Vi sao việc nghiên cứu tâm lý học đóng vai trò quan trọng đối với dn trong giai đoạn hiện nay

bởi quản trị viên | Ngày đăng: 24-07-2018

1. Tầm quan trọng của lý thuyết nghiên cứu đối với một đề tài khoa học

Trong nghiên cứu khoa học, lý thuyết nghiên cứu là nền tảng vô cùng quan trọng bởi “lý thuyết là kinh nghiệm, kiến thức, tri thức, trí tuệ của các thế hệ tích lũy lại, cung cấp cho người nghiên cứu cơ sở kiến thức để lập luận và kiến giải các vấn đề nghiên cứu” [5]. Vì lẽ đó, sẽ không quá nếu nói hệ thống lý thuyết nghiên cứu chính là “quỹ đạo” của nhà nghiên cứu. Và để kết quả nghiên cứu đảm bảo đạt những giá trị khoa học cần thiết, thì quá trình triển khai nghiên cứu, nhà nghiên cứu không thể đi chệch cái “quỹ đạo” đó.

Không chỉ gọi là “quỹ đạo”, mà hệ thống lý thuyết còn có thể được xem là “chìa khóa” để nhà nghiên cứu trả lời các câu hỏi nghiên cứu trên nền tảng khoa học và lý luận. Khi có được lý thuyết nghiên cứu phù hợp, nhà nghiên cứu sẽ thuận tiện trong việc xây dựng cấu trúc của đề tài, hướng giải quyết vấn đề nghiên cứu cũng như việc đặt ra các giả thuyết nghiên cứu phù hợp.

Như vậy, vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu khoa học là cung cấp các khái niệm, khung lý thuyết để nhà nghiên cứu kiến giải câu hỏi nghiên cứu từ cơ sở khoa học một cách tường minh, thuyết phục. Vì vậy, yêu cầu đầu tiên đặt ra đối với những ai khi bắt đầu vào con đường nghiên cứu khoa học là nghiên cứu hệ thống lý thuyết, lý luận nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học mà họ quan tâm.

2. Những khó khăn trong việc tiếp cận, áp dụng các lý thuyết nghiên cứu trong đề tài khoa học

- Khó khăn trong việc tiếp cận lý thuyết nghiên cứu

Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, có thể kể đến các lý thuyết nghiên cứu phổ biến hiện nay như thuyết Tiến hóa thế kỷ 19 [bao gồm thuyết Tiến hóa đơn tuyến của Lewis Henry Morgan, Edward Tylor và Tiến hóa đa tuyến của Herbert Spencer]; thuyết Nhân học văn hóa Mỹ nửa đầu thế kỷ XX với các đại diện như Franz Boas, Margaret Mead, Ruth Benedict; Nhân học xã hội Anh nửa đầu thế kỷ XX với các đại diện Reginald Radcliffe-Brown, Bronislaw Malinowski; thuyết Lựa chọn duy lý với các đại diện Fredrik Barth, Penelope Brown; thuyết Tân tiến hoá và cách tiếp cận duy vật với các đại diện Leslie White, Julian Steward;… Mỗi lý thuyết sẽ là công cụ phù hợp để giải quyết một, hoặc một số vấn đề nghiên cứu nào đó.

- Khó khăn trong việc áp dụng lý thuyết nghiên cứu

 Hiện nay, việc tiếp cận một cách đầy đủ, nguyên bản những lý thuyết này của giảng viên khối nghệ thuật không đơn giản mà nguyên nhân phần lớn là khả năng ngoại ngữ của giảng viên khối nghệ thuật còn hạn chế do trước đây điều kiện tiếp xúc, đọc sách, nghiên cứu với giảng viên, giáo sư nước ngoài chưa cao Vì vậy, nhiều giảng viên khối nghệ thuật thường tìm hiểu lý thuyết qua các bản dịch, hoặc qua các công trình mà các tác giả có sử dụng các lý thuyết đó. Trong nghiên cứu khoa học, việc áp dụng lý thuyết vào công trình nghiên cứu là điều kiện bắt buộc. Khả năng lựa chọn, kỹ năng áp dụng các lý thuyết vào công trình nghiên cứu phụ thuộc vào trình độ, nền tảng lý luận của giảng viên. Trong điều kiện cũng như yêu cầu của nhà trường, một số giảng viên khối nghệ thuật gặp khá nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu nghiên cứu. Khó khăn trước hết là việc chọn lựa các lý thuyết nghiên cứu phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài. Các trường hợp thường xảy ra là: hoặc giảng viên chọn lý thuyết nghiên cứu chưa phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài; hoặc giảng viên chọn nhiều lý thuyết nghiên cứu cho một đề tài. Những trường hợp đó đều ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu chung của đề tài.

