Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán VN (TTCK VN) ngày càng lớn mạnh và có ý nghĩa ngày càng quan trọng ảnh hưởng và tác động đến nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển năng động của nước ta. Dựa trên yếu tố quan trọng này, bản thân tôi đã tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán trong đó nhấn mạnh yếu tố Tỷ giá để đánh giá tác động của nó đến TTCK. Qua đó, cố gắng rút ra được các đúc kết có ý nghĩa thực tiễn trong các hoạt động tài chính liên quan đến tỷ giá và thị trường chứng khoán cho các tổ chức, cá nhân và Nhà nước. Thậm chí cũng có thể được sử dụng cho các nhà nghiên cứu chính sách, các cơ quan hữu quan của Nhà nước trong việc nhìn nhận và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô để đạt được những mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Đề tài tập trung vào yếu tố Tỷ giá hối đoái tác động đến Thị trường chứng khoán ra sao? Tỷ giá hối đoái được sử dụng trong Đề tài là tỷ giá USD/VND, vì USD ở nước ta là một ngoại tệ mạnh có vai trò quan trọng nhất liên quan mật thiết đến hầu hết các lĩnh vực của thị trường tài chính bên cạnh các ngoại tệ khác ít quan trọng hơn như: Nhân dân tệ, Bảng anh, Yên Nhật, France… Đề tài sử dụng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS) với Mô hình hồi quy đa biến và phần mềm STATA 12 để phân tích các số liệu thống kế theo chuỗi thời gian từ năm 2010 đến năm 2017 của chỉ số VNINDEX, Tỷ giá USD/VND, Giá dầu, Giá vàng, Chỉ số tiêu dùng CPI. Kết quả nghiên cứu đã xác thực rõ một điều sự tăng/giảm của Tỷ giá đã có tác động giảm/tăng nhất định đến thị trường chứng khoán (thể hiện qua chỉ số VNINDEX). Mong muốn của Đề tài trong việc phân tích mức độ ảnh hưởng của Tỷ giá nhằm góp phần mang lại các giá trị ứng dụng thiết thực đến cộng đồng, cụ thể: đến các cá nhân trong việc đầu tư, các doanh nghiệp cổ phần có niêm yết trên sàn chứng khoán trong việc huy động vốn và hoạt động tài chính liên quan đến ngoại tệ; các cơ quan nhà nước và các nhà nghiên cứu điều hành chính sách vĩ mô của Nhà Nước…từ đó có thể làm điểm tựa cho các nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng sâu và rộng hơn đến thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế việt nam nói chung.

Thị trường chứng khoán, Tỷ giá hối đoái, Stock exchanges, Foreign exchange rates

URI
http://opac.ueh.edu.vn/record=b1031001~S1
http://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/59837
Publisher
Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh

Appears in Collections:MASTER'S THESES

Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

  • Bùi Hùng Mạnh.pdf
    • Size : 1,61 MB

    • Format : Adobe PDF

  • Tỷ giá hối đoái là giá trị của đồng đô la Mỹ đối với các đồng tiền khác. Giá trị của đồng đô la được gây ra và phản ánh bởi lãi suất mà lãi suất thì liên quan rất nhiều đến giá cổ phiếu. Vì vậy, tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng lên thị trường chứng khoán và có thể được dùng để dự đoán về thị trường.

    Tỷ giá hối đoái

    Một đồng đô la rớt giá có nghĩa là hàng hóa của Mỹ ở nước ngoài rất rẻ và cũng có nghĩa là hàng hóa ngoại nhập ở Mỹ có giá cao hơn. Điều này sẽ khiến cho người tiêu dùng mua hàng hóa của Mỹ. Đồng tiền không có giá trị nên nền kinh tế sẽ được mở rộng, nhiều doanh nghiệp sẽ xây dựng vốn cổ phần, mở rộng sản xuất và tiếp tục vay tiền. Về ngắn hạn, đồng tiền có giá trị thấp sẽ khiến cho giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán leo thang.

