Thực trạng đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường chứng khoán Việt Nam

rong thời gian qua, thị trường chứng khoán đã có bước phát triển nhanh; tuy nhiên, hoạt động của thị trường cho thấy vẫn chưa thực sự ổn định, nhiều doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với nhà đầu tư, đặc biệt là vấn đề công bố thông tin. Mặt khác, thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung hình thành tự phát, sôi động, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nhà đầu tư. Điều này có thể gây thiệt hại đến quyền lợi của nhà đầu tư, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư. Từ tình hình trên đây các cơ quan chức năng phải có biện pháp cấp bách để quản lý thị trường nhằm ngăn ngừa nguy cơ lừa đảo, đổ vỡ và ảnh hưởng đến thị trường nói chung, gây mất lòng tin của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.

Để đảm bảo tăng cường quản lý và phát triển bền vững thị trường chứng khoán, Thủ tướng Chính phủchỉ thị:

1. Đối với tổ chức chào bán chứng khoán:

a) Việc chào bán chứng khoán ra công chúng phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Các tổ chức chưa đáp ứng điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng theo quy định tại Điều 12 Luật Chứng khoán không được phép thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng. Mọi trường hợp chào bán chứng khoán vi phạm pháp luật phải bị đình chỉ và xử phạt theo quy định Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 08 tháng 3 năm 2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán;

b) Việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ phải tuân thủ theo quy định của Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Tổ chức phát hành cổ phiếu riêng lẻ để tăng vốn phải làm thủ tục đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan quản lý cấp phép hoạt động về phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, cụ thể:

- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý chào bán cổ phiếu riêng lẻ đối với các ngân hàng thương mại cổ phần, các công ty tài chính cổ phần;

- Bộ Tài chính quản lý chào bán cổ phiếu riêng lẻ đối với các công ty cổ phần bảo hiểm; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quản lý chào bán cổ phiếu riêng lẻ đối với các công ty đại chúng và công ty cổ phần chứng khoán;

- Cơ quan đăng ký kinh doanh (Sở Kế hoạch và Đầu tư) quản lý chào bán cổ phiếu riêng lẻ đối với các doanh nghiệp do Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

c) Các doanh nghiệp không phải là pháp nhân Việt Nam không được chào bán chứng khoán trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp thực hiện theo lộ trình cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.

2. Đối với công ty cổ phần đại chúng:

a) Các công ty cổ phần đủ tiêu chuẩn trở thành công ty cổ phần đại chúng phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Công ty cổ phần đại chúng không thực hiện đăng ký sẽ bị xử phạt theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 10 Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 08 tháng 3 năm 2007 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán;

b) Các công ty cổ phần đại chúng, bao gồm cả các công ty niêm yết thực hiện chế độ kiểm toán, công bố thông tin, quản trị công ty theo quy định của Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn có liên quan.

3. Đối với Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán:

a) Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán tổ chức giao dịch chứng khoán bảo đảm an toàn, công bằng, công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật về chứng khoán và quy chế giao dịch được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;

b) Bộ Tài chính chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xây dựng đề án tổ chức giao dịch chứng khoán cho các công ty cổ phần đại chúng trong năm 2008 nhằm mở rộng thị trường chứng khoán có tổ chức;

c) Nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán bất hợp pháp. Các hoạt động cung cấp thông tin, nhu cầu mua, bán, giá cả chứng khoán trên các phương tiện thông tin đại chúng phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Người đứng đầu các phương tiện thông tin này phải đảm bảo sự chính xác, minh bạch về nguồn thông tin đã đăng tải.

4. Đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán:

a) Tổ chức kinh doanh chứng khoán phải đảm bảo duy trì các điều kiện theo quy định tại Luật Chứng khoán và Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 01 năm 2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán trong suốt quá trình hoạt động;

b) Bộ Tài chính chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đánh giá lại tình hình cấp phép thành lập và hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán trong thời gian qua và trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung điều kiện cấp phép cho phù hợp với tình hình thị trường hiện nay.

