So sánh học thuyết david ricardo và ho năm 2024

Trong thời đại D ngoại thương đóng vai trò quan trọng. Học thuyết lợi thế so sánh của ông nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, dựa trên nền móng là học thuyết về giá trị lao động.

Các chi phí để sản xuất sản phẩm được quy về hao phí lao động, và chuyên môn hóa trong việc sản xuất các loại hàng hóa. Vì vậy, theo ông phải tính được lợi thế của sự so sánh. Theo nguyên tắc này mỗi nước chỉ nên tập trung vào sản xuất một loại hàng hóa dựa trên thế mạnh của mình.

Lý thuyết LTSS của ông cho rằng ngoại thương có lợi cho mọi quốc gia miễn là xác định đúng lợi thế so sánh, tức là tạo ra phân công lao động giữa các nước. LTSS xuất hiện khi đối chiếu so sánh hao phí lao động cho mỗi đơn vị sản phẩm ít nhất 2 quốc gia. Muốn xác định LTSS ta phải xác lập lợi thế tuyệt đối.

Lợi thế tuyệt đối là khi tách ra xem xét một mặt hàng sản phẩm nào đó giữa vùng này với vùng khác, nước này với nước khác. Lợi thế tuyệt đối xuất hiện khi mặt hàng này nước này sản xuất được mà trước kia không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng với chi phí cao hơn nhiều. Điều này xảy ra là do điều kiện tự nhiên giữa các quốc gia khác nhau, trình độ khác nhau, hàng từ nơi có lợi thế sang nơi không có lợi thế như là một yếu tố khách quan là cơ sở sâu xa trong quan hệ ngoại thương.

Xác lập lợi thế tuyệt đối có nghĩa là hình thành tỷ lệ so sánh về hao phí lao động cho mỗi loại sản phẩm giữa các nước, so sánh các tỷ lệ được thiết lập. Các mặt hàng có tỷ lệ càng nhỏ thì được xem là có lợi thế và ngược lại. Các mặt hàng có lợi thế thì tăng cường sản xuất, các mặt hàng không có lợi thế nên hạn chế sản xuất và nên nhập khẩu.

Trong quan hệ kinh tế quốc tế, mỗi nước đều ra sức sử dụng các lợi thế tuyệt đối của mình để chế ngự lợi thế tuyệt đối của đối phương, tìm ra sự công bằng chung.

Vấn đề đặt ra là nếu một nước hoàn toàn có lợi thế tuyệt đối và nước kia thì có nên thiết lập quan hệ thương mại giữa hai nước hay không? D cho rằng ngay cả trong những trường hợp như vậy thì ngoại thương vẫn có lợi cho cả hai bên miễn là phải dựa trên cơ sở lợi thế so sánh, nghĩa là mọi quốc gia phải xác định được lợi thế so sánh của mình.

LTSS xã hội được xác lập khi đặt tất cả các sản phẩm để so sánh lẫn nhau về chi phí sản xuất tương đối. Chi phí sản xuất tương đối chính là tỷ số so sánh hao phí lao động của mỗi mặt hàng giữa hai nước.

A= Chi phí sản xuất sản phẩm M của nước X/ Chi phí sản xuất sản phẩm M của thế giới

B= Chi phí sản xuất sản phẩm N của nước X/ Chi phí sản xuất sản phẩm N của thế giới

Trong trường hợp A

3. Ý nghĩa trong việc xây dựng cơ chế kinh tế mở đối với Việt Nam:

Phân công lao động quốc tế có hoạt động ngoại thương đã đem lại lợi ích

cho tất cả các quốc gia nghĩa là với năng lực sản xuất không đổi nó làm cho tổng sản phẩm tăng lên, thu nhập thực tế của xã hội nói chung, của mỗi thành viên

nói riêng cũng tăng lên. Tự do thương mại quốc tế là tốt và có lợi.

Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì hoạt động ngoại thương không thể

thiếu. Mở cửa làm ăn buôn bán với các nước có ý nghĩa thiết thực, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Chúng ta phải xác định rõ đâu là mặt hàng có lợi thế của mình

để mà tăng cường sản xuất, xuất khẩu, lấy tiền mang về những thứ mà chúng ta chưa có khả năng sản xuất hay không có lợi thế. Tránh xuất khẩu những mặt

hàng mà chúng ta đang thiếu và nhập về những thứ mà chúng ta không cần thiết. Xuất nhập khẩu phải rõ ràng, có chọn lọc. Huấn luyện nhân sự, đào tạo những

cán bộ giỏi trong lĩnh vực ngoại thương có trình độ quốc tế. Hợp đồng ngoại thương cần phải rõ ràng, chính xác để sau này tranh chấp xảy ra thì có chứng cớ

mà giải quyết, hoạt động ngoại thương hướng vào tất cả các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau, không phân biệt với mục đích chính là phát triển kinh tế.

Lý thuyết về những lợi thế so sánh đã được David Ricardo (1772-1823) nêu ra. Lý thuyết này xác định những cái lợi của thương mại bằng cách chứng minh rằng trao đổi, với những sự chuyên môn hóa mà nó tạo nên,đem lại lợi ích cho tất cả những người cùng trao đổi với nhau. Mỗi nền kinh tế địa phương ắt sẽ có lợi trong việc chuyên môn hóa trong một hay một số khu vực có một lợi thế so sánh cho dù đó là nguồn nhân công dồi dào hay rẻ tiền, hay là tài nguyên khoáng sản và các tiềm năng về năng lượng: than đá, dầu mỏ, …

David Ricardo (1772 - 1823)

David Ricardo là con thứ 3 trong số 17 người con, trong gia đình rất thành đạt. Cha ông là người làm ngân hàng giàu có. Lúc đầu ở Hà-Lan, sau chuyển tới London. David học không nhiều và đi làm cho cha khi 14 tuổi. Khi 21, ông cưới vợ trái ý gia đình và bị tước thừa kế, ông lập công ty môi giới chứng khoán. Ricardo thành công như một hiện tượng và ông về hưu tuổi 42, tập trung viết lách và chính trị; đóng góp nhiều cho lý thuyết kinh tế; là bạn của nhiều nhà kinh tế học cổ điển Thomas Malthus và Jean-Baptiste Say. Cùng với Malthus ông mang quan điểm bi quan về tương lai lâu dài của xã hội. Tuy vậy, phần lớn tư tưởng học thuyết Ricardo ngày nay vẫn còn giá trị lớn và được giảng dạy rộng rãi. Các ấn phẩm của Ricardo đương thời không bán chạy lắm, nhưng qua thời gian loài người đã nhận thức đúng giá trị to lớn của chúng. Phần lớn các lý thuyết của ông tập trung vào lĩnh vực thị trường tiền tệ, và chứng khoán, bao gồm:

- Giá vàng cao, một bằng chứng xuống giá của giấy nợ ngân hàng (1810);

- Trả lời các quan sát của Bosanquet về báo cáo của Bullion Committee (1811);

- Đề xuất về đồng tiền an toàn và tiết kiệm (1816)

Tác phẩm quan trọng về kinh tế học thị trường:

- Luận văn về ảnh hưởng của giá ngô thấp và lợi nhuận của cổ phiếu (1815);

- Các nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khoá (1817).

Lý thuyết về lợi thế so sánh

Một học thuyết chủ đạo mà Ricardo đã phát triển ngày nay vẫn là những nền tảng quan trọng là lý thuyết thương mại quốc tế (lợi thế so sánh): Ricardo tập trung phân tích chi phí so sánh và tìm hiểu bằng cách nào để một quốc gia thu lợi được từ thương mại khi chi phí thấp hơn tương đối. Ví dụ: thương mại rượu vang và vải giữa Anh và Bồ đào nha. Ricardo chỉ ra rằng nếu một quốc gia sản xuất hàng hoá ở chi phí cơ hội thấp hơn, thì nên chuyên môn hoá vào đó. Và tham gia trao đổi hàng hoá quốc tế với quốc gia chuyên môn hoá ngành hàng khác. Chẳng mấy khó khăn để nhận ra Bồ đào nha thì nên chuyên môn hoá ngành gì trong lựa chọn Rượu vang hay vải! Lý thuyết này vẫn đúng ngày nay. Nếu tất cả các quốc gia đều chuyên môn hoá vào các lĩnh vực họ có lợi thế so sánh, mức phúc lợi toàn cầu sẽ tăng lên đáng kể.

Lợi thế so sánh là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế, khi các quốc gia tập trung

chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi những mặt hàng có bất lợi nhỏ nhất hoặc những mặt hàng có lợi lớn nhất thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi.

