So sánh sài hồ bắc và nam năm 2024

Loài có quan hệ với thực vật Trung Quốc, mọc hoang ở vùng nước lợ, và cũng được trồng làm hàng rào. Trồng bằng hạt hoặc bằng cây con. Rễ có thể thu hái quanh năm. Đào rễ về, bỏ rễ con, rửa sạch, phơi hay sấy khô. Thu hái cành mang lá non quanh năm, dùng tươi, phơi khô hay nấu thành cao.

Ở Việt Nam, cây thường thấy ở các tỉnh vùng ven biển, nhiều nhất ở khu vực miền Trung và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Nam sài hồ là cây ưa sáng, thường mọc thành khóm riêng lẻ và thích nghi đặc biệt với vùng nước lợ nhưng cây vẫn có thể sinh trưởng tốt ở vùng nước ngọt hoặc những vùng bị nhiễm mặn, đôi khi cũng tạo thành quần thể tương đối điển hình.

Thành phần hoá học:

Phần trên mặt đất của Nam sài hồ phơi khô chứa các hợp chất triterpenoid. Rễ chứa tinh dầu.

Vị thuốc lức - sài hồ nam

(Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh...)

Tính vị:

Lức có vị mặn hơi đắng, tính mát.

Quy kinh:

Can, đởm

Tác dụng:

Tác dụng phát tán phong nhiệt, giải uất. Lá làm toát mồ hôi.

Rễ thường được dùng chữa ngoại cảm phát sốt nóng hơi rét, Nhức đầu, khát nước, tức ngực, khó chịu. Lá có hương thơm, thường dùng để xông, còn dùng chữa đau mỏi lưng.

Chủ trị:

Hàn nhiệt vãng lai, ngực sườn đau trướng, miệng đắng, không muốn ăn, buồn nôn (như sốt rét); đau đầu, chóng mặt, dễ cáu gắt, rối loạn kinh nguyệt, sa dạ con, sa trực tràng.

Cách dùng, liều lượng:

Ngày 3 – 12 g, phối hợp trong các bài thuốc. Dạng thuốc sắc hay hoàn tán. Thường phối hợp với các vị thuốc khác như Mạn kinh, Cam thảo đất, Kinh giới, Tía tô, Kim ngân. Lá và cành non giã nát, thêm ít rượu, xào nóng, đắp nơi đau ở hai bên thận để chữa đau mỏi lưng. Có thể dùng rễ.

Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc sài hồ nam - lức

Viên giải cảm:

Bột lá Lức 6,25g, bột Cam thảo 0,3g, bột Bạc hà 6,25g, Tá dược vừa đủ 100 viên, làm viên. Ngày uống hai lần, mỗi lần 5 viên. Trẻ em uống nửa liều người lớn.

Trà giải cảm:

Cây Lức khô, chặt nhỏ, đóng gói 50g, dùng pha nước uống thay trà.

Sốt nóng mùa hè (bệnh ôn nhiệt) hoặc cảm sốt lúc nóng, lúc rét, khát nước Nhức đầu, đắng miệng, ho, nôn oẹ, dùng:

Rễ Lức 10g, Sắn dây 12g, Hương nhu trắng 10g, Thanh bì 8g, sắc uống.

Tham khảo

Kiêng kỵ:

Không dùng cho người can dương thượng thăng, âm hư hoả vượng.

So sánh sài hồ bắc và sài hồ nam

Bắc Sài hồ (Bupleurum sinense DC- Thuộc họ hoa tán): Rễ hình trụ hoặc hình nón thon dài, dài 6-15 cm, đường kính 0,3-0,8 cm, đầu rễ phình to, ở đỉnh còn lưu lại gốc thân, dạng sợi ngắn. Phần dưới phân nhánh. Mặt ngoài màu nâu đen hoặc nâu nhạt, có vết nhăn dọc, vết sẹo của rễ con và lỗ vỏ. Chất cứng và dai, khó bẻ gẫy, mặt gẫy có những lớp sợi, vỏ màu nâu nhạt, phần gỗ màu trắng vàng. Mùi thơm nhẹ, vị hơi đắng, quy kinh can, đởm. Tác dụng: Phát biểu hòa lý, thóai nhiệt thăng dương, giải uất, điều kinh.

Nơi mua bán vị thuốc Lức đạt chất lượng ở đâu?