    Lãi suất

    Giá trị của đồng đô la gắn chặt với lãi suất. Giá trị của đồng đô la thấp sẽ thúc đẩy việc vay mượn trong khi đó giá trị cao sẽ hạn chế việc vay mượn. Giá trị của đồng tiền rẻ là điều kiện tốt cho nền kinh tế, điều này được thể hiện ở giá cổ phiếu cao. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng về ngắn hạn.

    Cổ phiếu và trái phiếu

    Khi giá trị lãi suất tăng thì đồng đô la cũng có giá trị rất cao. Kết quả là tiền sẽ di chuyển đến thị trường trái phiếu. Khi giá trị lãi suất giảm, tiền sẽ di chuyển ra khỏi thị trường trái phiếu và trở thành cổ phiếu.

    Cổ phiếu và tiền tệ

    Lãi suất có ảnh hưởng đến giá của cổ phiếu và ngược lại. Theo như báo cáo của một nhà kinh tế người Nga thì giá cổ phiếu có thể hưởng đến giá trị của đồng đô la. Nếu giá cổ phiếu giảm, các nhà đầu tư nước ngoài có khuynh hướng thanh lý cổ phiếu của họ, điều này sẽ làm giảm giá trị của đồng đô la. Cô cũng cho rằng khi giá cổ phiếu tăng lên thì về ngắn hạn điều này cũng sẽ làm giá trị đồng đô la đi xuống bởi vì điều này phản ánh một chính sách tiền tệ mở rộng. Vì vậy, ít nhất là về ngắn hạn, dù giá cổ phiếu tăng hay giảm đều mất giá của đồng đô la. Điều này có vẻ kỳ lạ, nhưng nó có ý nghĩa. Khấu hao có thể phát sinh từ hai nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là một nguyên nhân xấu, đó là việc thanh lý cổ phần nước ngoài trong kho. Thứ hai là một nguyên nhân chính đáng, đó là sự phát triển kinh tế khiến cho giá trị đồng tiền rẻ hơn.

    Trần Đình Phú
    (Lược dịch)

    Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

    Ảnh minh họa: Nguồn internet

    Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán tại Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh

    Nghiên cứu này nhằm xác định mối quan hệ giữ tỷ giá hối đoái và sự thay đổi giá của các cổ phiếu niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh được thể hiện qua chỉ số VN-Index. Số liệu sử dụng trong nghiên cứu gồm tỷ giá hối đoái VND/USD và chỉ số VN-Index ở giai đoạn năm 2001-2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa hai biến.

    Bán cổ phiếu quỹ không báo cáo, Gỗ Trường Thành bị phạt 100 triệu đồng

    Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực chứng khoán giữa Việt Nam và Nhật Bản

    Phát triển thị trường chứng khoán đồng bộ, thống nhất trong tổng thể thị trường tài chính

    Cảnh báo "bong bóng" chứng khoán: Doanh nghiệp càng lỗ, giá cổ phiếu càng tăng

    Giới thiệu

    Thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển. Với trọng trách huy động vốn trong và ngoài nước để thúc đẩy kinh tế và sản xuất, kinh doanh nên bất kể sự biến động nào của giá chứng khoán đều phản chiếu "sức khỏe" của nền kinh tế. Thời gian qua, nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước nói bàn thảo những yếu tố ảnh hưởng đến sự biến đổi giá chứng khoán, trong phạm vi nghiên cứu của bài viết làm rõ về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ Việt Nam và đồng ngoại tệ USD và chỉ số VN-Index đại diện cho biến động giá trên sàn HOSE.

    Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu

    Cơ sở lý thuyết

    Mặc dù, có rất nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỷ giá và giá chứng khoán của các quốc gia; nhưng tựu chung có ba cơ sở lý thuyết để tiếp cận mối quan hệ giữa tỷ giá và giá chứng khoán như sau:

    Thứ nhất, theo cách tiếp cận của Dornbusch và Fisher (1980) thì mối quan hệ giữa giá chứng khoán và tỷ giá là cùng chiều. Dornbusch và Fisher (1980) cho rằng, một khi đồng tiền nội tệ được định giá thấp làm cho những doanh nghiệp trong nước tăng tính cạnh tranh hơn. Kết quả là hoạt động thương mại quốc tế gia tăng, lúc này hàng hóa xuất khẩu của họ của họ rẻ hơn khi ra thị trường quốc tế. Điều này làm cho giá cổ phiếu của những doanh nghiệp này tăng lên.

