Giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay

Giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay

TS. Lê Xuân Sang: Cần sớm hoàn thiện khung pháp lý để bảo vệ tốt hơn quyền lợi các nhà đầu tư (kể cả về mức độ ưu tiên hoàn trả nợ trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản). Ảnh: VGP/Hoàng Giang

Theo dõi thị trường chứng khoán trong nhiều năm qua, TS. Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho hay, gần đây việc hai chủ tịch tập đoàn lớn hoạt động trong lĩnh vực bất động sản bị bắt liên quan đến những vi phạm về chứng khoán và phát hành trái phiếu doanh nghiệp là hai vụ việc chưa xảy ra trước đó.

Những sai phạm này không những tổn hại đến môi trường đầu tư tài chính và tính lành mạnh, an toàn của thị trường tài chính mà còn trực tiếp gây thiệt hại nặng nề cho các nhà đầu tư trái phiếu lẫn cổ phiếu, thậm chí khiến không ít nhà đầu tư bị giải chấp oan tài khoản chứng khoán.

"Sự quyết liệt của Chính phủ đã thể hiện một quyết tâm xây dựng một thị trường tài chính, bất động sản lành mạnh, an toàn, hữu hiệu và bảo vệ các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư cá nhân, trong một thế giới nhiều biến động, nhiều cú sốc như hiện nay", TS.Lê Xuân Sang trao đổi với phóng viên Báo điện tử Chính phủ.

Theo Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, với các chức năng truyền thống của mình, thị trường chứng khoán là kênh quan trọng trong đầu tư vốn. Thị trường này giúp tăng hiệu quả, san sẻ các rủi ro từ các khoản đầu tư, nhất là các nhà đầu tư cá nhân, không chuyên nghiệp.

Một thị trường chứng khoán lành mạnh, hiệu quả, đặc biệt thị trường trái phiếu doanh nghiệp, giúp giảm thiểu rủi ro cho hệ thống tài chính và doanh nghiệp, giảm thiểu các rủi ro do sai lệch về kỳ hạn và loại đồng tiền trong bảng cân đối kế toán, giúp huy động vốn dài hạn giá rẻ.

"Thị trường chứng khoán hữu hiệu giúp nền kinh tế và thị trường tài chính, bất động sản lành mạnh hơn bởi nếu thiếu nó, các ngân hàng thương mại sẽ phải một mình "oằn mình" huy động và cho vay nền kinh tế với những rủi ro về an ninh tài chính có thể phát sinh, không thể xem thường", TS. Lê Xuân Sang nhấn mạnh.

Đáng lưu ý, không kém phần quan trọng, thị trường chứng khoán hữu hiệu có thể cung ứng vốn mạo hiểm và các loại vốn phi ngân hàng đặc thù khác để giúp thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nhất là huy động, gọi vốn cho các công ty công nghệ lớn (ví dụ như Facebook, Google,...) - điều mà thị trường ngân hàng rất khó có thể làm được.

"Tuy nhiên, ở Việt Nam, chủ yếu do thị trường còn non yếu nên đến nay vẫn còn một số bất cập, rủi ro nhất là đối với các nhà đầu tư như chúng ta đã biết", TS. Lê Xuân Sang cho hay.

Theo TS. Lê Xuân Sang, những nỗ lực, hành động quyết liệt của Chính phủ là rất cần thiết để trước hết xây dựng thị trường chứng khoán và bất động sản hữu hiệu, lành mạnh, bảo đảm kỷ luật tài chính, ngăn chặn và xử lý có hiệu quả hơn các hành vi vi phạm (như thao túng thị trường, phát hành trái phiếu doanh nghiệp,…), tiến tới những chuẩn mực cao về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình tài chính; bảo vệ tốt hơn lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư và giúp giá cả phản ánh tốt hơn quan hệ cung - cầu trên thị trường. 

Xếp hạng tín nhiệm DN phải hoạt động hiệu quả hơn

Phó Viện trường Viện Kinh tế Việt Nam nhận định, trong thời gian tới, sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam chịu tác động bởi cả các nhân tố ảnh hưởng thuận lợi lẫn không thuận lợi.

Các nguyên tắc cơ bản cần lưu ý là cần nỗ lực kiểm soát, hạn chế các yếu tố tiêu cực, rủi ro, song không bóp nghẹt sự phát triển năng động của thị trường, tránh hiệu ứng tiêu cực, dây chuyền do các nhà phát hành, nhà đầu tư lo ngại, hoảng sợ vì sự siết chặt kỷ luật thị trường và phát lộ các sai phạm kinh doanh khác.

Do đó, trước hết, cần phân lập và làm rõ các tổ chức phát hành trái phiếu, ngân hàng cho vay bất động sản và dư nợ, tính chất các khoản vay ngân hàng, độ khả tín của tổ chức phát hành để tránh sự hoảng loạn mang tính hệ thống, nhất là khi thông tin chưa đủ minh bạch, cập nhật, với nhiều tin đồn "ác ý" và nhiều nhà đầu tư cá nhân có bản lĩnh đầu tư, kỹ năng đầu tư chứng khoán còn hạn chế.