Trong trường hợp chọn được lý thuyết nghiên cứu phù hợp, thì giảng viên khối nghệ thuật lại gặp khó khăn về kỹ năng ứng dụng lý thuyết nghiên cứu đó để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu của đề tài. Rõ ràng, để có thể áp dụng một cách hiệu quả, thuần thục các lý thuyết nghiên cứu trong đề tài, nhà nghiên cứu phải trải qua quá trình rèn luyện trong thực tiễn nghiên cứu, phải có khả năng phân tích, đánh giá vấn đề được nghiên cứu, từ đó nhận diện được mức độ, phạm vi áp dụng lý thuyết nghiên cứu trong đề tài. Điều này là một trong những thách thức mà mỗi giảng viên khối nghệ thuật rất muốn có cơ hội, điều kiện tiếp cận nền giáo dục thế giới để học tập áp dụng trong môi trường đào tạo tại cơ sở mình giảng dạy. Hiện nay với chính sách mở cửa, các cơ quan quản lý nhà nước  tổ chức chương trình học tập ngắn hạn, dài hạn để bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, tiếp cận công nghệ nghiên cứu khoa học mới nhất của thế giới để giúp các thầy cô lĩnh hội và có góc nhìn tiếp cận những nội dung lý thuyết khách quan, phong phú cho sự lựa chọn, từ đó giúp việc sử dụng các lý thuyết vào trong nghiên cứu của mình đáp ứng mục tiêu nhu cầu xã hội, vì vậy việc đăng ký học tập là trách nhiệm của mỗi giảng viên khối nghệ thuật để nâng cao năng lực chuyên môn, phát huy tính sáng tạo trong công việc đặc thù.

3. Thay lời kết

Tóm lại, trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở mọi lĩnh vực, tìm hiểu và ứng dụng lý thuyết nghiên cứu để đi tìm lời giải cho các câu hỏi nghiên cứu, giải quyết các vấn đề mà công trình nghiên cứu đặt ra là một yêu cầu mang tính tất yếu của một nền khoa học phát triển bền vững. Vì vậy thực tế hiện nay, việc phối hợp với các chuyên gia trao đổi kinh nghiệm tại nước ngoài hoặc tại cơ sở như để các giảng viên đến dự giờ, trao đổi khoa học và nghiệp vụ tại các Khoa cùng ngành là việc cần thiết và có lộ trình thời gian liên tục để các giảng viên khối nghệ thuật tiếp tục được tiếp cận và vận dụng lý thuyết trong công trình của mình một cách khoa học, có chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng yêu cầu đào tạo theo nhu cầu xã hội hiên nay.

Lê Thị Vương Nguyệt - Khoa QLVH-NT

Tài liệu tham khảo

1.    Nguyễn Chí Bền [2006], Văn hóa Việt Nam – mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

2.    Charles Harrison, Dr Paul J Wood, Jason Gaiger biên soạn [1991], Art in Theory 1648-1815: An Anthology of Changing Ideas , Publisher: Wiley-Blackwell.

3.    Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam [2011], Nghiên cứu văn hóa – lý thuyết và thực hành [bản dịch của Đặng Tuyết Anh từ công trình của Chris Barker], NXB. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

4.    Kristine Stiles, Peter Selz [1996], Theories and Documents of Contemporary Art: A Source Book of  Artists’ Writing, University of California Press.

