thơ có thể trung hòa được cả hai yếu tố trên. Chẳng thế mà, cố giáo sư Phạm Thế Ngũ đã đưa ra nhận định: "Thơ Đường trước bà người ta đã làm vô số, sau bà người ta cũng còn làm vô số. Nhưng trước cũng như sau, có lẽ không ai vượt được Nữ Sĩ Thanh Quan". Các tác phẩm của bà vừa có sự cổ kính cần có, vừa có sự gần gũi giản dị. Cuộc đời bà Huyện Thanh Quan gắn liền với những thăng trầm của đất nước, cũng chính về thế tâm trạng và hồn thơ của bà mang đậm màu sắc thương nước thương dân, hoài niệm về quá khứ vàng son. Thơ bà như lời tự sự mượn cảnh nói tình, vừa gần gũi vừa mênh mang, và có cả nỗi buồn của sự cô đơn.

Giáo sư Nguyễn Lộc từng nhận xét: “Thơ bà thường viết về thiên nhiên, phần lớn là vào lúc trời chiều, gợi lên cái cảm giác vắng lặng và buồn bã. Cảnh bà miêu tả trong những bài thơ giống như những bức tranh thủy mặc, chấm phá...Hơn nữa, nói cho đúng thì cảnh trong thơ bà thực tế cũng không phải là cảnh, mà là tình. Tình cảm của bà thường là sự nhớ thương da diết đối với quá khứ vàng son đã một đi không trở lại. Do vậy, người ta gọi bà là nhà thơ hoài cổ. Thơ bà còn được chú ý vì một lẽ nữa, đó là nghệ thuật hết sức điêu luyện. Ở đó, niêm luật đều luật đều chặt chẽ mà không gây cảm giác gò bó, xếp đặt. Câu thơ của bà trang nhã, từ ngữ chải chuốt và chọn lọc công phu..” Phong cách nghệ thuật chủ yếu của bà huyện thanh quan là nỗi niềm hoài cổ về một thời vàng son, đau đáu khôn nguôi cảnh nước nhà, thể hiện phẩm chất của một người đoan trang, mẫu mực, tài năng hơn người. Những bài thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tỏ tình, nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là một người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện.

Trong lịch sử văn học nước nhà, khá hiếm các nữ nhà thơ do ảnh hưởng của chế độ phong kiến. Bà Huyện thanh quan là một trong những nữ thi sĩ hiếm hoi mà tài năng lại không thua kém bất cứ người nào. Thơ của bà thể hiện những tình cảm cao lớn như yêu nước, thương dân, bà là tấm gương về lòng trung hiếu mà thế hệ sau cần phải học tập.

Thảo Nguyên

Bà Huyện Thanh Quan (chữ Nôm: 婆縣青關; 1805 - 1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh (阮氏馨); là một nữ sĩ trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam. Bà sinh ra ở làng hoa Nghi Tàm bên bờ Hồ Tây (nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội). Bà là người hay thơ, giỏi chữ Nôm. Đời vua Minh Mạng, bà được vời vào cung trao cho chức Cung trung giáo tập, dạy dỗ cho các cung phi và công chúa. Điều này xác nhận với chúng ta rằng bà Huyện Thanh Quan là một phụ nữ có đầy đủ “công, dung, ngôn, hạnh” theo đúng chuẩn mực xưa, nên đã được triều đình biết tiếng, được một vị vua anh minh vời vào cung và giao cho trọng trách này. Bà cũng là một trong số hiếm những người phụ nữ được vua mời vào cung làm quan.

Chồng bà là Lưu Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ Cử nhân năm 1828, từng làm Tri huyện Thanh Quan sau bị giáng chức, rồi lại được bổ chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình trong kinh đô Huế. Ông huyện Thanh Quan chẳng may mất sớm, khi mới 43 tuổi. Sau khi chồng mất, bà về quê ở vậy, một mình nuôi con.

Nhắc đến Bà huyện không ai không nhớ đến chuyện bà lên công đường thay chồng xử án bằng thơ Nôm. Chuyện xảy ra lúc chồng bà đi vắng, bà nhận được đơn của một thiếu phụ trong huyện xin được đi lấy chồng, xót thương hoàn cảnh của chị ta, bà đã phê vào tờ đơn bằng mấy câu thơ:

  • Phó cho con Nguyễn Thị Đào
  • Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai
  • Chữ rằng “xuân bất tái lai”
  • Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!

