Vội vàng xuân diệu đánh giá

lediem.net giới thiệu đến các bạn bài viết Phân tích bài Vội vàng (Xuân Diệu). Ở đây, tôi sẽ gợi ý, hướng dẫn các bạn cách viết, triển khai ý, để thành một bài văn nghị luận Phân tích bài Vội vàng (Xuân Diệu) một cách chi tiết nhất. Mời các bạn tham khảo.

Đề: Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.

Viết mở bài: Phân tích bài Vội vàng

Lê-ô-nít Lê-ô-nốp từng nói: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung.” Quả thật vậy, một tác phẩm văn học chân chính là sự khám phá, phát minh và sáng tạo cả về nội dung lẫn hình thức. Tác phẩm Vội vàng của Xuân Diệu là một tác phẩm như thế. Trong tác phẩm Vội vàng, nhà thơ thể hiện tâm trạng yêu đời, yêu cuộc sống cũng như những quan niệm mới mẻ và độc đáo về mùa xuân, thời gian và tuổi trẻ. Cụ thể, sẽ được thể hiện trong đoạn thơ sau:

“Tôi muốn tắt nắng đi

….

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.

Vội vàng xuân diệu đánh giá
Phân tích bài Vội vàng

Viết khái quát về tác giả, tác phẩm, chủ đề: Phân tích bài Vội vàng

Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Trước Cách Mạng, ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. Xuân Diệu là một cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hoá lớn.

“Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước Cách mạng, trích trong tập “Thơ thơ” (1938). Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống.

Xuân Diệu là nhà thơ trữ tình lãng mạn, luôn khát khao giao cảm với đời đến cuống quýt, cuồng nhiệt. Nếu cần tìm một bài thơ bộc lộ rõ nhất về phong cách của Xuân Diệu thì đó là “Vội vàng”. Thi phẩm này đã nói với chúng ta cái cảm xúc vồ vập với cuộc đời của tuổi trẻ. Bài thơ tập trung cao nhất cái khát vọng mãnh liệt ấy. Xuân Diệu đặt khát vọng giao cảm giữa tuổi trẻ và xuân tình, qua đó bộc lộ một xúc cảm triết học, một quan niệm nhân sinh mới mẻ, hiện đại.

Vội vàng xuân diệu đánh giá
Phân tích bài Vội vàng

Phân tích, đánh giá nội dung: Phân tích bài Vội vàng

Xuân Diệu yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp đến mãnh liệt đến cường tráng nhưng bên trong những vần thơ của ông vẫn gây cho người đọc một cảm giác chênh vênh, hụt hẫng. Bởi tình yêu luôn gắn với nỗi đau, niềm vui song song với nỗi buồn, bởi niềm vui đó rồi cũng phải hết, không thể tồn tại vĩnh hằng được. Bằng cái nhìn mổ xẻ, ta cũng thấy lòng khát sống, ham đời trong “Vội vàng” bị chẻ đôi thành hai tầng bậc: Một cách cảm thụ thế giới mang tính bi kịch và một cách ứng xử trước thế giới mang tính tích cực. Nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này lắm, muốn níu giữ nhưng nhìn lại, tác giả lại nhận thấy một bi kịch sự sống. Trong sự cảm thụ thế giới của Xuân Diệu, cuộc sống được phát hiện ở tính bi kịch. Bi kịch nay là sự giằng xé giữa tình yêu và nỗi đau, giữa cảm xúc và nhận thức.