Bùi Thị Thanh Mai, Vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam, đăng trên //www.academia.edu, cập nhật 

Ngay từ khi Y học tách ra khỏi những quan  niệm  thần  bí  để  trở  thành  một khoa học, các thày  thuốc  khi  đó  cũng  đã rất quan  tâm  tới  những  vấn  đề  tâm lí. Y học Trung Hoa cổ đại đã đề cập đến mối quan hệ của tâm lí với bệnh tật…

Ở Phương Tây, Hippocrates, người được xem là  ông  tổ  của  nghề  y  đã  nói rằng thầy thuốc cần có 3 thứ để chữa bệnh: con dao, ngọn cỏ và lời nói.

Mặc dù vậy, cũng phải đến thế kỉ  thứ XVIII,  những  ứng dụng  của Tâm  lí  học vào Y học mới rõ nét hơn.

Năm 1882, Galton đã thành lập phòng thí  nghiệm nhân  trắc  để  đo  những vấn đề khác biệt cá nhân như: độ nhạy cảm giác quan, kỹ năng vận động và  thời  gian  phản ứng. J.Mc.Keen Cattell, nhà tâm lí học Mỹ cũng được nhắc đến như  là một trong những người đặt nền móng ban đầu cho trắc nghiệm tâm  lí. Cattell cũng đã từng làm việc tại phòng thí nghiệm tâm lí đầu  tiên  trên  thế  giới-  Phòng  thí nghiệm tâm lí của W.Wundt và cũng như  Galton,  Cattell  đi  vào  nghiên  cứu  sự khác biệt thời gian phản xạ. Ông cũng cho rằng bằng cách này có  thể  nghiên cứu được trí tuệ. Thuật ngữ Mental test [test trí tuệ] cũng là của J. Cattell.

Đến cuối thế kỷ XVIII, một bác sĩ người Áo tên là F. Mesmer [1734 - 1815], người sáng lập ra lí thuyết thôi miên, đã sử dụng ám thị để  chữa cho  hàng  nghìn bệnh nhân. Ông đã đưa ra khái niệm "thể lỏng từ tính động vật" để giải thích hiện tượng ám thị trong thôi miên. Cách giải thích của Ông đã không được Hội  đồng  khoa học Hoàng gia Pari thừa nhận.  Mesmer  không chỉ  bị  bài  xích mà còn bị coi  là phù thủy, bịp bợm. Tuy nhiên cũng chính Hội đồng này, đến năm 1882 đã khôi phục danh dự cho Ông bằng cách thừa nhận  sự  ám  thị  như  là phương  tiện chữa bệnh khoa học.

Cũng trong giai đoạn này, J. Charcot đã nổi tiếng với các biện pháp thôi miên điều trị người bệnh hysteria. Bắt đầu sự hợp tác giữa Bleuler và Freud. Năm 1895 hai ông đã cho xuất bản tập Những  nghiên  cứu  về  hysteria. Do  nhiều lí do, sự  hợp tác giữa họ đã bị đổ vỡ. Tuy nhiên sự hợp tác đó cũng đã góp phần thúc đẩy  Freud tạo ra hướng đi mới: Phân tâm học.

Nếu Galton, Cattell là những người khởi  đầu thì  Binet  và  cộng sự của Ông  - bác sĩ Simon với chính là những người  thực sự  mở  ra  thời  kỳ  mới  của  trắc nghiệm trí tuệ nói  riêng và  test tâm lí  nói  chung.  Năm  1905, test trí tuệ đầu tiên ra đời theo đơn đặt hàng của Bộ giáo dục Pháp: Thang Binet  -  Simon [Binet –  Simon Scale]. Thang được  thiết  kế  nhằm  sàng  lọc  những học  sinh có  khuyết  tật về trí tuệ để có thể có những biện pháp giáo dục đặc biệt  hơn đối với những đối  tượng này. Do tính hiệu quả  của  nó,  thang  Binet-Simon  được  phổ  biến  sang nhiều nước. Thang này cũng còn là sự khởi đầu cho hàng loạt các test trí tuệ khác như: test trí tuệ Raven, test trí tuệ Wechsler v.v..

