So sánh nghiệp vụ thị trường mở và chiết khấu năm 2024

Ktct2 - https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-thuy-loi/triet-hoc-mac-lenin/tu-tuong-1-scdsc/67403871

  • 2 Cau hoi va BT Chuong 2 - Hihu deo br vtska
  • Detracnghiem 2023-So1
  • Chương 1 tài chính tiền tệ khoa Kinh tế và Quản lí phần 1
  • 3. Luật xây dựng 2014 - rtreyr
  • Tctt56 - dollar hóa nền kinh tế
  • Tctt21 - chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển
  • Tctt20 - chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển

Preview text

“Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”.

LỜI MỞ ĐẦU

Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng trong quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ thực sự có ý nghĩa và thể hiện đúng vai trò vị trí của mình hay không lại phụ thuộc vào quá trình sử dụng các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Để thực hiện vai trò và trách nhiệm đã được quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở. Sau một thời gian dài chuẩn bị về hàng lang pháp lý, trang thiết bị, nhân lực, ... nghiệp vụ thị trường mở đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chính thức khai trương vào ngày 12/7/2000. Trải qua hơn 7 năm hoạt động, nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện an toàn, góp phần quan trọng vào việc điều tiết và kiểm soát lượng tiền cung ứng của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, cũng như các công cụ chính sách tiền tệ khác của Ngân hàng nhà nước, nghiệp vụ thị trường mở đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Số lượng các tổ chức tín dụng tham gia ít, doanh số giao dịch nhỏ, hàng hoá giao dịch chưa nhiều, các quy định về quy trình, xử lý thông tin còn chưa hoàn thiện. Vì vậy, nhu cầu đổi mới và hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trưởng mở là hết sức cấp bách và cần thiết.

CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ

CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

  1. Khái niệm Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán giấy tờ có giá (GTCG) giữa một bên là Ngân hàng Nhà nước với bên kia là các tổ chức tín dụng (TCTD) trong đó NHNN đóng vai trò là người điều hành hoạt động thị trường. Nghiệp vụ TTM là một trong các công cụ được NHNN sử dụng để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
  2. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở Thông qua hoạt động mua, bán các GTCG trên thị trường mở, NHTW đã tác động trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng và ảnh hưởng gián tiếp đến các mức lãi suất trên thị trường, từ đó tác động trực tiếp đến các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng.
  3. Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là đối tác tham gia OMO) và tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng là đối tác tham gia OMO). Sơ đồ 1. Cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng

Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua GTCG sẽ làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ của hệ thống ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Sự giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả năng cho vay của ngân hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên. Như vậy, khi

NHTW bán GTCG

Dự trữ NH giảm

Dự trữ mở rộng cho vay giảm

Khối lượng TD giảm

MS giảm

trên thị trường mở sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm giá của tín phiếu kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín phiếu kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động đầu tư của các chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm. Từ đó tổng cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. 3. Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở 3. Đối với ngân hàng trung ương Để thực hiện nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền, NHTW đã xây dựng và thực thi các công cụ CSTT nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu thông theo tín hiệu thị trường. Trong đó, OMO là công cụ CSTT gián tiếp quan trọng nhất tại nhiều quốc gia làm thay đổi cung - cầu tiền tệ dẫn đến thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ. Thông qua việc mua bán GTCG tại thị trường mở, NHTW có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng và tác động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng tiền cung ứng. Như vậy, OMO đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử dụng các công cụ mang tính trực tiếp trong điều hành CSTT. Bên cạnh mục đích điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, thông qua mua bán GTCG trên thị trường mở, NHTW còn cấp tín hiệu cho thị trường về định hướng điều hành CSTT trong tương lai là nới lỏng hay thắt chặt. Đặc biệt khi thực hiện OMO thường xuyên và hiệu quả, lãi suất thị trường mở có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo lãi suất thị trường và qua đó NHTW có thể hạn chế những biến động của lãi suất thị trường. OMO là một công cụ CSTT có tính chủ động cao. OMO do NHTW chủ động khởi xướng, khác với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của NHTW thường do các ngân hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng. Như vậy, NHTW có thể chủ động thực hiện OMO theo định kỳ hoặc vào các thời điểm cần thiết. OMO có thể được thực hiện linh hoạt xét trên góc độ về khối lượng cũng như thời gian giao dịch. NHTW có thể thực hiện OMO ở quy mô lớn/nhỏ (khối lượng mua bán GTCG lớn/nhỏ) với thời hạn dài/ngắn tuỳ theo quyết định mua/bán GTCG.