Việc quan trọng không kém, có ý nghĩa dài hạn là có quyết tâm cao hơn trong xây dựng môi trường pháp lý cũng như thành lập các công ty đánh giá/xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp có tính độc lập nhiều hơn và hiệu quả hoạt động cao, qua đó, nâng cao tính hiệu quả, độ an toàn cho phát hành và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp.

Ngoài ra, cơ quan quản lý cần tăng cường, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện và áp dụng các chuẩn mực quốc tế về tài chính, báo cáo tài chính để bảo đảm tính công bằng, đánh giá hữu hiệu, đồng nhất hơn về chất lượng quản trị và kết quả hoạt động của doanh nghiệp.

Theo TS. Lê Xuân Sang, thời gian thới chúng ta phải tiếp tục nỗ lực thúc đẩy việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam (từ hạng "Cận biên" lên "Mới nổi") để thu hút vốn nước ngoài và nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường cũng như hiệu quả quản trị thị trường, doanh nghiệp niêm yết. Sớm hoàn thiện khung pháp lý để bảo vệ tốt hơn quyền lợi các nhà đầu tư (kể cả về mức độ ưu tiên hoàn trả nợ trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản).

Phó Viện trường Viện Kinh tế Việt Nam cũng đề xuất, tăng cường công khai thông tin, minh bạch thị trường bất động sản, nhất là đẩy nhanh công tác xây dựng hệ thống chỉ số bất động sản theo các phân khúc thị trường và theo các địa phương.

"Đây là lĩnh vực rất ít có tiến triển trong thời gian qua mặc dù rất quan trọng trong phát triển một thị trường bất động sản hữu hiệu, lành mạnh", TS. Lê Xuân Sang bày tỏ.

Ngoài ra, để phát triển lành mạnh thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp, việc xác định và quản lý các hành vi tạo lập thị trường mang tính thị trường, hợp pháp cũng rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam thực hiện các cam kết hội nhập, bối cảnh thị trường chịu nhiều cú sốc khác nhau và dưới ảnh hưởng của ứng dụng mạnh mẽ công nghệ 4.0.

Hoàng Giang


Số lượng tài khoản của nhà đầu tư tiếp tục gia tăng, đạt 2,04 triệu tài khoản (tính đến ngày 27/04/2018), trong đó tài khoản nhà đầu tư nước ngoài đạt 25.171 tài khoản, tăng 10% so với cuối năm 2017.

Gần 5 tháng, vốn hóa thị trường chứng khoán đạt hơn 3,8 triệu tỷ

Đánh giá về hoạt động của ngành chứng khoán năm 2017 và những tháng đầu năm 2018, Bộ Tài chính cho rằng, thị trường chứng khoán Việt Nam đã dần khẳng định và trở thành kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế.

Cụ thể, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu năm 2017 đạt hơn 3,5 triệu tỷ đồng, tương đương 70,2% GDP, vượt chỉ tiêu của Chính phủ đề ra cho năm 2020.

Năm 2018 thị trường tiếp tục duy trì đà phát triển, tính đến ngày 24/5/2018 mức vốn hóa thị trường đạt 3,8 triệu tỷ đồng, tăng 9,4% so với cuối năm 2017, tương đương 76,8% GDP. Thị trường chứng khoán đã có sự tăng trưởng mạnh trong quý 1/2018, chỉ số VN-Index đã bứt phá ra khỏi vùng đỉnh lịch sử được thiết lập năm 2007, đạt 1.204,33 điểm (ngày 9/4), tăng 22,4% so với cuối năm 2017.

"Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán ngày càng góp phần tích cực thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và quá trình cải cách đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Năm 2017, hoạt động thoái vốn nhà nước đạt mức kỷ lục gần 123.000 tỷ đồng, gấp 7,8 lần so với năm 2016. Thặng dư thu về cho ngân sách Nhà nước đạt hơn 1.900 tỷ đồng. Các đợt đấu giá thoái vốn chiếm 73% tổng số các phiên đấu giá trên cả 2 Sở với tỷ lệ thành công cao, đạt 83,6%", Bộ Tài chính nhận định.

Điển hình là đợt đấu giá thoái vốn tại Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn đã thu về cho Nhà nước gần 110.000 tỷ đồng (tương đương 4,8 tỷ USD), được coi là thương vụ bán vốn kỷ lục tại Việt Nam, hay các đợt đấu giá thoái vốn tại Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk)... đã thu hút được sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư trên thị trường vốn trong khu vực và thế giới.

Năm 2017 cũng ghi nhận lượng vốn đầu tư nước ngoài vào ròng ở mức lớn chưa từng thấy trong lịch sử thị trường chứng khoán Việt Nam với mức mua ròng 47.864 tỷ đồng (gấp 8 lần so với giá trị mua ròng trong năm 2016). Giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài tăng mạnh do tăng mua ròng mạnh các cổ phiếu vốn hóa lớn.

Tính đến cuối năm 2017, tổng giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 32,9 tỷ USD, tăng 90% so với cuối năm 2016. Giá trị vốn đầu tư gián tiếp vào ròng năm 2017 đạt hơn 2,9 tỷ USD, tăng hơn gấp đôi so với năm 2016.

Bước sang năm 2018, theo Bộ Tài chính, số lượng tài khoản của nhà đầu tư tiếp tục gia tăng, đạt 2,04 triệu tài khoản (tính đến ngày 27/4/2018), trong đó tài khoản nhà đầu tư nước ngoài đạt 25.171 tài khoản. tăng 6% so với cuối năm 2017. Giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục duy trì ở mức cao, tính đến hết tháng 4/2018 đạt 36,2 tỷ USD, tăng 10% so với cuối năm 2017.

Thị trường giao dịch của các công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCoM) cũng có sự tăng trưởng mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu trong năm 2017 với quy mô vốn hóa đạt 677.700 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với cuối năm 2016 và cao hơn 3 lần giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu niêm yết của Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội.

Nhiều công ty đại chúng quy mô lớn đã lựa chọn UPCoM để lên đăng ký giao dịch như Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) và Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) với giá trị lên đến hàng tỷ USD, chiếm khoảng 11% tổng mức vốn hóa đã góp phần nâng cao chất lượng hàng hóa trên thị trường UPCoM.

Thị trường trái phiếu chính phủ ghi nhận bước phát triển mới về chiều sâu và hiệu quả điều hành chính sách tài khóa của Chính phủ. Dư nợ trái phiếu chính phủ niêm yết đạt 997.500 tỷ đồng, tăng 7,2% so với cuối năm 2016 (tương đương 20% GDP năm 2017).

9 giải pháp phát triển thị trường chứng khoán

Để bảo đảm duy trì sự ổn định và bền vững của thị trường chứng khoán, Bộ Tài chính cho biết, trong thời gian tới đơn vị này và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước sẽ triển khai đồng bộ một số giải pháp cụ thể.

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao năng lực quản lý, giám sát, trong đó triển khai xây dựng Luật chứng khoán sửa đổi; hoàn thiện hồ sơ dự án Luật Chứng khoán (sửa đổi) trình Chính phủ, trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa 14 (tháng 10/2018).

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh công tác cổ phần hóa, thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước gắn với việc niêm yết và đăng ký giao dịch. Triển khai cơ chế tạo lập thị trường, phát hành Bộ nguyên tắc quản trị công ty (CG code); nghiên cứu triển khai nghiệp vụ giao dịch trong ngày và thanh toán chứng khoán chờ về...

Thứ ba, đa dạng hóa các sản phẩm chứng khoán, các sản phẩm liên kết đầu tư, sản phẩm cơ cấu; triển khai các sản phẩm chứng khoán phái sinh hợp đồng tương lai trên một số chỉ số mới và hợp đồng tương lai trái phiếu Chính phủ; triển khai sản phẩm chứng quyền có bảo đảm; phát triển thêm các chỉ số cơ sở để làm tài sản cơ sở cho phái sinh.

Thứ tư, hoàn thiện và phát triển thị trường trái phiếu bằng cách đa dạng hóa các sản phẩm trái phiếu Chính phủ. Phát triển hệ thống thành viên đấu thầu trái phiếu chính phủ; triển khai đề án phát triển trái phiếu doanh nghiệp; hoàn thiện phương án tổ chức thị trường trái phiếu doanh nghiệp và công tác chuẩn bị để có thể đưa thị trường giao dịch trái phiếu doanh nghiệp vào hoạt động trong năm 2018.

Thứ năm, phát triển và đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư và cải thiện sức cầu, như tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ hàng Frontier market lên hạng Emerging market trên bảng xếp hạng MSCI.

Thứ sáu, phát triển, nâng cao năng lực cho hệ thống các tổ chức trung gian thị trường, tiếp tục tái cấu trúc hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán để giảm số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ; phát triển hệ thống thành viên đấu thầu trái phiếu chính phủ.

Thứ bảy, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu thị trường chứng khoán theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ với 4 nội dung trọng tâm là: tái cơ cấu tổ chức thị trường; tái cấu trúc hàng hóa; tái cơ cấu về cơ sở nhà đầu tư và tái cơ cấu các tổ chức trung gian.

Thứ tám, tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát thị trường chứng khoán và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Thứ chín, đẩy mạnh các giải pháp giúp nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi. Trong đó, tập trung vào các giải pháp như tăng quy mô đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc gia tăng số lượng các công ty có vốn hóa lớn, thúc đẩy và tạo điều kiện cho doanh nghiệp huy động vốn...