Đầu thể kỉ XX, trong Tâm lí  học  diễn  ra  cuộc  cách mạng với  3  trường phái lớn: Phân tâm học, Tâm lí học  Gestal, Chủ  nghĩa  Hành  vi  và  muộn hơn một chút, đó là Tâm lí học Mac Xit. Sự xuất  hiện của các  trường phái  lớn đã làm thay đổi  thực sự diện mạo của Tâm lí Y học. Nếu như trước đó, những vấn đề về  Tâm  lí Y  học do các  thày  thuốc  nghiên  cứu  thì từ thời kì  này, sự vào  cuộc của các nhà Tâm lí học diễn ra mạnh mẽ hơn. Hàng loạt  những luận điểm Tâm  lí  học  có dịp được  ứng dụng, kiểm nghiệm trong thực tiễn lâm sàng.

Phân tâm học với những luận điểm dựa trên nền tảng vô thức đã mở ra một hướng điều trị mới: phân tích tâm lí [phân  tâm]. Xuất  phát  từ Phân tâm, một loạt  các dạng điều trị tâm lí khác đã ra đời  và  phát  triển. Phân tâm  cũng còn là cơ sở cho một hướng mới trong các trắc nghiệm tâm lí  lâm  sàng:  các  phương  pháp  phóng chiếu.

Chủ nghĩa Hành vi lấy  hành  vi  làm phạm  trù cơ bản  cho  mình để  từ đó  đi vào những vấn đề về trị liệu. Liệu pháp hành vi được  sử dụng  ngày  càng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ cá nhân và cộng đồng. Cũng trên cơ sở lí luận của Tâm lí học Hành vi, có rất nhiều trắc nghiệm, thang đo tâm lí được  xây  dựng và đưa vào ứng dụng.

Đối với Tâm lí học  Mac  Xit,  phạm  trù cơ bản là hoạt động. Một loạt những vấn đề về  sự hình thành và  phát  triển tâm lí  cũng như  các  vấn  đề  của tâm lí  bệnh  lí được xem xét và giải quyết từ tiếp cận hoạt động.

Đến giữa thế kỉ thứ XX, một  trường  phái  Tâm  lí  học  khác  nổi lên, có đóng góp rất đáng kể  trong lĩnh vực  liệu pháp  tâm  lí:  trường phái  Tâm  lí học Nhân văn và Hiện sinh.

Ở nước ta, sự phát triển của Tâm lí  Y học  còn khá  mới  mẻ.  Mãi  đến năm 1979, Khoa Tâm lí học Y học  đầu  tiên trong  cả nước  được  thành lập ở Trường  Đại học Quân y [nay là Học viện Quân y]. Trước đó, một số  vấn  đề  về  Tâm  lí  Y học cũng đã được đề cập đến  trong  chương  trình  giảng  dạy,  nghiên  cứu,  ứng dụng của một số cơ sở điều trị  và  giảng  dạy  môn Tâm  thần học. Cho  đến nay  đã có nhiều cơ sở đào tạo  và  nghiên  cứu  đưa  vào  giảng  dạy  và  nghiên  cứu  những vấn đề về Tâm lí Y học, Tâm lí  lâm sàng, Tâm  lí  Thần  kinh.  Tại  Khoa Tâm lí học  của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại  học  Quốc  gia  đã  mở  chuyên ngành Tâm lí Lâm sàng  chuyên  đào  tạo  cử  nhân  tâm  lí  trong  lĩnh  vực này.

Đối tượng của Tâm lí Y học.

Tâm lí Y học là một chuyên ngành ứng dụng của Tâm lí học trong Y học.

Đối tượng của Tâm  lí Y học là các hiện tượng tâm lí của người bệnh.

Những vấn đề mà Tâm lí Y học quan tâm  nghiên  cứu tập trung vào  các  nội  dung sau:

Những biểu hiện tâm lí của người bệnh:

Tâm lí và cơ thể có mối  liên hệ  rất chặt chẽ với  nhau. Khi cá nhân bị bệnh thì  tâm lí con người đó cũng có những biến đổi nhất định. Sự  thay  đổi tâm  lí  của  người bệnh có những điểm chung: những  người   mắc  cùng  một  loại  bệnh  có những đặc điểm tâm lí giống nhau. Những  biến  đổi như  vậy  mang  tính  quy luật nhất định. Tuy nhiên tính quy luật như vậy chỉ mang  tính  tương  đối.  Mỗi  con người cụ thể có những đặc điểm riêng  về  cơ thể cũng như về  tâm lí và  xã hội. Do vậy những thay đổi tâm lí do bệnh tật cũng  có  những  điểm khác  nhau  ở  những người khác nhau.