    Thứ hai, tiếp cận theo mô hình cân bằng danh mục đầu tư, Branson (1983) đã chứng minh rằng, quan hệ giữa tỷ giá và giá cổ phiếu là ngược chiều. Mô hình này gợi ý rằng nội lực của tỷ giá hối đoái có chức năng cân bằng cung và cầu tài sản tài chính trong nước và nước ngoài (trái phiếu, cổ phiếu, ngoại hối…). Sự gia tăng vốn chủ sở hữu trong nước sẽ dẫn đến sự tăng giá của đồng nội tệ, vì nhu cầu của các nhà đầu tư đối với nội tệ tăng (tỷ giá giảm), để mua cổ phiếu trong nước. Do đó, những cách tiếp cận này gợi ý một mối quan hệ tiêu cực.

    Thứ ba, tiếp cận tỷ giá như một tài sản (giá của một đơn vị ngoại tệ) trong thị trường tài sản, Gavin (1989) trong mô hình tiền tệ cho rằng, tỷ giá và giá cổ phiếu có mối quan hệ yếu hoặc hoàn toàn không có quan hệ. Giống như giá của những tài sản khác, tỷ giá cũng được xác định bởi tỷ giá tương lai kỳ vọng. Bất kỳ yếu tố nào ảnh hưởng đến giá trị tương lai của tỷ giá thì sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá ở hiện tại. Những yếu tố gây ra sự thay đổi trong tỷ giá có thể khác biệt với những yếu tố gây ra sự thay đổi trong giá cổ phiếu, trong những trường hợp này sẽ không tồn tại quan hệ giữa những tài sản trên.

    Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

    Công trình nghiên cứu trước đây

    Theo nghiên cứu của Aggarwal (1981) về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và sự thay đổi của giá cổ phiếu tại thị trường Hoa Kỳ giai đoạn 1974-1978, chỉ ra mối quan hệ này là thuận chiều trong ngắn hạn mạnh hơn trong dài hạn. Bahmani và Sohrabian (1992) cũng cùng quan điểm khi nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ giá và giá chứng khoán thị trường chứng khoán Hoa Kỳ trong khoảng thời gian từ 1973-1988, kết quả kiểm tra quan hệ nhân quả của Granger xác nhận rằng, có một mối quan hệ ngắn hạn giữa tỷ giá hối đoái và giá cổ phiếu. Trong khi, kết quả kiểm định đồng liên kết chỉ ra rằng, không có bằng chứng về mối quan hệ lâu dài giữa các biến. Tương tự theo nghiên cứu của Gan, Lee và Zhang (2006), Narayan, P.K. và Narayan, S. (2010) cho thấy, mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán là cùng chiều.

    Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

    Trái với quan điểm trên, nghiên cứu của Chkili Walid và các cộng sự (2011) sử dụng mô hình EGARCH chuyển đổi Markov, (số liệu từ tháng 12/1994 đến tháng 3/2009) ở 4 thị trường gồm: Hồng Kông, Singapore, Malaysia và Mexico cho kết quả mối liên hệ là ngược chiều. Tương tự nghiên cứu của Liang CC, Lin JB, Hsu HC (2013) ở thị trường ASEAN-5 theo phương pháp kiểm định nhân quả Granger, phương pháp hồi quy DOLS cho thấy, tỷ giá hối đoái tác động tiêu cực đến giá chứng khoán thông qua sự lưu chuyển vốn. Nguyễn Thị Như Quỳnh và Võ Thị Hương Linh (2019) nghiên cứu dữ liệu giai đoạn 2000-2018 bằng mô hình VECM cho thấy, VN-Index và tỷ giá có quan hệ ngược chiều.

    Theo Rahman và Uddin (2009) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và tỷ giá hối đoái trong khoảng thời gian từ tháng 1/2003 đến tháng 6/2008 tại 3 quốc gia mới nổi ở Nam Á: Bangladesh, Ấn Độ và Pakistan.

