Ban nhiễm trùng là gì
Bệnh thứ 5 hay còn gọi là bệnh ban đỏ nhiễm trùng , đó là 1 tình trạng nhiễm trùng gây nổi ban , sốt và 1 số triệu chứng khác . Nguyên nhân gây bệnh là virus Human parvovirus ‘’. Bệnh thứ 5 khá phổ biến ở trẻ em những người lớn cũng có thể bị, nếu phụ nữ có thai bị bệnh này có thể gây nguy hiểm cho thai nhi Show
Triệu chứng của bệnh thứ 5 như thế nào ?Rất nhiều người bị bệnh thứ 5 nhưng không có triệu chứng hoặc có nhưng rất nhẹ , hầu hết cảm thấy khá hơn sau vài tuần . Các triệu chứng bao gồm :
Các triệu chứng trên có thể kéo dài từ 2-5 ngày sau đó các triệu chứng có thể là:
Những đối tượng sau có thể cảm thấy mệt mỏi và nặng nề hơn những người khác khi bị bệnh thứ 5 :
Có xét nghiệm nào cho bệnh thứ 5 không ?Xét nghiệm máu gợi ý 1 tình trạng nhiễm siêu vi . để xác định loại virus gây bệnh thứ 5 thì thực hiện ở các nước y khao tiến bộ . Có cần đưa con tới gặp bác sĩ không ?
Điều trị bệnh thứ 5 như thế nào ?Hầu hết những người bị bệnh thứ 5 sẽ cảm thấy khỏe hơn mà không cần điều trị gì. Nếu con bạn bị ngứa hoặc đau khớp bác sĩ có thể kê cho con bạn thuốc chống ngứa hoặc giảm đau, chẳng hạn như ibuprofen để giảm đau, giúp con bạn dễ chịu hơn. Bệnh thứ 5 có thể phòng ngừa được không ?Có
Tài liệu tham khảohttps://www.facebook.com/diendannhikhoa/posts/604001133130744
1. Đại cương Ban đỏ nhiễm khuẩn (erythema infectiosum) là tình trạng phát ban ngoài da ở trẻ em do Parvovirus B19, bệnh có tên gọi quen thuộc khác là bệnh thứ năm (fifth disease). Vì sao lại có tên gọi này? Đó là theo cách phân loại cổ điển về ngoại ban nhiễm trùng ở trẻ em, có sáu bệnh được gọi tên theo thứ tự, trong đó ban đỏ nhiễm khuẩn ở vị trí thứ năm.
2. Căn nguyên gây bệnh Parvovirus B19 được phát hiện vào năm 1975, thuộc họ Parvoviridae. Virus hình cầu, không có vỏ, nhân là chuỗi đơn AND, trọng lượng của genome là 5600PB, chỉ có một typ huyết thanh (serotype) nhưng có nhiều typ gen (genotype). Tên gọi B19 chỉ mẫu huyết thanh mà trong đó virus được phân lập. Giống như các virus AND không có vỏ, cơ chế gây bệnh của Parvovirus B19 liên quan tới việc gắn vào các thụ thể (receptor) của tế bào vật chủ. Ở người, thụ thể màng của virus là kháng nguyên P, còn được gọi là globoside. Thông qua kháng nguyên P, virus gây nên bệnh thứ năm ở trẻ em. Ngoài ra, virus còn có ái lực với các loại tế bào khác như hồng cầu, hồng cầu chưa trưởng thành, tế bào nội mô, rau thai, tế bào cơ tim, tế bào gan. Virus gây ra biểu hiện ở khớp là do lắng đọng phức hợp miễn dịch lưu hành. 3. Dịch tễ Bệnh hay gặp vào mùa xuân, mùa hè ở các vùng có khí hậu nóng, gây thành dịch ở trường học, trong gia đình. Thời gian ủ bệnh khoảng 6-18 ngày. Ở giai đoạn phát ban, bệnh không lây nhiễm. Virus vào máu sau 5-10 ngày. Có thể tìm virus từ bệnh phẩm là dịch tiết của miệng hoặc mũi. Các đường lây truyền virus là không khí, lây từ mẹ sang con, lây quan đường máu. Virus có thể tồn tại lâu trong máu, tủy xương, da dưới dạng genome. Tỷ lệ huyết thanh dương tính với Parvovirus B19 là 15% ở trẻ từ 0-5 tuổi, 50% ở người 