5. Đối với các tổ chức đầu tư chứng khoán:

a) Các doanh nghiệp không có chức năng đầu tư tài chính, ngoại trừ ngân hàng hoặc công ty tài chính, không được chào bán chứng khoán ra công chúng để huy động vốn đầu tư chứng khoán;

b) Các doanh nghiệp nhà nước không được sử dụng vốn đầu tư của chủ sở hữu, quỹ đầu tư phát triển và nguồn vốn xây dựng cơ bản để tham gia góp vốn thành lập, mua cổ phần của các quỹ đầu tư chứng khoán (kể cả các quỹ đầu tư mạo hiểm), công ty đầu tư chứng khoán. Việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước để đầu tư tài chính, đầu tư vào thị trường chứng khoán phải không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được Nhà nước giao. Đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp quyết định mức độ đầu tư tài chính, đảm bảo an toàn và hiệu quả tiền vốn của Nhà nước.

6. Đối với các Bộ, ngành:

a) Bộ Tài chính:

- Khẩn trương trình Chính phủ ban hành Nghị định về phát hành chứng khoán riêng lẻ; rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, có kế hoạch bổ sung, hoàn chỉnh trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành;

- Chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện quản lý phát hành chứng khoán ra công chúng, đăng ký công ty cổ phần đại chúng, thẩm định cấp phép các hồ sơ thành lập và hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán, quản lý giám sát thị trường chứng khoán tập trung, thành lập thị trường giao dịch chứng khoán cho các công ty đại chúng;

- Xây dựng kế hoạch tổng mức chào bán hàng tháng theo tín hiệu thị trường (bao gồm việc chào bán của các công ty đại chúng đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và việc chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá) để đảm bảo cân đối cung cầu trên thị trường. Đối với việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, Bộ Tài chính sớm trình Chính phủ ban hành quy định về phương thức chào bán thoả thuận và bảo lãnh phát hành, đồng thời quy định chi tiết hơn vấn đề định giá và công bố thông tin để nâng cao tính linh hoạt, thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước;

- Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán

b) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:

- Quản lý phát hành chứng khoán riêng lẻ của các ngân hàng thương mại cổ phần; chỉ đạo các ngân hàng thương mại cổ phần đủ tiêu chuẩn đăng ký công ty đại chúng;

- Giám sát luồng ngoại tệ vào, ra của các nhà đầu tư nước ngoài theo quy định về quản lý ngoại hối;

- Quản lý, giám sát việc cho vay đầu tư chứng khoán của các tổ chức tín dụng nhằm hỗ trợ nhu cầu đầu tư nhưng phải đảm bảo an toàn.

c) Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

- Chỉ đạo các cơ quan đăng ký kinh doanh tăng cường giám sát việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ;

- Hướng dẫn trình tự, thủ tục thực hiện việc chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là pháp nhân Việt Nam thành công ty cổ phần.

d) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ đạo cơ quan đăng ký kinh doanh (Sở Kế hoạch và Đầu tư) trong việc quản lý phát hành chứng khoán riêng lẻ;

đ) Các cơ quan thông tấn, báo chí ở trung ương và địa phương phối hợp với Bộ Tài chính, các Bộ, ngành liên quan trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo

dục pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Thủ trưởng các cơ quan thông tấn báo chí phải chịu trách nhiệm về những nội dung, số liệu và những thông tin về thị trường chứng khoán đã đăng tải.

Bộ Tài chính chịu trách nhiệm theo dõi và đôn đốc thực hiện Chỉ thị này, định kỳ hàng quý báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tiến độ, kết quả và những vướng mắc trong quá trình thực hiện, kiến nghị biện pháp xử lý.