Thí dụ điển hình về lợi thế so sánh của Ricardo là thí dụ về trao đổi bông/rượu Porto giữa Bồ Đào Nha và Anh. Nếu Bồ Đào Nha không thể sản xuất vải trong những điều kiện thuận lợi như ở Anh, nghĩa là nếu họ phải dành nhiều thời gian và lao động hơn Anh, thì họ lại có lợi thế trong việc sản xuất rượu vang và họ dùng làm phương tiện trao đổi để mua vải bông ở Anh, nước này lại không thể sản xuất rượu vang trong những điều kiện thuận lợi như ở Bồ Đào Nha.

Như vậy lý thuyết này đối lập với lý thuyết về tự cung tự cấp. Như John Stuart Mill đã viết:

“ Nếu hai nước mua bán với nhau tìm cách tập trung cả kảh năng vật chất của mình để sản xuất ra những thứ mà họ hiện đang nhập của nhau, thì nhân công và tư bản hai nước sẽ không được sử dụng có hiệu quả, cả hai nước gộp lại sẽ không thể thu được từ nền công nghiệp của mình một lượng hàng hóa lớn như khi mỗi nước tìm cách sản xuất, cả cho bản thân mình cunx như cho nước kia, những của cải mà nhân công sản xuất của mính thành thạo hơn. Số của cải sản xuất trội ra của hai nước kết hợp với nhau tạo thành cái lợi của thương mại.”

Nói chung có thể hiểu là sản xuất trong nước cái mà nước khác có khả năng sản xuất với giá rẻ hơn thì sẽ là hoàn toàn không hợp lý.

Tuy nhiên lại đặt ra vấn đề là giải quyết lao động, bảo hộ nền công nghiệp, cán cân thương mại XNK . . .

Nói kỹ hơn, giả thiết về sự ngang nhau của các lợi thế và sự đảm bảo phát triển mà lợi thế so sánh và thương mại tạo ra có thể dễ dàng bị bác bỏ, chủ yếu bởi vì những người trao đổi với nhau không bao giờ ngang nhau, không dùng chung một công nghệ, không cùng một năng lực đầu tư, vận hành, không có những cơ cấu chính trị xã hội và kinh tế giống nhau, thậm chí đơn giản vì vị trí địa lý khác nhau.

Người ta biết cuộc tranh luận gay gắt mà Canada phải trải qua trong cả năm 1988 về thỏa ước tự do trao đổi với Mỹ. Dù cho Canada và Mỹ là hai nước có ngang nhau đi nữa, thì sự tự do hóa hoàn toàn việc trao đổi thương mại thì hiển nhiên là có vấn đề và nhiều nỗi lo ngại; liệu Canada có phải từ bỏ những chương trình xã hội của mình là những cái làm giảm sức cạnh tranh của họ hay không? Có những ngành sản xuất lớn liệu có phải bỏ đi hết không vì không tồn tại tình trạng thi đua giữa hai bên ngang nhau. Và nói chung là có rất nhiều vấn đề. . .

Thế nhưng vấn đề đặt ra ở đây là:

1. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu vẫn chỉ là một nước luôn có được tất cả các lợi thế so sánh? 2. Tình hình sẽ ra sao nếu một nước dễ dàng xóa đi lợi thế so sánh của các nước khác? 3. Giữa nước X và nước Y sẽ xảy ra chuyện gì đối với kẻ không có hay không còn có một lợi thế so sánh nào? 4. Sự giảm sút các điều kiện trao đổi sẽ dẫn tới những hiện tượng gì?

Phân tích đến cùng, chính cái giá trị gia tăng là cái cho phép đánh giá xem việc trao đổi đó là lý tưởng hay không, nó có biểu hiện một sự bất bình đẳng trong phát triển và một sự chuyên môn hóa làm nghèo đi hay không? Chính điều này theo Ricardo đã tác động bất lợi cho Bồ Đào Nha. Nước này, một là đã chuyên môn hóa trong một ngành mà có giá trị gia tăng thấp và hai là không tăng trưởng được. Còn nước Anh thì ngược lại. Nếu thực là như vậy thì đó là những tiền đề làm trì trệ kinh tế Bồ Đào Nha và ngược lại là những điều kiện tăng tiến cho nền kinh tế Anh.