Tại sao bác hồ lại đổi tên thành hồ chí minh

Cuối năm 1942, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II chuyển sang bước ngoặt mới đã phân chia thành hai chiến tuyến giữa phát xít và đồng minh. Nhận thấy vận mệnh của một dân tộc phải gắn liền với thế giới, phải có sự liên minh quốc tế, trước mắt cần liên minh với người bạn láng giềng Trung Quốc để chống phát xít, Nguyễn Ái Quốc quyết định đi công tác nước ngoài. Ngày 27.8.1942, trên đường đến xã Túc Vinh, Quảng Tây, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã bị tuần cảnh ở trụ sở xã của Quốc dân Đảng bắt giữ. Khi kiểm tra giấy tờ tùy thân, có giấy giới thiệu Phân hội Việt Nam của Hiệp hội quốc tế phản xâm lược, thẻ thông tấn viên đặc biệt của Quốc tế văn xã; giấy thông hành quân dụng của văn phòng Tư lệnh Đệ tứ chiến khu cấp... Tất cả giấy tờ đều mang tên Hồ Chí Minh được cấp từ năm 1940, nay đã hết hạn sử dụng. Chúng nghi Người là gián điệp bèn bắt giải lên Tĩnh Tây nộp cho văn phòng Quế Lâm của Ủy ban quân sự chính phủ Quốc dân Đảng để điều tra xét hỏi vì một người Việt Nam có nhiều giấy tờ quan trọng do Trung Quốc cấp là đáng khả nghi.

Trở lại những năm trước đó, trước khi Người được cấp những loại giấy tờ tùy thân trên. Qua một thời gian khoảng 8 năm Nguyễn Ái Quốc phải kiên trì chịu đựng vượt qua những khó khăn phức tạp trong “tình trạng không hoạt động, và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài Đảng” [thư Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế cộng sản ngày 6.6.1938], cuối tháng 9.1938, Nguyễn Ái Quốc được nữ đồng chí Vaxiliepva và đồng chí Manuinxki giúp đỡ trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ đó đến tháng 1.1941 - ngày trở về Pác Pó, Nguyễn Ái Quốc trải qua 28 tháng trên đất nước Trung Quốc và tên gọi Hồ Quang, Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc hành trình lịch sử này.

Ngày 29.9.1938, Nguyễn Ái Quốc rời Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, lên xe lửa tuyến Moscow - Nôvôxibiêcxcơ rồi chuyển hướng về phía nam, vượt biên giới Xô - Trung vào Urumsi [Tân Cương, Trung Quốc]. Các đồng chí Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Bát lộ quân nhận được chỉ thị đón một cán bộ quan trọng của Quốc tế cộng sản đi qua, chuẩn bị cho đồng chí ấy một chứng minh thư Giải phóng quân Trung Quốc với tên Hồ Quang cấp bậc thiếu tá - người đó chính là Nguyễn Ái Quốc. Với bí danh Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến Trùng Khánh, ở và công tác tại văn phòng Bát lộ quân Trùng Khánh. Người ở trong một gian buồng nhỏ tầng trên của văn phòng, kề vách nơi phòng ở của đồng chí Chí Quang, trong bộ phận làm việc có hai người giống tên nhau, để thuận tiện trong xưng hô, sinh hoạt, thường gọi vui nhau bằng tên gọi gắn với nét đặc trưng, Hồ Quang có trán cao, nên mọi người thường gọi vui là “Quang hói”. Có lẽ tên gọi Hồ Quang, Chí Quang có mối liên hệ về ngữ nghĩa với tên gọi Hồ Chí Minh sau này.

Thời kỳ cuối những năm 1930-1940, là thời gian Quốc - Cộng hợp tác lần thứ hai. Tuy là hợp tác để đánh Nhật, nhưng người của “vùng đỏ” [thuộc địa phận quản lý của Đảng Cộng sản] vào “vùng trắng” thuộc địa phận quản lý của Quốc dân Đảng, mặc dầu mang đủ loại giấy tờ của Bát lộ quân vẫn bị gây nhiều khó khăn. Với chứng minh thư thiếu tá Hồ Quang do Bát lộ quân cấp khi đi qua “vùng trắng” thường bị kiểm tra, gây khó dễ. Do đó vào năm 1940 để thuận tiện cho việc đi lại trong vùng Quốc dân Đảng kiểm soát, Nguyễn Ái Quốc đã dùng giấy tờ tùy thân do Quốc dân Đảng cấp, tất cả mang tên mới là Hồ Chí Minh.