Vai trò của các yếu tố tâm lí trong phát sinh và phát triển bệnh:

Yếu tố tâm lí đóng vai trò rất  khác  nhau  trong  sự  hình  thành  và  diễn  biến bệnh tật. Có những bệnh mà nguyên nhân chủ yếu là do tâm lí, ví  dụ như rối loạn  phân li [trước đây gọi là hysteria]. Cũng có  những  bệnh mà theo  các  thày thuốc, tâm lí đóng vai trò chủ đạo, ví dụ như hen suyễn, viêm loét dạ dày  - hành tá tràng [mặc dù gần đây người ta đã tìm ra vi khuẩn Helicobater Pilory]…

Ảnh hưởng qua lại giữa bệnh và tâm lí:

Mối quan hệ giữa tâm lí và bệnh tật là khá phức  tạp.  Như  đã biết,  các  hiện tượng tâm lí được hình thành và phát  triển trên cơ  sở của hoạt động hệ  thần kinh, đặc biệt là hệ thần kinh trung ương. Một khi bị bệnh,  hoạt  động của hệ  thần kinh cũng bị ảnh hưởng và dẫn đến ảnh hưởng các hoạt động tâm lí. Ngược lại, các tác động lên tâm lí cũng có  thể  ảnh  hưởng đến hoạt  động của hệ  thần kinh dẫn  đến ảnh hưởng tới sự hình thành và  diễn  biến  của bệnh.  Ví  dụ:  trong  điều kiện  thời tiết giá rét, những người có stress tâm lí là những  người  có  nguy  cơ  mắc  bệnh viêm đường hô hấp trên cao hơn so với những người khác.

Những tác động của yếu tố môi trường [tự nhiên và xã hội] lên tâm lí người bệnh:

ngay trong điều kiện bình thường, các yếu tố của môi trường tự nhiên như: nhiệt độ, độ ẩm, tiếng ồn…và các yếu tố  môi  trường xã hội  như:  tình hình chính trị, kinh tế, xã  hội  cũng  đã ảnh hưởng đến tâm lí con người. Trong điều kiện bệnh lí, sự ảnh hưởng như vậy càng rõ nét song cũng phức tạp hơn.

Vai trò của yếu tố tâm lí trong điều trị và chăm sóc sức khoẻ con người:

Vận dụng cơ chế ảnh hưởng của tâm lí lên sức khoẻ nói chung, bệnh tật  nói riêng, trong Y học Lâm sàng có hẳn một  chuyên  ngành  Liệu  pháp  Tâm  lí.  Từ những thành công trong lĩnh vực lâm sàng tâm thần, liệu pháp  tâm lí đã được ứng dụng sang các lĩnh vực khác lâm sàng nội, ngoại khoa khác nhau.

Y học hiện đại không chỉ bó hẹp trong  phạm  vi  bệnh  viện.  Cùng với  Y học, Tâm lí Y học góp phần xây dựng, triển khai những  biện  pháp  nhằm  tăng  cường, củng cố những hành vi sức khoẻ cho người dân và cộng đồng nói chung.

Giao tiếp của nhân viên y tế:

Hiệu quả hoạt động khám, chữa bệnh của người thầy  thuốc  phụ  thuộc  vào  không chỉ kiến thức, kinh nghiệm  nghề  nghiệp mà còn vào  các  kĩ  năng giao  tiếp của họ. Do vậy một trong những  điều không  thể  thiếu  đối với  công tác đào  tạo cán bộ y tế đó là trang bị, hình thành cho họ những kĩ năng giao tiếp cần thiết.