Kính thưa Quý độc giả,

Năm 2020 có thể coi là một năm khó khăn, thị trường tài chính quốc tế nói chung và thị trường chứng khoán (TTCK) thế giới nói riêng phải đối mặt với tình trạng tăng trưởng âm diễn ra ở hầu hết các nền kinh tế do tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19. Để giảm thiểu tác động của đại dịch COVID-19, các nước đã buộc phải áp dụng chính sách tài khóa và tiền tệ nới lỏng thông qua các gói hỗ trợ tài chính lên tới hàng nghìn tỷ USD và biện pháp cắt giảm lãi suất của hầu hết các ngân hàng trung ương các nước. Đây là những nhân tố tác động trực tiếp đến dòng vốn quốc tế và TTCK năm 2020. Tại Việt Nam, nhiều biện pháp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kích thích tiêu dùng như giảm, giãn thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn giảm phí, giá dịch vụ trong lĩnh vực chứng khoán; cung cấp các khoản trợ cấp cho cá nhân, hộ gia đình, đẩy mạnh các chương trình đầu tư công và cắt giảm lãi suất của Chính phủ đã từng bước phát huy hiệu quả, giúp kinh tế phục hồi và thu hút các dòng vốn đầu tư vào TTCK, giúp thị trường ổn định và tăng trưởng cả về quy mô và tính thanh khoản. Tại ngày 31/12/2020, chỉ số VN-Index đạt 1103,87 điểm, tăng 14,9% so với cuối năm 2019. Thị trường cổ phiếu hiện có 1.665 mã cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết/đăng ký giao dịch (ĐKGD) với quy mô niêm yết, ĐKGD đạt gần 1.514 nghìn tỷ đồng, tăng 8% với cuối năm 2019. Vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt gần 5.294 nghìn tỷ đồng, tăng 20,8% so với cuối năm 2019, tương đương 84,1% GDP 2020. Thị trường trái phiếu có 477 mã trái phiếu niêm yết (trong đó có 454 mã trái phiếu chính phủ và 23 mã trái phiếu doanh nghiệp) với giá trị niêm yết đạt 1.388 nghìn tỷ đồng, tăng 16,8% so với năm 2019 tương đương 23% GDP. Tổng mức huy động qua phát hành riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp tăng tương đối mạnh, đạt 429.000 tỷ đồng. Thị trường cổ phiếu, giá trị giao dịch bình quân năm 2020 đạt trên 7.420 tỷ đồng/phiên, tăng 59,3% so với bình quân năm 2019; thanh khoản thị trường trái phiếu tiếp tục tăng trưởng mạnh bình quân đạt 10.393 tỷ đồng/phiên, tăng 13% so với năm 2019.
Những kết quả của thị trường trên đây có sự đóng góp không nhỏ của VSD với vai trò là tổ chức hạ tầng duy nhất cung cấp dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán cho các chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch, chứng khoán phái sinh trên Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) và chứng khoán của công ty đại chúng khác; các dịch vụ liên quan đến hỗ trợ giao dịch chứng khoán phù hợp với quy định của pháp luật. Đặc biệt, mặc dù quy mô thị trường và khối lượng thanh toán giao dịch chứng khoán đều tăng, song các giao dịch đều đã được VSD phối hợp với hai SGDCK thanh toán đúng hạn, an toàn, đảm bảo cho thị trường vận hành thông suốt trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến vô cùng phức tạp và một số TTCK lớn của thế giới như Mỹ phải 3 lần kích hoạt cơ chế ngừng giao dịch. Đây là những thành tích rất đáng ghi nhận của VSD trong năm qua. Theo đó, VSD đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, thể hiện qua các con số sau: Tính đến hết ngày 31/12/2020, đã có hơn 8 tỷ chứng khoán đăng ký mới trong năm 2020, tăng 168% so với năm 2019, nâng tổng số chứng khoán đăng ký tại VSD lên 178 tỷ chứng khoán; đã có 14,9 tỷ chứng khoán lưu ký mới trong năm 2020, tăng 31,8% so với năm 2019, nâng tổng số dư chứng khoán lưu ký tại VSD lên 100 tỷ chứng khoán (chiếm hơn 56% tổng số chứng khoán đăng ký); tổng số tài khoản lưu ký tại VSD là 2,7 triệu tài khoản, tăng 17% so với năm 2019, số lượng tài khoản đăng ký trên hệ thống bù trừ thanh toán giao dịch chứng khoán phái sinh là 171.973 tài khoản, tăng 89% so với năm 2019; tổng giá trị thanh toán toàn thị trường trong năm 2020 đạt 4,2 triệu tỷ đồng, tăng 24% so với năm 2019. Đây là những kết quả hết sức ấn tượng thể hiện những nỗ lực rất đáng ghi nhận của VSD trong năm 2020, năm mà nền kinh tế thế giới, kinh tế trong nước gặp rất nhiều khó khăn và thách thức. Với nỗ lực đồng hành và sát cánh cùng thị trường, VSD đã góp phần không nhỏ giúp TTCK nói riêng và thị trường tài chính Việt Nam nói chung vượt qua một trong những giai đoạn khó khăn nhất, đạt mức hồi phục trên cả kỳ vọng.