OMO có thể khắc phục được những hạn chế của các công cụ kiểm soát tiền tệ trực tiếp và các công cụ gián tiếp khác. Các giao dịch OMO có tính hai chiều, qua đó NHTW có thể bơm thêm tiền vào lưu thông hoặc rút tiền từ lưu thông, trong khi công cụ TCV chỉ có thể bơm thêm tiền vào lưu thông. Mặt khác, với công cụ OMO, NHTW có thể chủ động hơn trong việc điều tiết lưu thông, không phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ quan của NHTM như trong công cụ TCV. Qua việc tính toán và dự báo vốn khả dụng cũng như lượng tiền cung ứng, NHTW có thể biết chính xác được khối lượng tiền cần bơm thêm hoặc rút về từ lưu thông. 3. Đối với các đối tác của ngân hàng trung ương Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong cơ chế thị trường ngày càng đa dạng dẫn đến hoạt động quản lý và sử dụng vốn khả dụng cần phải chủ động và linh hoạt hơn. Hiện nay trong cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn với thời gian dưới 12 tháng thường chiếm tỷ trọng từ 60-70%. Vì vậy, vấn đề cấp bách hiện nay đối với các ngân hàng là làm thế nào để sử dụng vốn linh hoạt hiệu quả và giải quyết được khó khăn tạm thời về vốn khả dụng trong thời gian ngắn, không gây ách tắc trong thanh toán cũng như đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng. Thị trường mở là nơi các đối tác của NHTW được chủ động tham gia mua bán GTCG với NHTW và lãi suất thực sự là mang tính thị trường.. Các thành viên tham gia thị trường mở thường là các đối tác có độ tin cậy cao, nên việc mua bán GTCG trên thị trường mở có độ an toàn rất cao. Bên cạnh đó, những điều kiện về chủng loại và chất lượng các GTCG được giao dịch trong OMO sẽ gián tiếp làm thay đổi danh mục đầu tư GTCG của các ngân hàng, từ đó cải thiện theo hướng tích cực cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng, làm giảm dự trữ không sinh lợi và cải thiện bảng tổng kết tài sản của ngân hàng. Ngoài ra, OMO góp phần đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD. Các TCTD không chỉ đơn thuần thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống như cho vay, bảo lãnh, dịch vụ ... mà còn sử dụng một nguồn vốn nhất định để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh mới là mua bán các GTCG. OMO cũng thúc đẩy các mối quan hệ mang tính kinh doanh giữa các thành viên tham gia thị trường.

hàng để đảm bảo khả năng thanh toán và gián tiếp tác động đến các lãi suất thị trường theo mục tiêu CSTT. NHTW cũng là người can thiệp thị trường khi cần thiết thông qua thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ phương tiện thanh toán cho các TCTD cũng như nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Như vậy, NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh doanh mà để quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực hiện theo các mục tiêu xác định của nó. 4. Các đối tác của ngân hàng trung ương 4.2. Các ngân hàng thương mại Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia OMO của NHTW và là đối tác quan trọng của NHTW xét trên 2 phương diện độ tin cậy và tính hiệu quả. Các NHTM tham gia thị trường nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán và đầu tư các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để hưởng lãi. Sự tham gia của các NHTM trong các giao dịch OMO có ý nghĩa quan trọng xét trên góc độ hiệu quả CSTT do: (i) NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, có mạng lưới hoạt động rộng. NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, nhất là ở các nước đang phát triển; (ii) Hơn nữa NHTM vừa là người đi vay, vừa là người cho vay trên thị trường tiền tệ. 4.2. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Tại một số quốc gia, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng được tham gia OMO. Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, hội tiết kiệm ... coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập thông qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua bán các GTCG. 4.2. Các nhà giao dịch sơ cấp Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào OMO với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác. Các nhà giao dịch sơ cấp có thể là các NHTM, công ty chứng khoán, công ty tài chính. Thực tế ở nhiều nước, 70% giao dịch can thiệp của NHTW trên thị trường mở được thực hiện thông qua các nhà giao dịch sơ cấp. Khi đó, NHTW chỉ thực hiện mua bán GTCG với các nhà giao dịch sơ cấp. Và để thực hiện được vai trò này, các nhà giao dịch sơ cấp phải có nguồn vốn đủ mạnh đáp ứng yêu cầu quy định của NHTW và phải sẵn sàng thực hiện vai trò người tạo lập thị trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc.

  1. Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở
    1. Tín phiếu kho bạc Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán Chính phủ được phát hành nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu kho bạc thường dưới 12 tháng. Việc sử dụng tín phiếu kho bạc trong OMO có một số ưu điểm nhất định. Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc thay cho việc phát hành tín phiếu NHTW để thực hiện CSTT thắt chặt thì gánh nặng về thực hiện CSTT sẽ chuyển sang ngân sách và được thể hiện rõ ràng trên số liệu ngân sách. Mặt khác khi thị trường tiền tệ chưa phát triển, số dư tín phiếu kho bạc lại khá lớn thì việc sử dụng tín phiếu kho bạc để thực hiện CSTT sẽ giảm rủi ro của việc phân tách thị trường.
  2. Tín phiếu ngân hàng trung ương Tín phiếu NHTW là loại GTCG ngắn hạn do NHTW phát hành để làm công cụ cho OMO. Việc sử dụng tín phiếu NHTW làm hàng hoá trên thị trường mở có một số ưu điểm như tăng cường tính độc lập của NHTW trong việc thực thi CSTT và là công cụ linh hoạt cho việc quản lý vốn khả dụng Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu NHTW để thực thi CSTT sẽ làm cho chi phí hoạt động của NHTW tăng lên, mặc dù NHTW hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng tín phiếu NHTW đòi hỏi phải có sự phối hợp nhất định với Bộ Tài chính. Khi NHTW và Bộ Tài chính đồng thời phát hành tín phiếu NHTW và tín phiếu kho bạc, nếu lãi suất chênh lệch thì các đối tác trên thị trường mở sẽ tập trung mua loại tín phiếu có lãi suất cao hơn. Khi đó sẽ có sự phân khúc giữa thị trường tín phiếu kho bạc và thị trường tín phiếu NHTW, làm cho mục đích phát hành các GTCG này không đạt được và có thể làm giảm hiệu quả tác động của 2 loại hàng hoá này.
  3. Trái phiếu Chính phủ Trái phiếu chính phủ là giấy nhận nợ dài hạn do Chính phủ phát hành nhằm mục đích huy động vốn cho ngân sách. Mặc dù là GTCG dài hạn có thời hạn lên đến 10-30 năm nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng khá rộng rãi trong các giao dịch OMO ở một số nước bởi tính an toàn, ổn định trong phát hành và khối lượng phát hành thường lớn, có khả năng tác động trực tiếp giá cả trên thị trường tài chính.
  4. Trái phiếu Chính quyền địa phương

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

Bắt đầu từ ngày 12/7/2000, NHNN tiến hành đưa công cụ OMO vào hoạt động. Đây là một bước tiến mới trong điều hành CSTT của NHNN theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, để phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển của đất nước. Nó đã mở ra một kênh cung ứng và điều tiết vốn khả dụng của các TCTD cho NHNN và tạo điều kiện cho các TCTD sử dụng linh hoạt các loại GTCG của mình. Công cụ OMO liên tục được NHNN cải tiến trong những năm qua và dần trở thành một công cụ CSTT chủ yếu của NHNN.

  1. Doanh số trúng thầu nghiệp vụ thị trường mở Ngay từ khi triển khai, NHNN đã xác định OMO sẽ là một công cụ chủ yếu trong điều hành CSTT của NHNN. Để đạt được mục đích đó, NHNN đã tập trung thực hiện việc điều hoà lưu thông tiền tệ thông qua công cụ này. Điều này thể hiện ở doanh số mua bán GTCG trên thị trường mở tăng nhanh qua các năm. Những năm gần đây, tốc độ này đạt trên 200%. Bảng 1. Tổng doanh số trúng thầu OMO qua các năm Đơn vị: tỷ đồng

Năm thực hiện

Số phiên thực hiện

Khối lượng trúng thầu theo các phương thức giao dịch Mua kỳ hạn

Mua hẳn

Bán kỳ hạn Bán hẳn Tổng cộng 2000 17 873,50 480,00 550,00 1, 2001 48 3,81 60,00 50,00 570,00 3, 2002 85 7,53 1,00 9, 2003 107 9,15 11,00 21, 2004 123 60,91 950,00 61, 2005 159 100,15 700,00 1,00 102, 2006 155 86 26 112. 2007 165 88 35 123. Tổng cộng 859 357,05 540 750 78 436, Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông qua hoạt động OMO, NHNN không chỉ mua GTCG để bơm thêm vốn khả dụng khi thị trường thiếu hụt vốn khả dụng và mà còn bán GTCG để

hút tiền nhàn rỗi khi thị trường dư thừa vốn nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. Doanh số trúng thầu OMO tăng mạnh qua các năm, trung bình tăng 1, lần/năm, qua đó tăng khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của TCTD cũng như các điều kiện tiền tệ. 2. Tần suất và phương thức giao dịch trên thị trường mở 2. Tần suất giao dịch Để tăng cường khả năng tác động của công cụ này, NHNN đã tăng tần suất giao dịch thị trường mở. Trong thời gian đầu khi mới triển khai, các phiên OMO được tổ chức với tần suất 10 ngày/phiên. Ngày giao dịch OMO được tính theo ngày làm việc. Từ phiên thứ 14 vào ngày 29/11/2000, OMO được thực hiện với tần suất 1 tuần/phiên vào ngày thứ Tư hàng tuần. Điều này đã giúp cho các TCTD chủ động điều chỉnh kịp thời, linh hoạt vốn khả dụng của mình. Từ năm 2001, Ban điều hành OMO đã tăng định kỳ tổ chức các phiên giao dịch OMO 2 phiên/1 tuần vào ngày thứ 3 và thứ 5 hàng tuần. Ngoài ra để đáp ứng kịp thời vốn khả dụng cho TCTD, NHNN đã tổ chức các phiên đấu thầu đột xuất theo ngày, cá biệt 2 phiên/ngày trong thời gian giáp Tết Nguyên đán. Việc tổ chức các phiên đột xuất đã hỗ trợ kịp thời cho các TCTD khắc phục khó khăn về thiếu hụt vốn khả dụng, đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả và đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ. Bắt đầu từ tháng 11/2004, giao dịch OMO đã được thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần, vào ngày thứ 2, 4 và 6, góp phần điều tiết kịp thời vốn khả dụng của TCTD. Trong năm 2005, NHNN đã tổ chức được 158 phiên thị trường mở, tăng 28,5%so với năm 2004. Mặc dù hiện nay đã giao dịch với tần suất 3 phiên/tuần nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu giao dịch vốn của các ngân hàng. Vì thế năm 2006 và 2007 được nâng lên là 5 phiên / tuần. Bảng 2. Số lượng các phiên giao dịch OMO

Năm

Số phiên

Số phiên mua Số phiên bán Tần suất giao Mua dịch hẳn

Mua có kỳ hạn

Bán hẳn

Bán có kỳ hạn 2000 17 4 10 3 0 10 ngày/phiên 2001 48 3 39 5 1 1 tuần/phiên 2002 85 1 58 26 0 1 tuần/2 phiên 2003 107 0 52 55 0 1 tuần/2 phiên 2004 123 0 109 0 14 1 tuần/3 phiên 2005 158 0 150 6 2 1 tuần/3 phiên

Nhìn chung, lãi suất OMO khá bám sát các lãi suất khác của NHNN công bố như lãi suất cơ bản, lãi suất TCV và lãi suất chiết khấu. Lãi suất trúng thầu thường nằm giữa mức lãi suất TCV và lãi suất chiết khấu. Lãi suất trúng thầu, trong các phiên đấu thầu lãi suất, thể hiện khá chính xác và phù hợp với diễn biến thị trường. 2.3. Lãi suất công bố trong phương thấu đấu thầu khối lượng Trước khi thực hiện các phiên đấu thầu khối lượng, Ban điều hành OMO công bố lãi suất để các thành viên đặt thầu mua bán GTCG. Lãi suất công bố này là lãi suất trúng thầu trong các phiên. Vì vậy, lãi suất trúng thầu trong các phiên đấu thầu khối lượng thường chỉ có một lãi suất nhất định. Tuy nhiên, do lãi suất trúng thầu đã được NHNN xác định nên các thành viên không có sự lựa chọn về lãi suất khi giao dịch với NHNN và lãi suất này chưa phản ánh được nhu cầu về vốn của các thành viên trên thị trường. Đây là một nhược điểm của phương thức đấu thầu khối lượng trong giao dịch thị trường mở. Vì thế, trong 2 năm trở lại đây, NHNN đã không áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng trong các phiên OMO nữa. 2.3. Lãi suất trúng thầu trong phương thức đấu thầu lãi suất Trước mỗi phiên đấu thầu, Ban điều hành OMO dự kiến khối lượng GTCG cần giao dịch. Khối lượng giao dịch có thể được NHNN thông báo hoặc không thông báo trước. Đồng thời, căn cứ vào dự báo tình hình vốn khả dụng, NHNN cũng xác định một lãi suất chỉ đạo làm điểm dừng khi giao dịch. Lãi suất này không thông báo cho các thành viên thị trường khác. Trường hợp NHNN mua GTCG, lãi suất chỉ đạo sẽ là lãi suất mua thấp nhất của NHNN và ngược lại. Mục đích của NHNN khi đưa ra lãi suất chỉ đạo là để định hướng lãi suất trên thị trường tiền tệ. Trường hợp áp dụng phương thức xét thầu thống nhất, lãi suất trúng thầu chỉ có một mức nhất định. Trường hợp áp dụng phương thức xét thầu riêng lẻ, nhìn chung sẽ có nhiều mức lãi suất trúng thầu. Do lãi suất trúng thầu trong các phiên OMO theo phương thức đấu thầu lãi suất phản ánh chính xác hơn diễn biến của thị trường nên tại Việt Nam, NHNN chủ yếu thực hiện OMO theo phương thức đấu thầu lãi suất, chiếm tới 86,2% tổng số phiên và 100% số phiên trong 2 năm gần đây. 3. Kết quả đạt được của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở

Thứ nhất, các cơ chế và quy trình OMO đã được không ngừng cải tiến và hoàn thiện Dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành OMO, các Vụ Cục chức năng của NHNN đã kịp thời sửa đổi, bổ sung cơ chế, quy chế, quy trình kỹ thuật có liên quan. Về cơ bản, các vướng mắc về cơ chế, quy trình và hạ tầng kỹ thuật đã được từng bước xử lý, khắc phục. Công tác tổ chức, điều hành hoạt động OMO của NHNN được thực hiện bài bản, bảo đảm an toàn tuyệt đối trong các phiên giao dịch. Các GTCG được sử dụng trong OMO đã được mở rộng theo tinh thần Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN năm 2003. Đến nay các GTCG được giao dịch không chỉ gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN mà còn cả các loại trái phiếu dài hạn do ngân sách trung ương thanh toán. Quy trình thanh toán từng bước được rút ngắn. Từ thanh toán sau 2 ngày kể từ ngày đấu thầu (T+2) năm 2000, thanh toán sau ngày đấu thầu 1 ngày (T+1) năm 2001 và từ năm 2002 đến nay việc thanh toán được thực hiện ngay trong ngày đấu thầu (T+0). Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN đưa vào vận hành từ tháng 5/2003 đã tạo điều kiện cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng và OMO được thanh, quyết toán tức thời, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các TCTD. Tần suất giao dịch cũng được từng bước tăng cường từ 10 ngày/phiên trong thời gian bắt đầu hoạt động lên 1 tuần/phiên trong năm 2001, 2 phiên/tuần năm 2002. Từ tháng 11/2004 hoạt động OMO đã thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần, góp phần điều tiết kịp thời vốn khả dụng của TCTD. Trong những dịp giáp Tết, NHNN đã thực hiện giao dịch hàng ngày và tổ chức thêm các phiên giao dịch đột xuất (cá biệt 2 phiên/ngày), giúp các TCTD đáp ứng kịp thời vốn đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ và an toàn hệ thống. Thủ tục đấu thầu ngày càng được cải tiến. Nhất là từ ngày 15/12/2004, NHNN đã bắt đầu áp dụng công nghệ trang Web trong giao dịch OMO, cho phép thành viên kết nối trực tuyến với NHNN, không phải đầu tư máy chủ, tiết kiệm chi phí đầu tư khi tham gia nghiệp vụ này. Điều này đã tạo điều kiện thu hút thêm thành viên tham gia thị trường, qua đó nâng cao vai trò điều tiết của công cụ này. Từ năm 2006 và 2007 áp dụng là 5 phiên / tuần.

Thứ ba, OMO là kênh để NHNN có được nguồn thông tin về tình hình nguồn vốn của các TCTD và về tình hình thị trường tiền tệ nói chung, làm cơ sở cho việc điều hành CSTT. Trong điều kiện thông tin về thị trường tiền tệ còn chưa thu thập được đầy đủ và kịp thời, kết quả hoạt động OMO có thể coi là kênh thông tin hữu hiệu phản ánh một phần tình hình thị trường tiền tệ phục vụ cho điều hành CSTT. Thông qua việc tổng hợp, phân tích các thông tin về khối lượng, lãi suất đặt thầu và trúng thầu trong các phiên giao dịch OMO cũng có thể đưa ra các nhận định về vốn khả dụng của các TCTD, cũng như xu hướng lãi suất thị trường. Trong điều kiện NHNN chuyển sang điều hành bằng các công cụ tiền tệ gián tiếp như hiện nay, việc dự báo trước các diễn biến của thị trường để có quyết định phù hợp và kịp thời về việc điều chỉnh các công cụ CSTT ngày càng đóng vai trò quan trọng. Bằng việc theo dõi, dự báo thường xuyên vốn khả dụng của các TCTD, NHNN đã nắm bắt được các diễn biến về vốn của các TCTD để đưa ra các quyết định điều hành OMO và điều hành CSTT nói chung. Thứ tư, hoạt động OMO đã góp phần phát triển thị trường tiền tệ, hỗ trợ các TCTD sử dụng vốn có hiệu quả. Thông qua hoạt động OMO, tính thanh khoản của các GTCG do các TCTD nắm giữ được tăng cường. Điều này góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường sơ cấp, giúp cho các TCTD yên tâm hơn khi đầu tư vào các trái phiếu dài hạn của Chính phủ, khuyến khích các hoạt động mua bán lại trái phiếu chính phủ. Nhiều TCTD không chỉ coi việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ là hình thức đầu tư an toàn mà còn là hình thức dự trữ thanh khoản có hiệu quả cao. Khi cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán, các TCTD có thể sử dụng các GTCG trong các giao dịch OMO cũng như các nghiệp vụ thị trường tiền tệ nói chung, tạo điều kiện cho các TCTD điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng tỷ suất đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Qua theo dõi, phân tích các kết quả hoạt động OMO được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin, các TCTD có thể tham khảo về diễn biến thị trường để quyết định việc tham gia các hoạt động thị trường tiền tệ, nắm

bắt tín hiệu về định hướng điều hành CSTT của NHNN để có hướng cân đối nguồn vốn thích hợp. Thứ năm, công tác phân tích, dự báo vốn khả dụng của các TCTD làm cơ sở cho việc quyết định giao dịch OMO ngày càng được tăng cường. Bộ phận quản lý vốn khả dụng đã cố gắng cải tiến phương pháp dự báo, nâng cao chất lượng dự báo vốn khả dụng, khắc phục khó khăn trong thu thập thông tin, khai thác tối đa các nguồn thông tin khác, thường xuyên trao đổi với các TCTD nhất là các NHTMNN để nắm bắt diễn biến thị trường, qua đó giảm sai số khi dự báo, đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của công cụ này. Bằng việc đưa hệ thống thông tin báo cáo mới của NHNN theo Quyết định số 477/2004/QĐ-NHNN , chỉ thị 03/2008/CT-NHNN vào áp dụng, NHNN đã bước đầu có điều kiện khai thác một số thông tin về vốn khả dụng qua mạng. Thông tin về vốn khả dụng của các TCTD đã được phản ánh toàn diện và kịp thời hơn. Các thành viên OMO đã có sự quan tâm, chú trọng hơn đối với việc theo dõi, phân tích và dự báo luồng vốn, thực hiện quản lý vốn ngày càng hiệu quả hơn để có thể tăng cường tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ, nhất là nghiệp vụ OMO. 4. Những hạn chế và nguyên nhân 4. Những hạn chế Qua các năm triển khai thực hiện, bên cạnh những kết quả khả quan của hoạt động OMO thì vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định: Thứ nhất, tác động của OMO đến thị trường tiền tệ còn hạn chế - Công cụ OMO chủ yếu phát huy vai trò điều tiết khối lượng vốn khả dụng của các TCTD hơn là điều tiết lãi suất của thị trường. Nguyên nhân là do NHNN đang thực hiện khối lượng tiền chứ không phải điều tiết lãi suất. - Mặc dù lãi suất thị trường mở mang tính thị trường nhưng NHNN vẫn phải áp dụng lãi suất chỉ đạo mang tính hành chính trong một số phiên giao dịch OMO, để qua đó có thể can thiệp tới lãi suất của thị trường. Ngoài ra mối quan hệ giữa lãi suất OMO cũng như các lãi suất khác của NHNN và lãi suất thị trường chưa thật chặt chẽ. - Doanh số giao dịch OMO thấp, bình quân 373 tỷ đồng/phiên, nên mức độ tác động của OMO đến các điều kiện thị trường vẫn còn khá khiêm tốn. Và trong năm 2007 thì bình quân hơn 600 tỷ đồng / phiên.

  • Thời gian để rút được GTCG lưu ký ra khỏi NHNN phải chờ đợi lâu (thường đến 5-7 ngày), do Trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM phải đợi bản gốc văn bản của NHNN gửi đến mới hoàn tất thủ tục cho khách hàng. Thứ ba, hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động. Tuy thời gian triển khai không còn ngắn nhưng công cụ OMO vẫn đang còn là một nghiệp vụ mới đối với một số các TCTD, nhất là các NHTMCP. Việc tham gia thị trường mở vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, hạn chế. Các NHTMCP tham gia không thường xuyên và không nhiều. Điều này xuất phát từ nguyên nhân các NHTMCP chưa nhận thức được đầy đủ các ưu điểm của công cụ này. Bên cạnh đó, vấn đề tâm lý khi giao dịch với NHNN vẫn chưa thể khắc phục trong thời gian ngắn. Trong mỗi phiên giao dịch OMO thường chỉ có từ 1 đến 5 thành viên tham gia, chiếm tỷ lệ tương đối thấp so với tổng số các thành viên đăng ký tham gia OMO và chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng số các TCTD. Các thành viên tích cực tham gia vẫn là các NHTMNN và một số NHTMCP. Điều này làm giảm hiệu quả và mức độ tác động của NHNN tới dự trữ của hệ thống ngân hàng. Thứ tư, kỳ hạn mua bán GTCG ngắn và chưa đa dạng Hiện nay, NHNN chỉ thực hiện thống nhất một loại kỳ hạn giao dịch trong một phiên đấu thầu. Điều này đã hạn chế sự lựa chọn về kỳ hạn của các thành viên thị trường, mặc dù nhu cầu về khối lượng và thời gian của các thành viên là khác nhau. Bên cạnh đó, NHNN chỉ thực hiện giao dịch theo một chiều nhất định (mua hoặc bán GTCG) trong một phiên và chủ yếu thực hiện việc mua GTCG nên các TCTD cũng không thể tham gia nếu không phù hợp với nhu cầu vốn của họ. Điều này đã được chứng minh trong thực tế khi tại nhiều phiên giao dịch, không có thành viên nào tham gia. Mặc dù về quy định là kỳ hạn giao dịch đã được đa dạng hoá từ 7 ngày đến 182 ngày nhưng trên thực tế, NHNN thường chỉ giao dịch với các kỳ hạn từ 7-30 ngày, dẫn đến các khoản thanh toán với NHNN đến hạn dồn dập trong một thời gian ngắn và tăng gánh nặng thanh toán cho các NHTM.
  • Nguyên nhân Thứ nhất, thị trường tiền tệ ở Việt Nam còn chưa thực sự phát triển, các kênh truyền dẫn tác động CSTT chưa hoàn thiện làm hạn chế hiệu quả các công cụ CSTT. Việc thu thập thông tin về tình hình thị trường tiền tệ còn

nhiều khó khăn. Đến nay NHNN vẫn chưa có hệ thống theo dõi kịp thời và đầy đủ các hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Việc theo dõi, dự báo vốn khả dụng vẫn còn có những khó khăn nhất định. Trong khi đó, bản thân một số TCTD thành viên cũng gặp khó khăn trong việc nắm bắt thông tin về tình hình thị trường. Việc đánh giá, phân tích tình hình thị trường thông qua xem xét phản ứng của một số thành viên đôi khi không chính xác diễn biến thực tế. Chính vì vậy cho đến nay, NHNN vẫn chưa xây dựng được cơ chế truyền tải của CSTT và chưa lượng hoá được mức độ tác động của các công cụ CSTT đến M2 và các chỉ tiêu vĩ mô khác của nền kinh tế. Đây là một trong những nhược điểm lớn trong điều hành CSTT của NHNN. Thứ hai, cơ sở hạ tầng cho hoạt động OMO còn bất cập. Sự không đồng bộ trong ứng dụng công nghệ thông tin giữa NHNN và các thành viên thị trường làm hạn chế số lượng thành viên tham gia, đặc biệt là các NHTMCP (các chương trình phần mềm ứng dụng từ năm 2000-2004 còn có sự tách biệt nên khó sử dụng đối với các thành viên ít giao dịch). Việc nâng cấp hệ thống máy móc thiết bị phục vụ cho các nghiệp vụ thị trường mở nói riêng và các nghiệp vụ của NHNN nói chung còn chậm làm hạn chế đến tiến độ triển khai các ứng dụng công nghệ hiện đại vào các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ trong đó có nghiệp vụ OMO. Thứ ba, nhiều TCTD vẫn chưa quan tâm và chưa nhận thức đầy đủ tính hiệu quả của công cụ này. NHNN đã tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, tổ chức tập huấn triển khai hoạt động thị trường mở ... nhằm phát triển hoạt động OMO nói riêng cũng như các hoạt động thị trường tiền tệ nói chung nhưng vẫn chưa được một số TCTD thực sự quan tâm. Số lượng thành viên thường xuyên tham gia OMO đã tăng nhưng vẫn còn hạn chế, chỉ có 14/29 TCTD thường xuyên tham gia các giao dịch OMO. Điều này không chỉ làm hạn chế sự tác động của OMO đến thị trường mà còn hạn chế khả năng sử dụng vốn hiệu quả của TCTD. Thứ tư, hàng hoá của OMO tuy đã được mở rộng nhưng vẫn chưa thực sự đa dạng hoá. Trong thời gian từ năm 200-2003, công cụ giao dịch OMO chỉ bao gồm các GTCG ngắn hạn. Thực hiện Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN, danh mục GTCG đã được mở rộng, lượng GTCG có thể giao dịch trong OMO đã tăng lên, song vẫn tập trung tại các NHTMNN.