    Kết quả nghiên cứu của Johansen Co-integration và Granger Causality cho thấy, không có mối quan hệ dài hạn và ngắn hạn giữa giá cổ phiếu và tỷ giá hối đoái của 3 quốc gia. Hay nghiên cứu của Zhao H (2010) tại thị trường chứng khoán Trung Quốc theo VAR và phương sai thay đổi có điều kiện tự động hồi quy tổng quát đa biến (GARCH) cũng chỉ ra không có tác động nào giữa tỷ giá và giá chứng khoán.

    Tương tự, Lou T, Luo W (2018) nghiên cứu tại thị trường của các quốc gia G7 theo kiểm định nhân quả Granger cũng cho thấy không có mối quan hệ đáng kể giữa chỉ số giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái trong G7.

    Như vậy, các nghiên cứu thực nghiệm đều cho thấy, có nhiều kết luận trái ngược về mối quan hệ giữa tỷ giá và giá chứng khoán ở các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, điều này cũng dễ hiểu bởi bản chất của chứng khoán thể hiện mối quan hệ cung và cầu của vốn đầu tư, khi có yếu tố tác động đến cung cầu thì giá chứng khoán cũng biến đổi liên tục.

    Mô hình và số liệu nghiên cứu

    Để đánh giá mối liên hệ giữa tỷ giá và chỉ số VN-Index, nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy đơn biến biến để phân tích mối tương quan giữa hai biến định lượng.

    Mô hình hồi quy có dạng: Y= a + bX

    Với Y là biến phụ thuộc: Chỉ số VN-Index

    X là biến độc lập: Tỷ giá hối đoái

    a là hằng số

    b là hệ số hồi quy

    Nghiên cứu sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian theo năm được thu thập từ năm 2001 đến năm 2020. Cụ thể dữ liệu về chỉ số giá VN-Index thu thập từ website Tổng công ty cổ phần chứng khoán VNDirect và dữ liệu tỷ giá hối đoái thu thập từ Qũy tiền tệ Quốc tế (IMF). Trong đó biến độc lập tỷ giá (chính thức) đã được logarit tự nhiên ký ký hiệu là Ln_Ex trước khi tiến hành đưa vào mô hình nghiên cứu.

    Thực trạng tỷ giá và chỉ số giá chứng khoán VN-Index giai đoạn 2001-2020

    Tỷ giá giai đoạn 2001-2020

    Hình 1 cho thấy, xu hướng chính của tỷ giá giai đoạn 2001-2020, ở mỗi giai đoạn Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đều có những cơ chế phù hợp để kiểm soát tỷ giá, tránh gây ảnh hưởng nhiều đến các yếu tố kinh tế vĩ mô.

    Giai đoạn 2008-2015 gắn với cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Mỹ sau đó lan rộng ra toàn cầu. Theo Nguyễn Thị Thu Hằng và cộng sự (2010), giai đoạn này gắn liền với cơ chế neo tỷ giá với biên độ được điều chỉnh. Tỷ giá được điều chỉnh dần từ 16.977 VND/USD vào năm 2008, lên 18.932 VND/USD năm 2010, 20.036 VND/USD năm 2013, lên 21.246 VND/USD năm 2014 và năm 2015 là 21.890 VND/USD.

    Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

    Từ năm 2016 đến nay, NHNN áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá mới, đó là cơ chế tỷ giá trung tâm linh hoạt tức là áp dụng mức tỷ giá do NHNN ban hành và điều chỉnh theo biên độ +-3%, đây cũng là lần đầu tiên NHNN áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá mới, theo Đặng Ngọc Biên (2019). Cơ chế tỷ giá trung tâm linh hoạt đã giúp tỷ giá hối đoái của Việt Nam tương đối ổn định, hạn chế ảnh hưởng của các cú sốc lớn bên ngoài. Sau 3 năm 2016-2018, lần lượt tỷ giá được điều chỉnh từ 22.159 VND/USD lên 22.825 VND/USD, mức tăng chỉ 666 đơn vị. Năm 2019 là 23.155 VND/USD và đến năm 2020 là 23.131 VND/USD.