Câu chuyện này được lan rộng trong xã hội và trở thành một giai thoại văn học rất đẹp. Bà Huyện có lòng thấu hiểu và cái nhìn vượt bậc về tình nghĩa vợ chồng, cùng là phận ‘nữ nhi thường tình’ nên bà biết thương cái xuân thì của người thiếu phụ, mong muốn tìm được sự công bằng cho phụ nữ trong xã hội phong kiến loạn lạc. Không biết cô Nguyễn Thị Đào sau khi có cuộc sống mới có tới thăm bà không? Câu chuyện cũng gợi cho đời sau tưởng tượng ra cảnh nhà Bà huyện đầm ấm vui vẻ, vợ chồng cùng thưởng trà dưới nguyệt hay ngâm vịnh xem hoa vô cùng tao nhã và tâm đắc.

Bà còn mượn thơ nói lên tấm lòng của bản thân từ con đường lưu dấu người nữ sĩ tài hoa khi đi từ Thăng Long vào kinh thành Huế. Khi đi qua Đèo Ngang dáng hình người phụ nữ lồng lộng và đơn côi trên đỉnh đèo trong một hoàng hôn lữ thứ đã ngâm bài thơ:

  • Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
  • Cỏ cây chen đá lá chen hoa
  • Lom khom dưới núi tiều vài chú
  • Lác đác bên sông chợ mấy nhà
  • Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
  • Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
  • Dừng chân đứng lại trời – non – nước
  • Một mảnh tình riêng ta với ta.
  • ...

Bà có một cuộc đời ‘trầm lặng’ hơn so với tài năng. Bà chỉ để lại cho đời ngót chừng chục bài thơ Nôm theo thể Hàn luật mà nổi bật nhất là Thăng Long Thành hoài cổ, Qua đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà. Vậy mà vẻ cao sang đài các, kiêu sa từ từng con chữ trong những bài thơ, mỗi bài đều 56 chữ ấy đã lan tỏa khắp thi đàn nước Việt trải đã mấy trăm năm.

Cuộc đời bà Huyện Thanh Quan gắn liền với những thăng trầm của đất nước, cũng chính về thế tâm trạng và hồn thơ của bà mang đậm màu sắc thương nước thương dân, hoài niệm về quá khứ vàng son. Thơ bà như lời tự sự mượn cảnh nói tình, vừa gần gũi vừa mênh mang, và có cả nỗi buồn của sự cô đơn. Ấy thế nhưng, những câu chuyện về bà lại được biết đến qua các giai thoại, các điển tích, mà ở đó người ta thấy rõ nét một nữ sĩ đa sầu đa cảm, giàu lòng trắc ẩn, tài đức vẹn toàn. Và dù ở áng thơ nào hay ở bất cứ giai thoại nào bà cũng thể hiện sự trang nhã, tinh tế và thanh tao, cốt cách của người Tràng An.

Có thi sĩ đã từng viết về một loài hoa có những “bông hoa nhỏ giấu mình trong cỏ; thơm hết mình mà chẳng thấy hoa đâu”. Phải chăng bông hoa ấy là bà Huyện Thanh Quan hương thơm ngát thi đàn nước Việt mà lai lịch hành trạng thì còn đang đánh đố hậu thế. Ai có dịp qua Đèo Ngang, hãy ngước nhìn đỉnh đèo non nước trời mây bao la, trên đó là một tượng đài bà Huyện Thanh Quan lồng lộng ở mãi với thời gian…

Bà Huyện Thanh Quan quê ở đâu?

Bà Huyện Thanh Quan (ất Mùi 1805 - Mậu Thân 1848) Nhà thơ, tên thật là Ngô Thị Hinh (các tài liệu trước đây ghi là Nguyễn Thị Hinh), quê làng Nghi Tàm, huyện Từ Liêm, nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội.

Bút danh huyện Thanh Quan ở đâu mà có?

- Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh, năm mất. - Quê quán: làng Nghi Tàm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. - Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi Bà Huyện Thanh Quan.