Trước thực trạng thuốc đông dược kém chất lượng, nguồn gốc không rõ ràng,... xuất hiện tràn lan trên thị trường, làm ảnh hưởng tới hiệu quả điều trị cũng như ảnh hưởng tới sức khỏe của bệnh nhân. Việc lựa chọn những địa chỉ uy tín để mua thuốc đông dược là rất quan trọng và cần thiết. Vậy khách hàng có thể mua vị thuốc Lức ở đâu?

Lức là vị thuốc nam quý, được sử dụng rộng rãi trong YHCT. Hiện tại hầu hết các cửa hàng thuốc đông dược, phòng khám đông y, phòng chẩn trị YHCT... đều có bán vị thuốc này. Tuy nhiên người mua nên chọn những địa chỉ có uy tín, đảm bảo chất lượng, có giấy phép hoạt động để mua được vị thuốc đạt chất lượng.

Với mong muốn bệnh nhân được sử dụng những loại dược liệu đúng, chất lượng tốt, phòng khám Đông y Nguyễn Hữu Toàn không chỉ là đia chỉ khám chữa bệnh tin cậy, uy tín chất lượng mà còn cung cấp cho khách hàng những vị thuốc đông y (thuốc nam, thuốc bắc) đúng, chuẩn, đạt chất lượng cao. Các vị thuốc có trong tiêu chuẩn Dược điển Việt Nam đều được nghành y tế kiểm nghiệm đạt chất lượng tiêu chuẩn.

Vị thuốc Lức được bán tại Phòng khám là thuốc đã được bào chế theo Tiêu chuẩn NHT.

Giá bán vị thuốc Lức tại Phòng khám Đông y Nguyễn Hữu Toàn:

Tùy theo thời điểm giá bán có thể thay đổi.

+ Khách hàng có thể mua trực tiếp tại địa chỉ phòng khám: Cơ sở 1: Số 482, lô 22C, Lê Hồng Phong, Ngô Quyền, Hải Phòng

Sài hồ là một cây sống lâu năm, cao 45-70cm, rễ nhỏ, hình trụ, phân nhánh hoặc không phân nhánh. Thân mọc thẳng, phân cành hình chữ chi. Lá mọc cách, mép nguyên, hình mác, dài 3-6cm, rộng 6-13mm, đầu lá nhọn, có 7-9 đường gần song song. Lá phía dưới có cuống ngắn, phía trên không có cuống. Cụm hoa hình tán kép, mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành. Trục cụm hoa chung. nhỏ và dài, có từ 4-10 cụm hoa phụ không dài nhỏ và dài, có từ 4-10 cụm hoa phụ không dài bằng nhau. Hoa nhỏ màu vàng. Quả hình bầu dục, dài độ 5mm, nhưng góc quả rất rõ, 3 ống tinh dầu nằm ở mặt tiếp giáp.

So sánh sài hồ bắc và nam năm 2024
Sài Hồ

Phân bố, thu hái và chế biến

Hiện chưa thấy mọc ở Việt nam; tại Trung Quốc mọc ở Nội Mông, Hà Bắc, Sơn Tây, Tử Xuyên.

Mùa thu hay mùa xuân đều thu hoạch được, đào lấy rễ về rửa sạch đất cát, phơi hay sấy khô là được.

Thành phần hoá học

Trong sài hồ có chừng 0,50% chất saponin, một chất rượu gọi là bupleurumola C37H64O2, độ chảy 163-164°C, phytosterola C30H48O2, và một ít tinh dầu. Trong thân và lá có chứa rutin

Tác dụng dược lý

Sài hồ đã được nghiên cứu về mặt dược lý. Chủ yếu có hai tác dụng:

  1. Tác dụng chữa sốt: Năm 1928, theo nhà nghiên cứu Nhật Bản là Cận Đăng Đông Nhất Bộ báo cáo đã dùng phương pháp kích thích bằng nhiệt để gây sốt cho thỏ rồi cho thỏ uống nước sắc sài hồ 20%, cứ 1kg trọng lượng cho uống 25ml. Sau khi uống thuốc 1 giờ đến 1 giờ rưỡi thì nhiệt độ hạ xuống bình thường hoặc dưới bình thường, sau đó lại tăng tới nhiệt độ bình thường.

Năm 1935, Mã Văn Thiên báo cáo đã dùng dung dịch 0,03% trực trùng coli tiêm vào tĩnh mạch thỏ với liều 2ml cho 1kg trọng lượng để gây cho thỏ sốt, sau đó tiêm dưới da dung dịch 5% cao rượu sài hồ trong nước (1ml tương đương với 1,1g sài hồ) thì thấy với liều 0,5ml trên 1kg thể trọng thì không thấy tác dụng chữa sốt; với liều 2ml cho 1kg thể trọng thì hơi có tác dụng giảm sốt, nhưng nhiệt độ không hạ tới mức bình thường; với liều 2,2ml trên 1kg thể trọng thì có tác dụng hạ sốt rõ rệt.