    VN-Index giai đoạn 2001-2020

    Ngày 28/07/2000, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (hay là HOSE) chính thức vận hành, đặt dấu mốc quan trọng của thị trường chứng khoán Việt Nam. Đây là lần đầu tiên chỉ số VN-Index được xác lập và công bố. Kể từ khi ra đời, thị trường chứng khoán được coi là “vùng trũng” để hứng các dòng tiền của các nhà đầu tư mà lâu nay họ cũng đang khát thị trường (Hình 2).

    Giai đoạn 2001-2005, đây là giai đoạn chập chững của thị trường chứng khoán, với chỉ số VN-Index không thay đổi quá lớn từ 310,14 điểm năm 2001 và 269,99 điểm năm 2005. Tuy nhiên, sau khi Luật Chứng khoán được ban hành năm 2006 và có hiệu lực từ năm 2007, chỉ số VN-Index đã tăng gần gấp đôi thời điểm năm 2005, đạt 516,1 điểm năm 2006. Cũng vào ngày 12/03/2007, chỉ số VN-Index xác lập đỉnh lịch sử với 1.170 điểm, giúp chỉ số VN-Index của cả năm 2007 đạt 1.009 điểm.

    Giai đoạn 2008 -2013 là giai đoạn đáng buồn cho cả thị trường chứng khoán trong nước và thế giới, khi khủng hoảng tài chính nổ ra tại Mỹ, Việt Nam vừa hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới năm 2007. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến sự sụt giảm nghiêm trọng khi VN-Index năm 2008 chỉ còn lại 482,06 điểm, giảm hơn 60% so với năm 2007, trong đó có thời điểm ngày 11/06/2008 VN-Index chạm đáy 367 điểm.

    Tổng quan năm 2009 ảm đạm với 432,64 điểm, năm 2010 485,62 điểm, giảm còn 431,51 điểm năm 2011 và xuống đáy năm 2012 với 413,42 điểm; Giai đoạn 2013-2016, thị trường phục hồi, được ghi nhận 490.54 điểm năm 2013, năm 2014 là 583,11 điểm, 627,77 điểm năm 2016. Từ năm 2017, thị trường tăng mạnh mức 627,77 điểm mở ra dấu hiệu tích cực. Cho đến năm 2018, có thời điểm VN-Index lập kỷ lục mới với 1.211 điểm (ngày 10/04), tuy nhiên cũng có lúc sụt giảm còn 888 điểm (ngày 30/10), năm 2018 VN-Index đạt 1.007,13 điểm.

    Năm 2019-2020, đại dịch COVID-19 ảnh hưởng đến mọi mặt kinh tế và thị trường chứng khoán trên thế giới. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là 1 trong 10 thị trường chứng khoán có sức chống chịu tốt với đại dịch COVID-19 và phục hồi tốt nhất thế giới. Thị trường chứng khoán Việt Nam, ghi nhận 970 điểm năm 2019 và 879,81 điểm năm 2020.

    Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

    Kết quả nghiên cứu và kiến nghị

    Kết quả mối quan hệ giữa tỷ giá và chỉ số VN-Index

    Tác giả sử dụng phần mềm SPSS để tính toán và cho ra kết quả thống kê mô tả sau:

    Bảng 1 cho biết, mô hình hồi quy trên là phù hợp, hệ số R bình phương hiệu chỉnh Adjusted R Square là 0.407. Nghĩa là, 40,7% biến thiên của biến VN-Index được giải thích bởi nhân tố độc lập tỷ giá. Hay nói cách khác, biến độc lập giải thích được 40,7% biến thiên của biến phụ thuộc, còn lại 59,3% được giải thích bởi các yếu tố khác.

    Bảng 2 cho thấy, kết quả hồi quy của mô hình cho thấy hệ số hồi quy mang dấu dương bằng 1072,08. Nghĩa là khi biến tỷ giá tăng lên 01 đơn vị thì biến chỉ số VN-Index tăng lên 1072,08 đơn vị.