5-20 tuổi, và 85% ở người già. Tỷ lệ nhiễm trùng không có triệu chứng gặp trong 25-50 % số ca. Huyết thanh học cho thấy sự có mặt của IgM vào ngày thứ 8 sau khi nhiễm trùng, biến mất sau 3 tháng, IgG có mặt vào ngày 15-21 sau nhiễm trùng.4. Biều hiện lâm sàng của bệnh thứ năm Giống như các bệnh phát ban do virus khác, bệnh thứ năm thường có biểu hiện đầu tiên không đặc hiệu như sốt nhẹ, đau đầu. Sau đó vài ngày xuất hiện phát ban. Có hai dấu hiệu phát ban nổi bật: hai má đỏ và ban đỏ dạng lưới ở chi, thân mình. Ở má, thương tổn đỏ da, chắc, cảm giác hơi nóng, rát, được gọi là dấu hiệu “slapped cheeks” (như ai đó đánh vào hai má của trẻ). Triệu chứng này kéo dài 2-4 ngày, sau đó xuất hiện ban đỏ màu hồng, dạng lưới ở các chi, có thể gặp ở cả thân mình. Ban có thể mất đi sau vài ngày, nhưng một số trường hợp kéo dài vài tuần, được quan sát rõ nhất khi thời tiết ấm. Hạch vùng sưng to, viêm họng là những triệu chứng có thể gặp.Ngoài ra, Parvovirus B19 còn gây ra hội chứng ngứa có sẩn ở vùng tay chân đi găng (papular purpuric gloves and socks syndrome-PPGSS). 5. Biến chứng Bệnh lành tính nhưng có thể gây nguy hiểm ở người suy giảm miễn dịch, dùng thuốc ức chế miễn dịch hoặc ở phụ nữ mang thai. Parvovirus B19 không gây dị tật thai nhi nhưng gây thai lưu với tỷ lệ khoảng 9%. Trong khi đó, các xét nghiệm sàng lọc trong quá trình mang thai thường bỏ qua căn nguyên này. Các biến chứng khác có thể gặp là viêm đa khớp, viêm não, viêm gan, viêm cơ, bệnh tim, nhồi máu ruột. Ảnh 1, 2, 3, 4. Dấu hiệu “slapped cheeks”, hai má đỏ. Ảnh 5. Ban màu hồng ở thân mình
Trong một hội chứng nhiễm trùng, sự xuất hiện ban ngoài da hướng ngay chẩn đoán đến nhóm nhiễm trùng có nguồn gốc vi-rút hoặc vi khuẩn, trong đó biểu hiện ngoài da là yếu tố triệu chứng học hằng định. Những bệnh lí này đã được chỉ ra từ khá lâu dưới tên sốt phát ban. Chúng chủ yếu gặp trong bệnh sởi, tinh hồng nhiệt, thuỷ đậu… Tuy nhiên, tất cả các bệnh sốt kèm theo biểu hiện ngoài da không phải là “sốt phát ban” theo nghĩa hẹp. Thực tế cũng có thể thấy một số ban ngoài da trong các bệnh viêm, trong các bệnh dị ứng, bệnh máu. Cách thăm khám trước một biểu hiện banPhân tích triệu chứng của phát banGồm: dạng ban, tính chất xuất hiện, mật độ, thường xuất hiện và tiến triển. Nhận biết các dạng ban:
Trong quá trình khám, chú ý đến:
Khám lâm sàng
Tiền sửHỏi các dấu hiệu lâm sàng xuất hiện trong thời gian bị bệnh (sốt, đau họng), viêm long hô hấp, các dấu hiệu cùng một lúc và thời gian xuất hiện chúng. Hỏi các thuốc đã dùng trước đó. Chú ý đến dịch tễ học: sốt phát ban, ngày tiêm và loại văc-xin đã tiêm, chú ý hỏi về người trong gia đình và trường học. Thăm dò sinh họcTrong một số trường hợp lâm sàng chưa chắc chắn nên làm phản ứng huyết thanh (HT) với bệnh sởi ở nhiều trẻ em, đặc biệt HT chẩn đoán bệnh Rubella ở phụ nữ có thai. Chẩn đoán phân biệtBan xuất huyết: màu đỏ, căng da không mất, ban lặn từ từ, chuyển màu đỏ – tím vàng – mất hẳn. Vết do côn trùng tiết túc đốt: hay gặp ở nơi da hở (muỗi), da kín, nếp gấp (ve, mò