Độc tính của sài hồ rất thấp, dùng dung dịch nước 10% sài hồ tiêm dưới da chuột nhất thì thấy liều tối thiểu gây chết đối với chuột nhất là 1,1ml trên 10g thể trọng.

Năm 1935, Kinh Lợi Bản và Lý Đăng Bản cũng đã tiến hành thí nghiệm như trên, tiêm dưới da dung dịch 0,03% trực trùng coli với liều 2,3ml trên 1kg thể trọng đồng thời tiêm dưới da 4ml dung dịch nước của rượu sài hồ (mỗi mililit tương đương với 1,1g sài hổ) thì thấy có thể cản trở không cho vi trùng gây sốt đối với thỏ.

  1. Tác dụng chữa sốt rét. Theo Chu Mộc Triều và Hoàng Đăng Văn (1940), thì hàng ngày uống 40g thuốc sắc sài hồ có thể chữa sốt rét rất tốt.

Công dụng và liều dùng

Sài hồ là một vị thuốc chữa sốt dùng trong dông y.

Còn dùng chữa sốt rét, nhức đầu chóng mặt, sốt thương hàn, kinh nguyệt không đều. Dùng riêng hoặc phối hợp với nhiều vị thuốc khác.

Ngày dùng trung bình 4-10g. Có thể tăng giảm tuỳ theo tình hình bệnh tật cụ thể.

Theo tài liệu cổ sài hồ vị đắng, tính hơi hàn, vào 4 kinh can, đởm, tâm bào và tam tiêu. Có tác dụng phát biểu, hoà lý, thoái nhiệt, thăng dương, giải uất, điều kinh. Dùng chữa bệnh thiểu dương, hàn nhiệt vãng lai (khi nóng, khi lạnh) miệng đắng, tai ù, hoa mắt, đầu váng, nôn mửa, sốt rét, kinh nguyệt không đều.

Đơn thuốc có sài hồ

Chữa sốt, hư lao phát sốt, tinh thần mệt mỏi:

Tiểu sài hồ thang (bài thuốc thông dụng trong đồng y do Trương Trọng Cảnh dùng đầu tiên): Sài hồ 15g nhân sâm 4g, sinh khương 4g, bán hạ 7g, nước 600ml sắc, còn 300ml. Chia 3 lần uống trong ngày.

Chữa hư lao phát sốt, cảm mạo phát sốt:

Sài hồ 160g, cam thảo 40g. Hai vị tán nhỏ, mỗi ngày dùng 8g bột này sắc với 1 bát nước.

Chú thích:

Tại Trung Quốc, người ta dùng các vị sau đây với tên sài hồ.

  1. Nam sài hồ là rễ phơi khô của cây Bupleurum sachalinense Fr. Schmid hay cây B.falcatum L. var. scozoneraefolium Willd.
  2. Ngân sài hồ là rễ phơi khô của cây ngân sài hồ Stellaria dichotoma L. var. lanceolata Bunge (Stellaria dichotoma L. var. heterophylla Fenzl.) thuộc họ Cẩm chướng Caryophyllaceae.

Tại Việt Nam không rõ nguyên nhân từ đầu. người ta dùng rễ phơi khô của cây gần giống cây cúc tần, Pluchea pteropoda Hemsl, thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Có người lại dùng rễ cây cúc tần Pluchea indica Less. cùng họ làm vị sài hồ.

Sài hồ Việt Nam là một loại cỏ sống lâu năm, thân mầm chắc, cao 30-40cm, có thể cao tới 70cm, mang nhiều cành ở phía trên. Lá mọc cách, hình thìa, phía cuống hẹp lại, mép có răng cưa, lá dày, và có mùi thơm, mặt trên xanh hơn mặt dưới, dài 3-5cm, rộng 1,5-2.5cm. Cụm hoa hình đầu, màu đỏ nhạt, gần như không cuống. họp thành 2-4 ngủ. Lá bắc rất nhẵn, hình bầu dục, lá bắc phía trong hẹp hơn. Quả bế có 10 cạnh, có mào lông.

Cây sài hồ Việt nam mọc hoang tại miền nước mặn như Quảng Ninh, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình (vùng chợ Cồn đi Hải Triều).