Hoạt động khám, chữa bệnh hoặc các biện  pháp  dự  phòng,  tăng  cường  sức khoẻ đều nhằm đến mục tiêu cải thiện sức khoẻ [cả về thể chất và tâm lí] cho con người. Tuy nhiên hiệu quả của các  biện pháp  đó  không  chỉ  phụ  thuộc  vào  trình  độ hiểu biết của người thầy thuốc về tâm lí người bệnh mà nó còn phụ thuộc vào  chính những đặc điểm tâm lí - nhân cách của họ- những người  làm công tác  chăm sóc sức khoẻ. Do vậy, với góc  độ  là  một  lĩnh  vực  ứng  dụng  vào  Y học, Tâm  lí học Y học  không chỉ  dừng lại  ở mức  độ  trang bị cho thầy thuốc kiến thức về  tâm  lí người bệnh. Những hiểu biết về tâm lí - nhân cách của thầy thuốc cũng còn là cơ sở khoa học góp phần giáo dục, đào tạo bồi  dưỡng và  phát triển toàn diện, hài  hoà nhân cách người thầy thuốc.

Nhiệm vụ của Tâm lí Y học.

Chẩn đoán/đánh giá tâm lí lâm sàng:

Chẩn đoán tâm lí lâm sàng nhằm xác định trạng  thái  tâm  lí  hiện  tại  của khách thể. Trên cơ sở so sánh/đối chiếu với các chuẩn hoặc trong điều kiện bình thường nhằm xác định các biến đổi tâm lí.

Trong nhiều trường hợp,  cần  phải xác  định  nguyên  nhân  của  những  biến đổi đó. Ví dụ: sự giảm sút trí nhớ đã được ghi nhận là do nguyên nhân gì?

Chẩn đoán tâm lí lâm sàng còn cần phải đưa ra được dự  báo  diễn biến tiếp theo của các rối loạn tâm lí.

Can thiệp tâm lí:

Sự tham gia của tâm lí lâm sàng không chỉ  bó  hẹp trong khái  niệm  trị  liệu  [liệu pháp/điều trị] tâm lí mà đã mở rộng ra rất nhiều. Trong lâm  sàng,  can thiệp tâm lí không chỉ nhằm xoá bỏ nguyên  nhân  của các  rối  loạn. Dựa trên quan niệm sức  khoẻ  con người  bao  gồm 3 thành tố: sinh học  – tâm lí – xã hội, can thiệp tâm lí nhằm tác động vào thành tố  tâm  lí,  giúp  cho  người  bệnh  tự  giải  quyết  những vấn đề của mình.

Can thiệp tâm lí đã mở rộng ra lâm sàng  các  bệnh nội, ngoại, sản, nhi...Ví  dụ: đối với người bệnh ung thư, can thiệp tâm  lí  nhằm  giúp  họ  thích  ứng  với  tình trạng của mình để phấn đấu vươn lên, sống có ích cho người thân trong gia đình, không bi quan tuyệt vọng, không có ý định và hành vi cực đoan.

Can thiệp tâm lí cũng còn mở rộng sang cả lĩnh vực cộng đồng/công cộng.

Có hẳn một chuyên ngành nữa, đó là Tâm lí học Công cộng.

Các lĩnh vực ứng dụng của Tâm lí Y học.

Trong y học lâm sàng:

Trong lâm sàng tâm thần:

Cho đến nay đã có rất nhiều những thành tựu  của  công  nghệ  hiện  đại  được ứng dụng vào Y học lâm  sàng.  So  với  chụp  X.  quang  trước  đây,  hình  ảnh  của siêu âm, siêu âm 3  chiều, chụp cắt  lớp vi  tính, chụp cộng hưởng từ hạt  nhân…đã có những bước tiến rất xa. Các thành tựu này đã trợ giúp rất nhiều cho thầy thuốc trong công tác chẩn đoán bệnh. Tuy nhiên các bác sĩ tâm thần không được hưởng lợi nhiều từ những thành quả đó. Hiện tại chưa có  một  thiết  bị  nào,  ví  dụ: có thể ghi được tiếng nói trong đầu của bệnh nhân.  Do  vậy  để chẩn  đoán bệnh, các nhà tâm thần học vẫn phải dựa vào  cứ  liệu  lâm  sàng là chủ yếu.  Trong bối  cảnh như vậy, kết quả chẩn đoán tâm lí sẽ  là cứ liệu bổ ích cho  các  bác  sĩ  tâm thần trong quá trình chẩn đoán bệnh, đặc biệt là chẩn đoán phân biệt.