Ngay mở đầu bài thơ Xuân Diệu đã bộc lộ ham muốn, cái tôi cá nhân thật táo bạo, ngông cuồng:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Lòng yêu đời, yêu cuộc sống của Xuân Diệu đã biến thành cái ham muốn thật táo bạo muốn “tắt nắng”, “buộc gió”. Phải chăng nhà thơ nhận ra cuộc sống là tuyệt diệu nhưng mỏng manh quá nên cố níu giữ bằng mọi cách? “Nắng” và “gió” vốn là những hiện tượng của tự nhiên nó có quy luật riêng. Vậy mà ở đây thi sĩ lại đòi đoạt quyền tạo hóa để tắt nắng buộc gió lại để giữ lại những hương sắc trời ban. Các động từ “tắt nắng”, “buộc gió” thể hiện khát khao níu giữ thiên nhiên níu giữ cuộc đời của Xuân Diệu. Gió đâu có thể buộc được, nắng làm sao có thể tắt. Dẫu biết rằng không thể nào đoạt được quyền tạo hóa nhưng bằng tình yêu thiên nhiên cuộc đời nhà thơ vẫn “tham lam” thể hiện nguyện vọng của mình. Điệp từ “tôi muốn” càng thể hiện rõ ước muốn của nhà thơ. Phải chăng một đời người với ông là chưa đủ để tận hưởng hết những điều tuyệt vời của cuộc sống ấy. Trước sự thay đổi của đất trời, của thiên nhiên ông muốn ôm lấy tất cả muốn níu giữ tất cả những gì là đẹp nhất. Trong cái ngông cuồng, táo bạo đó vẫn hiện lên sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn. Với Xuân Diệu sống là một điều kỳ diệu, sống là để tận hưởng và cũng là cống hiến hết mình cho cuộc sống. Thế giới trong mắt của Xuân Diệu chính là một bữa tiệc rực rỡ đầy sắc màu. Thiên nhiên hiện lên trong các dòng thơ tràn trề sức sống. Cảnh sắc mùa xuân được miêu tả căng tràn nhựa sống như vẻ đẹp của cô gái đang độ xuân thì. Đây là khổ thơ duy nhất Xuân Diệu dùng thể ngũ ngôn để tạo một giọng điệu gọn, chắc, thể hiện ý chí mạnh mẽ muốn chặn đứng bước chân thời gian. Nhưng ý chí chủ quan sao thắng được quy luật khách quan. Vì thế, hơi thơ mạnh mà bên trong vẫn hẫng hụt, bất lực.

Tình yêu cuộc sống này tràn ngập trong huyết mạch của nhà thơ, nhà thơ nhận thấy cuộc sống nơi mình đang sống như một thiên đường. Có một câu hỏi lớn từng thôi thúc loài người tìm lời giải đáp: Vẻ đẹp cuộc sống ở đâu? Đạo Thiên Chúa tìm vẻ đẹp ở thiên đường cao cả. Đạo Phật tìm vẻ đẹp ở cõi Niết bàn bình an. Còn Xuân Diệu, thiên đường nằm ngay trên mặt đất:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Xuân Diệu say đắm với mùa xuân, say trong ánh nắng, say trong rực rỡ của cỏ cây hoa lá, say trong tiếng chim hót. Cuộc sống thật tươi đẹp, thật đáng sống biết bao khi “mỗi buổi sáng thần Vui hằng gõ cửa”. Điệp ngữ: “Này đây” lặp bốn lần là tiếng reo vui đầy kinh ngạc của tác giả vì liên tiếp phát hiện ra những vẻ đẹp kì lạ của cuộc sống. Thêm nữa bức tranh ấy còn có cả tình yêu đôi lứa khi hiện lên trên hình ảnh của ong bướm với tuần tháng mật. Đó là niềm hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ trong tuần trăng mật đầy yêu thương. Điệp cấu trúc “này đây tác giả như muốn mời gọi, bày ra, phô ra những gì đẹp nhất trên cõi hồng trần này. Sau mỗi tiếng reo vui, cuộc sống hiện ra, giản dị mà đắm say: cái đắm say tình tứ của ong bướm, yến anh; cái đắm say bát ngát sắc xanh của đồng nội; cái đắm say non tơ của cành lá… Từ những hình ảnh cụ thể, tiếng reo vọt trào lên một cảm xúc tổng hợp và lạ lùng trước thiên nhiên.

Đặc biệt là hình ảnh “tháng giêng ngon như một cặp môi gần” cho thấy sự đẹp tuyệt vời lôi cuốn ấy. Đây được coi là câu thơ có một không hai trong thơ ca Việt Nam, tác giả đã dùng cái vật nhìn thấy để so sánh với cái vô hạn của thời gian. Câu thơ đặc sắc lấp lánh ba vẻ đẹp độc đáo. “Tháng giêng” là khởi đầu của một năm, khởi đầu của mùa xuân – mùa xuân tươi non mơn mởn là biểu tượng vẻ đẹp cuộc sống. Hình ảnh “cặp môi gần” gợi làn môi tươi hồng của thiếu nữ đang hé mở đợi chờ. Phép so sánh đã hội tụ mùa xuân với tuổi trẻ thành vẻ đẹp tổng hợp của cuộc sống. Quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của Xuân Diệu đã đưa cặp môi thiếu nữ vào trung tâm vũ trụ, con người thành chuẩn mực vẻ đẹp của thiên nhiên. Có thể nói đây là một câu thơ đắt giá của nhà thơ Xuân Diệu. Một Xuân Diệu táo bạo, mới lạ nữa xuất hiện trong từ “ngon” đầy cảm giác nhục thể, tình yêu cuộc sống được huy động cả linh hồn lẫn thể xác. Vẻ đẹp của khổ thơ thật trẻ, thật nồng. Qua đây ta thấy một thiên đường được nhà thơ vẽ lên trước mắt chúng ta thật hấp dẫn lôi cuốn đến kì diệu. Không những thế ẩn sau những câu thơ ấy ta thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu đời tha thiết da diết của thi sĩ.