Bước sang năm 2021, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ tiếp tục chịu nhiều tác động đa chiều từ bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước, nhưng theo dự báo thị trường sẽ vẫn giữ được đà tăng trưởng của năm 2020. Bên cạnh tác động tiêu cực của dịch bệnh, xu hướng dịch chuyển dòng vốn quốc tế từ kênh tín dụng ngân hàng -nơi có lợi suất thấp- sang các kênh đầu tư khác như chứng khoán và các tài sản có giá trị bao gồm vàng, bất động sản do tác động của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa nới lỏng thông qua cắt giảm lãi suất và các gói hỗ trợ tài chính lớn của hầu hết các nước trên thế giới trong năm 2020 đã và đang được xem là những nhân tố tích cực hỗ trợ sự phát triển của thị trường chứng khoán thế giới nói chung, trong đó có thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2021- đặc biệt khi Việt Nam tiếp tục được các tổ chức quốc tế đánh giá là điểm sáng để đầu tư của khu vực  và là  một trong số rất ít nước khống chế được dịch Covid, đạt tăng trưởng dương trong năm 2020. Trong tháng 12 năm 2020, Việt Nam chính thức trở thành thị trường có tỷ trọng lớn nhất trong rổ các thị trường cận biên trong hệ thống phân loại của MSCI sau khi Kuwait chính thức được nâng hạng từ thị trường cận biên sang thị trường mới nổi. Như vậy, việc dòng vốn nước ngoài có khả năng quay trở lại vào năm 2021 với tỷ trọng cao hơn cho Việt Nam trong chỉ số MSCI FM sẽ là yếu tố hỗ trợ mạnh cho thị trường chứng khoán trong năm 2021. Bên cạnh đó, trên nền những thành công mà thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được trong năm 2020, đồng thời khi Luật Chứng khoán, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp sửa đổi có hiệu lực, hệ thống công nghệ thông tin mới của toàn thị trường được triển khai sẽ tạo nền tảng pháp lý và công nghệ mới giúp nâng tầm thị trường, thúc đẩy tính minh bạch và hiệu quả của các thành viên thị trường.


Riêng đối với VSD, năm 2021 là năm vô cùng đặc biệt – năm đánh dấu chặng đường 15 năm đi vào hoạt động của VSD và 25 năm không ngừng lớn mạnh của ngành chứng khoán Việt Nam. Trong bối cảnh đó, bước sang năm 2021, VSD chủ trương bám sát phương châm “kế thừa nền tảng, tiếp nối thành công” triển khai thực hiện chuyển đổi thành Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam, nâng cao tiềm lực tài chính tăng cường vị thế của VSD trong khu vực và trên thế giới, đặt dấu ấn cho bước chuyển mình lịch sử trên chặng đường phát triển của VSD, góp phần quan trọng để thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển bền vững và mạnh mẽ. Qua đây, thay mặt tập thể Lãnh đạo và cán bộ chuyên viên của VSD tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, tin tưởng, sự chỉ đạo sát sao và hợp tác chặt chẽ của cơ quan quản lý, thành viên thị trường, các tổ chức phát hành và công chúng đầu tư đã dành cho VSD trong thời gian qua và trên chặng đường sắp tới./.