Ở bệnh nhân  tâm  thần,  cái bị  rối loạn nặng nề  nhất  không phải  là  cơ thể  mà  là phần tâm lí – nhân cách. Do vậy  xu  hướng  tác  động,  lên  tâm  lí  bệnh  nhân  nhằm mục đích điều chỉnh hành vi, nâng  cao  tính thích ứng  đang  ngày  càng được sử dụng nhiều. Hiện nay các biện pháp can thiệp tâm lí đang  mở  sang  lĩnh vực  chăm sóc sức khoẻ tâm thần tại cộng đồng.

Trong lâm sàng thần kinh:

Một khi bệnh nhân bị tổn thương não, đặc biệt  là  vỏ  não,  các  biểu  hiện rối loạn, biến đổi tâm lí cũng rất phức  tạp.  Chẩn  đoán tâm lí  thần kinh đưa ra nhận  định về khu vực tổn thương trên cơ sở phân tích các biến đổi, rối loạn tâm lí của người bệnh. Mặc dù hiện nay  các  phương  tiện kĩ  thuật  hiện đại đã có thể trợ giúp rất  nhiều trong chẩn  đoán định khu  thần  kinh  song ở một số nước, chẩn đoán tâm lí thần kinh vẫn được ưa dùng bởi giá thành rẻ.

Một mảng ứng dụng của tâm lí nữa  là  phục  hồi  chức  năng  tâm  lí  cấp  cao. Như đã biết, khi một vùng nào  đó  của  vỏ não  bị  bất  hoạt,  ví  dụ:  bị  phẫu  thuật tách bỏ, những vùng khác còn lại sẽ “chia sẻ” chức năng của  khu  vực  đó  theo nguyên lí bù trừ. Phục hồi chức năng  tâm  lí  cấp cao  nhằm  tác  động vào  những chức năng tâm lí còn được  bảo  toàn nhằm  thông qua  đó, điều khiển quá  trình bù trừ hoặc phục hồi diễn ra một cách tối ưu.

Chẩn đoán định khu tâm lí thần kinh và phục  hồi  hức  năng  tâm  lí  cấp  cao chính là những nội dung cơ bản của một chuyên  ngành  khác  của Tâm  lí  Y học:  Tâm lí Thần kinh.

Trong lâm sàng nội, ngoại khoa khác:

Hiện nay, ở nhiều nước, can thiệp tâm lí  đã được thực  hiện trong tất cả các khoa lâm sàng. Nhiều bệnh nhân, đặc  biệt  là những  người  bị  bệnh hiểm nghèo, ví  dụ như ung thư, AIDS…hoặc  bị  bệnh  mạn  tính  dễ  có  những  tổn thương nặng  nề về tâm lí, ví dụ như trầm cảm lo âu hoặc dễ  có ý nghĩ  và  hành vi  cực  đoan.  Can thiệp tâm lí chính là nhằm hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ tâm lí cho những người như vậy và cho bệnh nhân nói chung, cải thiện chất lượng cũng như kéo  dài  thời  gian sống cho họ nói riêng.

Trong công tác giám định:

Trong các hoạt động giám định như: giám định lao động, giám định hình luật – pháp y, giám định quân sự, chẩn đoán tâm lí có thể  được  trưng cầu. Kết quả này sẽ  là những cứ liệu có ích cho việc xác định tỉ lệ  mất  sức  khoẻ, độ  tin cậy của lời khai, chứng cứ…

Trong các dịch vụ tư vấn, tuyển chọn nghề nghiệp:

Hiện nay những ứng dụng của tâm lí lâm  sàng  đang  được  triển  khai  mạnh  trong các lĩnh vực tư vấn về sức khoẻ tâm lí cũng như tuyển chọn nghề.

Video liên quan

Chủ Đề