Yêu thiên nhiên như thế nên Xuân Diệu không thể dấu được cảm xúc của mình. Đó là một cảm xúc vui sướng nhưng lại vội vàng một nửa, hạnh phúc ấy làm cho tác giả phải cố gắng sống nhanh nhất có thể để tận hưởng hết. Thơ Xuân Diệu không bao giờ bình yên vì tình yêu luôn vấp phải nỗi đau. Mạch thơ vui đang dào dạt chảy bỗng vấp phải một dấu chấm cắt giữa câu thơ:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”

Dấu chấm giữa dòng như sự ngăn giữa hai thái cực của cảm xúc. Tác giả hạnh phúc nhưng cũng vội vàng để nhanh chóng tận hưởng cho hết những gì tươi đẹp nhất của cuộc sống này. Cuộc sống tươi đẹp, ý nghĩa bao nhiêu thì nhà thơ lại cảm thấy mình rơi vào tấn bi kịch bấy nhiêu. Bi kịch cuộc sống dồn tụ trong câu thơ. Bi kịch xuất phát từ một phát hiện triết học về thời gian:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”

Đây là quan niệm chưa từng có trong cái nhìn truyền thống. Thời gian trong cái nhìn của văn chương trung đại vốn được quan niệm là thời gian tuần hoàn, thời gian lặp lại tuần tự:

Tháng chạp là tháng trồng khoai

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà

(Ca dao)

Nhịp thời gian muôn đời không đổi tạo nên thế quân bình nội tâm khiến con người ung dung, bình tĩnh đến chậm chạp, lấy sinh mệnh vũ trụ làm thước đo thời gian. Thời gian hiện đại khác hẳn, là thời gian tuyến tính (một đi không trở lại), nên thời gian tự hủy diệt trong lẽ tồn vong ngán ngủi, gấp gáp. Nhận thức ấy được Xuân Diệu thể hiện bằng những cặp từ “tới – qua, non – già…”, cuộc sống vận động phát triển trong quá trình vừa khẳng định vừa phủ định, cái phủ định nằm ngay trong cái đang khẳng định. Đây là những nghiền ngẫm triết học tinh tế và có chiều sâu, thỏa mãn phần nào nhu cầu trí tuệ của người đọc (nhất là người đọc trẻ tuổi ham hiểu biết thơ Xuân Diệu). Chỗ bất cập của Xuân Diệu là thi sĩ quá nghiêng về cái “qua”, cái “già” (tức là cái phủ định) nên quan niệm sống của Xuân Diệu có phần thiếu bình tĩnh, ổn định mà hơi ngả về phía “vội vàng” đến hốt hoảng, cuống quýt, tạo nên hơi thở gấp gáp rất riêng trong thơ Xuân Diệu.

Câu thơ như một tiếng thở dài u hoài, tiếc nuối. Quy luật thiên nhiên giờ đây đã trở nên đối kháng với con người:

“Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”

Xuân Diệu đồng nhất mùa xuân với tuổi trẻ và tình yêu, cho nên ông ngậm ngủi than: Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất. Nhà thơ cảm thấy đời người quá ngắn ngủi trước thời gian và không gian vĩnh cửu. Vì vậy, bi kịch trong nhận thức tràn vào tâm hồn, Xuân Diệu nhìn đâu cũng thấy mất mát, cũng thấy chia li.

Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận về sự mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một phần đời vĩnh viễn mất đi:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”

Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia li vĩnh viễn. Và thời gian được coi như một dòng chảy vô tận của những mất mát, cho nên thời gian thấm đẫm hương vị của chia phôi. Khắp sông núi là những lời than thầm tiễn biệt của vạn vật. Sâu xa hơn là mỗi một sự vật đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó.