    Kết luận và kiến nghị

    Thông qua kết quả của mô hình hồi quy, đã ủng hộ lý thuyết của Dornbusch và Fisher (1980) rằng, tỷ giá có mối liên hệ với chỉ số VN-Index và là mối liên hệ cùng chiều, ngoài ra biến tỷ giá giải thích được 40,7% sự biến thiên của biến chỉ số VN-Index. Qua đó tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau:

    Đối với các cơ quan điều hành tỷ giá: Cần hướng đến sự ổn định tỷ giá để tránh những ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường chứng khoán, môi trường đầu tư sẽ giảm bớt được những rủi ro có thể kiểm soát, tạo môi trường đầu tư lành mạnh. Tỷ giá ổn định còn giúp doanh nghiệp an tâm sản xuất và tạo ra nhiều giá trị cho hoạt động đầu tư sản xuất, lúc đó niềm tin của nhà đầu tư sẽ giúp thị trường chứng khoán phát triển, hay các doanh nghiệp lại nhận được nguồn vốn dồi dào từ các nhà đầu tư.

    Đối với các nhà đầu tư: Thị trường chứng khoán vốn rất biến động và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, dựa trên những thay đổi và biến động tỷ giá giữa VND và USD, các nhà đầu tư cũng có thể đoán biết được xu hướng thị trường. Khi tỷ giá hối đoái biến động tiêu cực hay tích cực, cũng là lúc các nhà đầu tư quyết định nên theo thị trường như thế nào để đạt được lợi nhuận mong muốn.

    Tài liệu tham khảo:

    Nguyễn Thị Như Quỳnh, Võ Thị Hương Linh (2019), Tác động của một số yếu tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số giá chứng khoán tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, 14(3), 47-6;

    Abdalla, I.S.A., and Murinde, V., (1997), “Exchange Rate and Stock Price Interactions in emerging Financial Markets: Evidence of India, Korea, Pakistan and Philippines”. Applied Financial Economics, 7, pp. 25-35. 2;

    Aggarwal, R., (1981), “Exchange Rates and Stock Prices: A Study of the US Capital Markets under Floating Exchange Rates”; Akron Business and Economic Review, 12, pp. 7-12. 3;

    Gan, C., Lee, M., Young, H.W.A. and Zhang, J. (2006), “Macroeconomic Variables and Stock Market Interactions: New Zealand Evidence”, Investment Management and Financial Innovations, Vol.3, Issue 4, pp.89-101;

    Liang CC, Lin JB, Hsu HC (2013), Reexamining the relationships between stock prices and exchange rates in ASEAN-5 using panel Granger causality approach. Econ Model 32: 560–563;

    Lou T, Luo W (2018), Revisiting quantile Granger causality between the stock price indices and exchange rates for G7 countries. AEFR 8: 8–21;

    Rahman và Uddin (2009), Dynamic Relationship between Stock Prices and Exchange Rates: Evidence from Three South Asian Countries. International Business Research. Vol. 2, No.2;

    Zhao H (2010), Dynamic relationship between exchange rate and stock price: Evidence from China. Res Int Bus Financ 24: 103–112.

    (*) Lê Thị Hồng Nhi - Học viên cao học, Trường Đại học Thủ Dầu Một.

    (**) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 1 tháng 11/2021

    In bài viết

    VN-Index thị trường chứng khoán tỷ giá hối đoái

    THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM

    • Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

      Thị trường chứng khoán còn nhiều tiềm năng phát triển bền vững

    • Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

      Thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ tăng lên những mức cao mới

    • Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

      Lành mạnh hóa thị trường, bảo vệ doanh nghiệp và nhà đầu tư chân chính để phát triển bền vững

    Tin nổi bật

    Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

    Triển khai thực hiện hóa đơn điện tử trên toàn quốc đem lại hiệu quả to lớn cho xã hội

    Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

    Kích hoạt hệ thống hóa đơn điện tử toàn quốc - Dấu mốc quan trọng thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số

    Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

    Chính thức kích hoạt hệ thống hóa đơn điện tử toàn quốc

    Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

    Thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ tăng lên những mức cao mới

    Tỷ giá ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán

    Lành mạnh hóa thị trường, bảo vệ doanh nghiệp và nhà đầu tư chân chính để phát triển bền vững