Hiện nay chúng ta được biết, trong cuộc đời 79 mùa xuân của mình, Hồ Chí Minh đã dùng trên 180 bút danh, bí danh và mật danh khác nhau. Bí danh Hồ Chí Minh xuất hiện từ năm 1940, dần trở thành chính danh luôn đi liền với tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vang vọng khắp năm châu.

Báo Cứu Quốc ra ngày 26-8-1946

Ngày 13-3-2021, một con đường trong Cụm y tế công nghệ cao Tân Kiên, Bình Chánh [TP.HCM] đã được đặt tên Trần Hữu Nghiệp nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh của ông.

Ai cũng đã biết bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, người được gọi là "kẻ sĩ Gia Định", một trong những người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp bác sĩ tại Pháp, nhưng lại không ngần ngại một phút nào khi đứng về phía Tổ quốc mình, tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp ngay từ 23-9-1945.

Nhưng điều ít ai biết là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp chính là người đầu tiên đã đưa ra ý tưởng đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh ngay từ những ngày tháng 8-1946.

Tháng 2-1946, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp được lãnh đạo Khu 8 và Tỉnh ủy Bến Tre lựa chọn tham gia vào đoàn vượt biển ra Bắc báo cáo với Trung ương cùng bà Nguyễn Thị Định, giáo sư Ca Văn Thỉnh, ông Nguyễn Văn Khước.

Được giữ lại Hà Nội tiếp tục công tác, ông Nghiệp hăng say hòa mình vào cuộc sống mới rất khác với miền Nam. Và, một bài báo trên báo Cứu Quốc ra ngày 26-8-1946 tường thuật: "Nhân ngày kỷ niệm một năm chính quyền cách mạng, phòng Nam bộ trung ương, đường Gia Định đã có một buổi họp mặt thân thiện giữa những người Việt miền Nam.

Trong buổi họp này, bác sĩ Nghiệp nhắc lại tình hình Nam bộ trong một năm qua; những chiến công oanh liệt của các chiến sĩ đã chết và còn sống hiện đang chiến đấu, nhưng trên tất cả, bác sĩ kể đến công đức của Hồ Chủ tịch, người chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc, vị đại anh hùng của dân chúng Việt Nam.

Để kết luận, sau khi kể một vài thí dụ ở những nước lớn hay lấy tên những vị anh hùng để đặt cho một thành phố lớn, bác sĩ Nghiệp đề nghị, để ghi lấy công đức của Hồ Chủ tịch, thành phố Sài Gòn đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh. Toàn thể mọi người tán thành đề nghị của bác sĩ Nghiệp và đồng ký vào bản quyết nghị thay tên thành phố Sài Gòn gửi lên Chính phủ...".

Báo Tuổi Trẻ ngày 2-7-1976

Bản quyết nghị viết: "Xin Quốc hội và Chính phủ trung ương đổi ngay tên thành phố Sài Gòn lại làm tên thành phố Hồ Chí Minh, để tượng trưng sự chiến đấu, hy sinh và cương quyết trở về với Tổ quốc của dân Nam bộ". 57 người đã ký tên, đứng đầu là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp.

Sau đó là những năm Sài Gòn ngập trong khói lửa chiến tranh với bao nhiêu biến động chính trị, xã hội. Vậy nhưng ý nguyện ấy vẫn chưa bao giờ phai mờ, chưa bao giờ bị lãng quên. Đến 2-7-1976, gần trọn 30 năm sau, khi đất nước đã hòa bình, Quốc hội khóa VI, Quốc hội thống nhất lần thứ hai đã ra quyết định chính thức để đô thành Sài Gòn mang tên Thành phố Hồ Chí Minh.

Bài xã luận trang 1 của báo Tuổi Trẻ ra ngày 2-7-1976 ghi tít lớn: "Chào ngày mới của Tổ quốc, chào hạnh phúc tương lai, tuổi trẻ vươn cánh bay cao".

Đến nay đã 45 năm, đã thêm hai thế hệ trẻ nữa được sinh ra, lớn lên trên thành phố này. Khát vọng của TP.HCM vẫn không khác khát vọng những bước chân lưu dân Việt đầu tiên cuối thế kỷ 16 xác lập Sài Gòn: bình an, thịnh vượng, hùng cường.

Ngày kỷ niệm 45 năm mang tên Hồ Chí Minh này, thành phố đang phải đương đầu với trăm ngàn khó khăn của một đại dịch. Nhưng mấy trăm năm lịch sử thành phố đã bao giờ dễ dàng, vậy nên người Sài Gòn - TP.HCM nào cũng biết khó khăn này rồi sẽ lại đi qua, và ngày mai lại là một ngày mới tươi đẹp trên thành phố.

Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM phối hợp Hội Nhà báo TP.HCM tổ chức bình chọn và trao giải báo chí chủ đề "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM vì hạnh phúc của nhân dân".

Giải thưởng được tổ chức nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành phố Sài Gòn - Gia Định chính thức vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh [2-7-1976 - 2-7-2021], đồng thời kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam - Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [18-11-1930 - 18-11-2021].

Các tác phẩm tham gia xét tặng thuộc các thể loại ghi chép, phản ánh, điều tra, phóng sự, ký báo chí, chân dung nhân vật, gương người tốt việc tốt, phỏng vấn, bình luận, phóng sự ảnh...

Thời gian nhận tác phẩm đề nghị xét tặng giải thưởng từ ngày 1-7 đến 30-9-2021. Hồ sơ gửi về Ban Tuyên giáo - đối ngoại, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP, số 55 Mạc Đĩnh Chi [phường Đa Kao, quận 1] và gửi kèm bản mềm về thư điện tử: .

TIẾN LONG

Dành 6 ngày kỷ niệm 44 năm Sài Gòn mang tên thành phố Hồ Chí Minh

PHẠM VŨ

​[ĐSCVN] - Tìm hiểu về danh xưng “Hồ Chí Minh” càng làm cho chúng ta nhận thức sâu sắc thêm về tư tưởng, đạo đức, phong cách giản dị, trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã dành cả cuộc đời vì dân, vì nước, vì độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.

Bạn đang xem: Tại sao bác hồ lấy tên hồ chí minh


Bộ sưu tập chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn 1945 – 1969 [Ảnh chụp từ tài liệu trưng bày tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III]

Danh xưng “Hồ Quang” hay “Hồ Chí Minh” ban đầu được Bác sử dụng như là một bí danh. Đó là thời điểm cuối năm 1938, từ Liên Xô trở lại Trung Quốc hoạt động, trong vai một Thiếu tá của Bát Lộ quân, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng cái tên “Hồ Quang” để công tác tại Phòng Cứu vong thuộc Văn phòng Bát Lộ quân ở Quế Lâm [Trung Quốc], nhiệm vụ cụ thể là Ủy viên y tế kiêm Ủy viên bích báo, tham gia lãnh đạo Phòng.

Xem thêm: Impressions Là Gì ? Phân Biệt Impression Trong Seo Và Quảng Cáo

Vì sao lúc này Nguyễn Ái Quốc lại dùng danh xưng là “Hồ Chí Minh”, trong đó “Hồ” là họ và “Chí Minh” là tên [người có họ là “Hồ”, tên là “Chí Minh”]. Đơn giản là bởi lẽ Bác rất am hiểu văn hóa Trung Quốc, thông thạo tiếng Trung Quốc. Trong ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc, chữ “Hồ” còn có nghĩa là “râu” hàm ý chỉ những người lớn tuổi để râu; hoặc trong chữ “mơ hồ”. Người Trung Quốc nếu nói “già hồ” có nghĩa là nói về ông già có râu dài, giản dị, mơ hồ, có thể bắt gặp ở bất cứ đâu trong cuộc sống. Do vậy, Bác dùng họ “Hồ” đã thể hiện được phong cách giản dị, dễ hòa đồng, hòa nhập với dân chúng, lại có thể tránh được sự theo dõi của mật thám. Người Trung Quốc không xưng hô bằng tên gọi mà xưng hô bằng họ. Trong trường hợp bị mật thám tìm hỏi về một ông lão Hồ thì người dân cũng sẽ rất khó xác định được đó là “ông già râu dài” nào. Về tên gọi “Chí Minh”, chữ “Chí” trong “ý chí”, còn “Minh” là “sáng” hay trong “con đường sáng”. Bác dùng danh xưng “Hồ Chí Minh” có hàm ý muốn nói rằng một người giản dị như bao người dân Việt Nam yêu nước khác, nhưng có đầy ý chí và lòng quyết tâm đi theo con đường sáng, con đường cách mạng vô sản chân chính đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam…

Chỉ một vài lần hiếm hoi vào các năm 1947, 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng chữ ký với duy nhất một chữ “H”, là chữ cái đầu tiên trong danh xưng “Hồ Chí Minh”.

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam, mãi mãi soi đường chosự nghiệp xây dựng và bảo vệđất nướccủa nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,dân chủ,công bằng, văn minh./.

–––––––––––––––

, . Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử [Tập 2: 1930 – 1945]. Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2009

. Hồ Chí Minh - Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Tập 4, Trang 1-3, năm 2011

. Hồ Chí Minh - Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Tập 15, Trang 602-603, năm 2011

Video liên quan

Chủ Đề