Tâm trạng phức tạp đã chi phối cách nhìn, cách nghĩ của Xuân Diệu cho nên giữa tươi xanh thi sĩ đã nhìn thấy màu héo úa; giữa hiện tại đã thấp thoáng quá khứ, giữa sum họp đã có mầm mống chia li:

“Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hơn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Vội vàng xuân diệu đánh giá
Phân tích bài Vội vàng

Cảm nhận của Xuân Diệu về thời gian, không gian thật lạ. Dường như cái chất vui tươi, trẻ trung của thiên nhiên không còn nữa: tháng năm rớm vị chia phôi, sông núi than thầm tiễn biệt, gió xinh hờn vì phải bay đi, chim đứt tiếng reo thi vì sợ độ phai tàn sắp sửa… Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác – mùi tháng năm, thời gian được hình dung là hương hoa – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại, để cho hương sắc kia đừng bay đi. Nhà thơ đã cảm nhận sự trôi chảy vô tình của thời gian bằng tất cả các giác quan. Mỗi khoảnh khắc thời gian đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ.

Không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể níu kéo thời gian, thì chỉ có một cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, phải tranh thủ sống, vội vàng mà sống:

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”

Đó cũng là bi kịch của đời. Dù cuộc đời đầy bi kịch nhưng khu vườn trần thế vẫn hết sức hấp dẫn đối với con người – nhất là những người đa cảm, đa tình như Xuân Diệu. Cho nên thi sĩ càng hối hả, vội vàng tận hưởng khi “Mùa chưa ngả chiều hôm” (nghĩa là khi tiết xuân và tuổi trẻ vẫn còn đang độ).

Câu thơ não nuột, tuyệt vọng: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa” đã khép lại phần li giải cho lẽ sống vội vàng của Xuân Diệu và mở ra phần biểu hiện của hành động vội vàng:

“Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước và cây và cỏ rạng”

Đoạn thơ như là lời tình tự của thi sĩ với thiên nhiên, với sự sống bằng những cảm xúc và ham muốn mỗi lúc một si mê, cuồng nhiệt. Chỉ có thế mới diễn tả hết được khát vọng sống mãnh liệt của thi sĩ. Cảm hứng thơ như những đợt sóng đại dương mỗi lúc một dâng cao. Sự kết hợp hài hòa đến mức tài tình giữa âm thanh, hình ảnh, từ ngữ trong đoạn thơ đặc tả sự cuồng nhiệt của tình yêu cuộc sống. Tình yêu ấy làm sống dậy vẻ tươi đẹp, đầy sinh khi của thiên nhiên. Điệp ngữ “ta muốn” khẳng định khát khao cháy bỏng muốn ôm trọn cả vũ trụ trong vòng tay âu yếm muôn đời. Mỗi lần điệp ngữ đó xuất hiện là lại đi liền với một động thái yêu đương, càng lúc càng mạnh mẽ, đắm say: ôm cả sự sống, riết mây đưa và gió lượn, say cánh bướm với tình yêu, thâu trong một cái hôn nhiều… Hệ thống từ: ôm, riết, say, thâu, là một trường cảm xúc ngày một dâng trào, bộc lộ một khát vọng sống mãnh liệt và cường tráng. Trái tim yêu của Xuân Diệu như muốn căng ra chứa hết vũ trụ.

Khát khao gắn bó, yêu thương và giao hòa với thiên nhiên, với con người và cuộc sống thôi thúc nhà thơ, đẩy cảm xúc thơ lên tới tột đỉnh. Thi sĩ muốn được thưởng thức đầy đủ, trọn vẹn tất cả vẻ đẹp của vườn đời đầy hoa thơm trái ngọt:

“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người.”

Ta thấy Xuân Diệu như con ong đã hút mật no nê, như một tình nhân đang tràn trề hạnh phúc. Niềm khao khát vô biên được tận hưởng hạnh phúc đắm say bộc lộ qua những động từ quyết liệt, táo bạo, gây ấn tượng mạnh với người đọc. Câu kết bài thơ đẹp rực rỡ. Cuộc sống mơn mởn, tròn căng hấp dẫn như trái xuân hồng. Thi sĩ ước vọng được “cắn” vào quả đời ấy để tận hưởng một cách nhục cảm, hết mình mọi hương vị cuộc sống. Chỉ có Xuân Diệu mới tạo ra kiểu cảm xúc táo bạo, mới lạ mà tinh khiết như thế.