đốt). Ban nhỏ có chấm đen ở giữa, có thể ngứa. Các phát ban nhiễm trùng thường gặpBan dạng tinh hồng nhiệt và ban dạng sởi– Loại ban dát hay sẩn, có thể rời rạc hay liền nhau. Ban có thể gặp ở toàn cơ thể, trừ gan bàn tay, bàn chân. – Phát ban hoàn toàn xung huyết. Ban sẽ mất khi căng da (điều này không xảy ra với chấm hay mảng xuất huyết). – Sự nhận biết dạng ban có thể hướng đến căn nguyên tuy nhiên những tác nhân này có thể biểu hiện dạng ban này hay dạng khác. Bệnh tinh hồng nhiệt (do liên cầu)
Sởi
Bệnh Rubella – Sự xuất hiện ban dạng sởi lần hai sau ban dạng tinh hồng nhiệt, hạch to, tăng bạch cầu đơn nhân, đau cơ. Bệnh ngoại ban kịch phát (hay ban đỏ ở trẻ em, bệnh thứ sáu)Có thể tiên phát do virus Herpes typ 6 (HHV 6) Nhiễm trùng tiên phát do virus Epstein-Barr:
Phát ban do dị ứng thuốc:
Ban do Enterovirus Loại Enterovirus không gây viêm tuỷ là Echo hay Coxsackie thường gây phát ban dạng sởi. Phát ban kèm theo các triệu chứng ít điển hình của nhiễm trùng giống như giả cúm, tiêu chảy, đau đầu, đau cơ. Đôi khi biểu hiện giống như viêm màng não tăng lympho hay bệnh Bornholm. Các virus có thể được phân lập từ phân nhiều hơn từ nước não tuỷ. Các virus thuộc typ ECHO 1 và 9, 11, 14, 16, 18, 19, 25, 30; Coxsackie B1 và 6. Thường gặp nhất là ngoại ban của Boston do virus ECHO 16 có biểu hiện dịch tễ và hội chứng màng não và phát ban do ECHO 19 gây hội chứng màng não và ban xuất huyết. Ngoại ban dạng tinh hồng nhiệt hay dạng sởi do nguyên nhân ít gặp khác: – Thường gặp nhất do virus:
– Ban do vi khuẩn:
– Ban do ký sinh trùng
– Bệnh Kawasaki hay hội chứng sốt và viêm hạch, da, u mạch cấp. Căn nguyên thường do nhiễm trùng, hay gặp ở trẻ nhỏ, có thể gây dịch nhỏ. Tiến triển của bệnh kiểu 2 pha:
Ban dạng nốt phỏng hay có mủBan dạng nốt phỏng hay có mủ chủ yếu do nguyên nhân nhiễm trùng, mặc dù ban phỏng nước thường chủ yếu do miễn dịch dị ứng hơn là nhiễm trùng (như thuỷ đậu, hay Zona ở người suy giảm miễn dịch, viêm màng não mủ do não mô cầu tối cấp hay do nhiễm trùng tụ cầu). Ban dạng nốt phỏng:
Ban dạng có mủ: Viêm nang lông do tụ cầu: Nốt phỏng mủ không do viêm nang lông:
Ban gan bàn tay, bàn chân: Căn cứ hình thái ban này đa dạng, thường có các nguyên nhân sau:
Ban đỏ nút (Erythema nodosum) Là viêm da và tổ chức dưới da bán cấp do viêm mạch của các mạch lớn ở dưới da, có nhiều nguyên nhân gây ra. Chẩn đoán lâm sàng
– Cận lâm sàng có thể có tăng bạch cầu, biểu hiện hội chứng viêm. – Mỗi đợt kéo dài 8 – 15 ngày, không có mủ, tiền sử có thể có va đập gây nên viêm chân bì, tiến triển có thể có 2 – 3 đợt cấp (tuỳ theo tuổi), không để lại sẹo. Một số nguyên nhân chủ yếu: Lao tiên phát: Chẩn đoán dựa vào xét nghiệm đờm và bệnh phẩm tại chỗ, phản ứng Mantoux, tốc độ máu lắng, Xquang phổi. Benh.vn Rối loạn nhịp thất Rung thất: là tình trạng từng vùng cơ thất rung lên, các bó sợi cơ thất co bóp khác nhau, không đồng bộ, do những ổ lạc vị trí trong thất phát xung động loạn xạ gây ra. Hậu quả là tim mất chức năng “bơm” máu, tim ngừng đập, mất mạch, mất ý thức và tử vong.
|