Phải nói rằng cách thể hiện tâm trạng của Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng” là rất mới, rất lạ, rất Xuân Diệu, xưa nay chưa từng có. Cách dùng từ ngữ, hình ảnh thật táo bạo. Táo bạo nhưng đặc sắc, tài tình bởi chỉ có thể nói bằng cách ấy mới bày tỏ hết sự nồng nàn say đắm của lòng yêu. Nhờ trí tưởng tượng táo bạo, mới mẻ của Xuân Diệu mà nhiều người trong chúng ta muốn trở lại tuổi trẻ của mình, để sống hết mình với thiên nhiên tươi đẹp, với chốn thiên đường hiện hữu ngay trên mặt đất này. Không chỉ ca ngợi cảnh đẹp nhà thơ muốn đưa ra một lời khuyên cho thế hệ trẻ đừng để tuổi trẻ của mình trôi đi một cách phí hoài, hãy sống để có ích cho bản thân và cho xã hội, sống để được hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc đời.

Viết những nét đặc sắc về nghệ thuật: Phân tích bài Vội vàng

Bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu là một bài thơ thể hiện sự sáng tạo độc đáo về hình thức nghệ thuật. Trước tiên được thể hiện qua nghệ thuật sử dụng hình ảnh và cách cảm nhận hết sức độc đáo. Các hình ảnh trong bài thơ đều phảng phất không khí của ái ân tình yêu, tất cả đều tinh khôi, thanh tân, gợi tình, tươi mới tràn đầy sức sống: sự sống mơn mởn, mây đưa và gió lượn, cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều, non nước, cây cỏ, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng…. Làm sống dậy được những nét quyến rũ, những điệu tình tứ, những vẻ kì thú ngay trong những cảnh sắc thiên nhiên quen thuộc. Trong đó đặc sắc nhất là hình ảnh: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đây là một sự sáng tạo tuyệt vời và rất Xuân Diệu – một nét đẹp rất con người, rất trần gian nhưng cũng rất tuyệt mĩ mà chỉ có tạo hóa toàn năng mới làm nên được. Về ngôn ngữ, giọng điệu và nhịp điệu là các yếu tố tạo nên nét đặc sắc trong nghệ thuật của bài thơ Vội vàng. Bên cạnh đó, giọng điệu cuống quýt, vội vàng rất điển hình cho hồn thơ Xuân Diệu được thể hiện rất rõ trong hơi thở dồi dào tuôn chảy, nhịp thơ sôi nổi, gấp gáp. Cách ngắt nhịp trong bài thơ cũng rất đa dạng và linh hoạt. Những câu thơ dài, ngắn xen kẽ nhau, nhiều điệp từ có tác dụng tạo nhịp và ngắt nhịp nhanh, mạnh tạo ra những bước ngoặt trong mạch thơ. Có thể nói, những đột biến trong cảm xúc như những cú đảo phách trong âm nhạc, vừa hòa hợp vừa linh hoạt về tiết tấu. Tất cả khiến cho nhịp điệu cứ sôi nổi, gấp gáp, chuyển tải được một điệu tâm hồn say sưa, chếnh choáng, một tấm lòng yêu đời rạo rực, cuồng nhiệt của nhà thơ.

Vội vàng xuân diệu đánh giá
Phân tích bài Vội vàng

Viết đánh giá: Phân tích bài Vội vàng

Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, sống ích kỉ trong hưởng thụ. “Vội vàng” thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau bài thơ “Vội vàng” ra đời, nhiều câu thơ của Xuân Diệu vẫn còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống với “Vội vàng” như vậy.

Viết kết bài: Phân tích bài Vội vàng

Sự sống trong thơ Xuân Diệu phong phú và đa dạng. Đó là mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu; là thế giới muôn hình muôn vẻ, tràn đầy niềm vui và ánh sáng. Chính vì thế, Xuân Diệu và thơ tình Xuân Diệu mãi mãi thuộc về tuổi trẻ – những con người sống để yêu thương. Nhà thơ Xuân Diệu đã đi vào thế giới vĩnh hằng cùng với những tao nhân mặc khách, nhưng ta vẫn cảm thấy ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca: