Phân tích khổ cuối viếng lăng bác

Phân tích hai khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác (Dàn ý + 4 mẫu), Hôm nay, chúng tôi xin mời tất cả các bạn cùng tham khảo một số bài văn mẫu lớp 9: Phân tích hai khổ

Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến cho tất cả các bạn một số bài văn mẫu lớp 9: Phân tích hai khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác, đây là tài liệu đã được đội ngũ chúng tôi sưu tầm và đăng tải tại đây.

Bạn Đang Xem: Phân tích hai khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác (Dàn ý + 4 mẫu)

Phân tích khổ cuối viếng lăng bác

Hy vọng rằng với tài liệu này thì các bạn có thể củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 9 của mình cũng như có thêm tài liệu ôn thi vào lớp 10. Sau đây sẽ là dàn ý chi tiết cùng với 4 bài văn mẫu phân tích hai khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác, mời các bạn cùng tham khảo.

Dàn ý phân tích hai khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác

I. Mở bài:

– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm

+ Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.

+ Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ khi vào viếng lăng Bác, đặc biệt là hai khổ thơ cuối.

– Dẫn dắt, giới thiệu hai khổ cuối: Hai khổ thơ cuối thể hiện sâu sắc lòng thành kính và niềm xúc động của nhà thơ và mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác.

II. Thân bài:

* Cảm xúc của nhà thơ khi ở trong lăng:

– Khổ thơ thứ ba diễn tả thật xúc động cảm xúc và suy nghĩ của tác giả khi vào lăng viếng Bác. Khung cảnh và không khí thanh tĩnh như ngưng kết cả thời gian và không gian ở bên trong lăng Bác đã được nhà thơ gợi tả rất đạt:

“… Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng diệu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”

+ Cụm từ “giấc ngủ bình yên” diễn tả chính xác và tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác.

+ Bác còn mãi với non sông đất nước như trời xanh còn mãi mãi, Người đã hóa thành thiên nhiên, đất nước, dân tộc. Tác giả đã rất đúng khi khẳng định Bác sống mãi trong lòng dân tộc vĩnh hằng như trời xanh không bao giờ mất đi.

* Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ trước lúc khi trở về miền Nam:

– Khổ thơ thứ tư (khổ cuối) diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ. Muốn ở mãi bên lăng Bác, nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam, chỉ có cách gửi lòng mình bằng cách hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật ở bên lăng Bác để luôn được ở bên Người.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

– Từ “muốn làm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện được ước muốn, sự tự nguyện của tác giả. Hình

ảnh cây tre lại xuất hiện khép bài thơ lại một cách khéo léo.

– Tác giả muốn làm con chim, làm đóa hoa, làm cây tre trung hiếu, muốn được gắn bó bên Bác:

“Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”

III. Kết bài:

– Qua hai khổ thơ cuối, nhà thơ đã thể hiện được niềm xúc động tràn đầy và lớn lao trong lòng khi viếng lăng Bác, thể hiện được những tình cảm thành kính, sâu sắc với Bác Hồ.

– Bài thơ có giọng điệu phù hợp với nội dung bài tình cảm, cảm xúc. Đó là giọng vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết đau xót tự hào.

Phân tích hai khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 1

Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Thơ Viễn Phương bình dị, đằm thắm mang đậm tính cách Nam Bộ. Tuy đến sau trong đề tài thơ về Bác do điều kiện, hoàn cảnh: là người con miền Nam, cầm súng ở ngoài tiền tuyến… nhà thơ Viễn Phương đã để lại bài thơ “Viếng lăng Bác” độc đáo, có sức cảm hóa sâu sắc bởi tình ý đẹp, bởi lời hay. Đặc biệt ở hai thơ cuối thể hiện sâu sắc và cảm động tinh thần kính yêu lãnh tụ và ý nguyện muốn được dâng hiến đời mình bồi đắp thêm cho vẻ đẹp của đất nước:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”.

Đã từ rất lâu, cũng như các chiến sĩ và đồng bào miền Nam xa xôi, Viễn Phương luôn khao khát được viếng thăm lăng Bác, được trở về với người cha già vĩ đại. Nhưng cuộc chiến kéo dài, kẻ thù còn ngoan cố nên đến sau ngày đất nước giải phóng, ông mới có dịp thực hiện ước nguyện ấy.

Xem Thêm : Hóa học 10 Bài 5: Cấu hình electron của nguyên tử

Tác giả đến với lăng Bác trong tâm trạng bùi ngùi, vừa cảm thương, tiếc nuối vì người đã ra đi mãi mãi vừa cảm thấy tự hào, thỏa nguyện vì đã được trở về với tinh thần vĩ đại của dân tộc, trở về với nguồn sức mạnh thiêng liêng. Bước vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”.

Khổ thơ được bắt đầu với việc tả thực hình ảnh của Bác. Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận như Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Tất cả gợi nên một khung cảnh thiêng liêng, vô cùng thành kính. Sự tĩnh mịch đến phi thường, không âm thanh, chỉ có ánh sáng, đủ sức đưa con người đi vào tâm tưởng.

Cái ranh giới mỏng manh giữa sự hiện hữu và hư vô càng khiến cho không gian trở nên huyền ảo. Vầng trăng tỏa sáng lung linh quanh linh cữu của Người, cùng đồng hành với người trong thế giới siêu nhiên. Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác.

Trăng đối với Bác thân thiết như người bạn, người đồng chí trên mọi nẻo đường. Trong thơ Bác, ngoài tình yêu nước sâu nặng, tình thương người tha thiết, người chiến sĩ yêu nước Hồ Chí Minh đã hướng tâm hồn mình vào thiên nhiên tạo hóa với bao tình yêu thương nồng hậu. Hình ảnh vầng trăng, biểu tượng của thiên nhiên rộng lớn và tươi đẹp luôn ăm ắp trong thơ Người lúc nhàn hạ, thảnh thơi:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.

(Cảnh khuya – Hồ Chí Minh)

Hay những lúc trên chiến trường, việc quân khẩn cấp, trăng cũng tìm đến với Người mời gọi, rủ rê:

“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau”.

(Tin thắng trận – Hồ Chí Minh)

Ngay những lúc ngồi trong tù, trăng trở thành người bạn tâm tình, thấu hiểu và sẻ chia nỗi lòng của Bác:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

(Nhật kí trong tù – Hồ Chí Minh)

Rõ ràng dù trong bất kì hoàn cảnh nào, tình cảm của Bác đối với vầng trăng vẫn luôn tha thiết. Và cũng chính ánh trăng đẹp cũng tăng thêm niềm tin, niềm lạc quan của Bác đối với nhiệm vụ cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc đầy cam go. Cho nên nghĩ về Bác, Viễn Phương hình dung những chiếc bóng đang tỏa sáng Bác như vầng trăng dịu hiền phủ chiếu, ấp ủ Bác chắc hẳn xuất phát từ hiện thực ấy.

Với niềm cảm xúc chất ngất, Viễn Phương lại liên tưởng Bác là: “trời xanh”. Trong toàn bài thơ “Viếng Lăng Bác”, đây lần thứ hai Viễn Phương đã vận dụng hình ảnh ẩn dụ ấy mới tài tình, mới chính xác. Bởi vì, trong thế giới tự nhiên bao la vô tận, “trời xanh” có khả năng bao trùm vạn vật như muốn che chở, bảo vệ cho muôn vật, muôn loài. “Trời xanh” còn có công đem lại cho muôn loài ánh sáng và sức sống. Bác Hồ của chúng ta cũng vĩ đại như thế.

Cả cuộc đời Người, từ lúc còn là thanh niên trẻ cho đến khi da mồi tóc bạc, Bác hi sinh cả vì nền độc lập dân tộc Việt Nam thân yêu này. Biết bao năm bôn ba hải ngoại, biết bao lần gối tuyết nằm sương, bao phen bị giam cầm xiềng xích, Bác vẫn quyết định chịu đựng, vượt qua để ánh sáng cách mạng rọi soi khắp nhân dân, để đập tan mọi gông cùm khổ ải cho non sông Việt nam thống nhất mọi nhà. Cho nên việc nhà thơ ví Bác như “trời xanh” là thật đúng và mãi mãi đúng với dân tộc ta.

Tuy nhiên, khi đọc kĩ lại câu thơ: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”, ta nghe như có cái gì đó vừa chùng xuống, có gì làm nghèn nghẹn trong lòng ta. Cảm xúc ấy đã được chứng thực khi đọc đến câu thơ:

“Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Như vậy mặc dù dòng cảm xúc, sự liên tưởng của Viễn Phương đang thật dạt dào, phong phú, đang say sưa ngất với niềm sung sướng, tự hào niềm tôn kính dâng trào khi được ở bên Bác, thỏa tấm lòng “Miền nam mong Bác nỗi mong cha”. Thì giờ đây nhà thơ không thể tránh khỏi một sự thật đau lòng, một sự thật mà nhân dân cả nước Việt nam phải chịu đựng trong ngày 2/9/1969:

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”

(Bác ơi! – Tố Hữu)

Cảm giác ấy bất chợt ập đến khiến nhà thơ nghe “nhói ở trong tim”. Động từ “nhói” mang đậm phong cách Nam bộ. Đặt trong giọng thơ đầy xót xa, thương nhớ nghe gần gũi, chân thật đã miêu tả thật rõ nét cảm xúc đau đớn tột cùng của tác giả khi đứng trước hiện thực đau lòng: Bác đã ra đi mãi mãi. Và ý thơ ấy của Viễn Phương đã giúp ta hình dung hình ảnh nhà thơ đang đứng thật trang nghiêm, cúi đầu kính cẩn tưởng niệm Bác đã dành cho dân tộc thân yêu này bằng tấm lòng yêu thương, kính phục, tri ân thiết tha, sâu thẳm.

Thương yêu Bác thật nhiều mà gần gũi chẳng được bao nhiêu nên phút giây chia tay thật bùi ngùi lưu luyến. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”.

Vẫn với cách diễn đạt đậm chất Nam Bộ “thương trào nước mắt” cùng điệp ngữ “muốn làm” vận dụng như một điệp khúc, lại được dồn đặt lên đầu ba câu thơ liên tiếp, các câu thơ đã trở thành đỉnh cao của mạch cảm xúc, giúp ông gửi trọn mọi tâm tư tình cảm yêu thương, kính phục dành cho Bác. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.

Chính vì yêu thương, kính phục, thấy xót xa, bịn rịn không nỡ rời đi, nhà thơ đã ước nguyện làm “con chim” yêu thương “hót quanh lăng”, muốn làm “đóa hoa tỏa hương” tỏa hương quanh lăng, muốn “làm cây tre” trung hiếu trọn đời yêu thương tôn kính vị cha già của nhân dân.

Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng.

Nếu ở khổ thơ đầu là một hàng tre như những tầng lớp nhân dân đang quây quần bên Bác, cùng Bác sống, cùng Bác đấu tranh để gìn giữ cho nền hòa bình, độc lập của dân tộc thì khổ thơ cuối chỉ là “cây tre” biểu trưng cho nhà thơ, cho nhân cách nhà thơ, cho ý chí kiên trung, bất khuất của dân tộc.

Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta đối với Bác.

Ngày nay, yêu kính, nhớ ơn Bác, toàn dân, toàn Đảng ra sức bồi đắp, xây dựng, phát triển đất nước. Riêng học sinh chúng em luôn tâm niệm lời nhắn nhủ của Bác “Non sông Việt Nam có tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước đến đài vinh quang sánh vai với cường quốc năm châu được hay không chính nhờ phần lớn công học tập của các cháu” mà cố gắng chăm ngoan ra sức học tập, rèn luyện tốt nhân cách đạo đức, mai sau góp công sức nhỏ bé của mình vào việc xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước, đền đáp phần nào công lao vĩ đại của Bác.

Bằng những cảm xúc trào dâng, cách diễn đạt thật chân thật, tha thiết, với cái nhìn hình ảnh ẩn dụ đẹp đẽ, bài thơ “Viếng lăng Bác” nói chung, hai khổ thơ cuối nói riêng là tình cảm yêu thương, kính trọng của nhà thơ, cũng là của đồng bào cả nước đối với Bác.

Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ – biểu tượng vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.

Phân tích hai khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 2

“Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài văn xuất sắc được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình ghi lại tình cảm thành kính, sâu lắng của nhà thơ khi hòa vào dòng người đang vào viếng lăng Bác. Qua đó bài thơ được xem là tiếng nói nỗi niềm tâm sự của nhân dân dành cho Bác. Đặc biệt, những tình cảm ấy lại chan chứa và dạt vào ở hai khổ thơ cuối.

Hai khổ cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, réo rắt như tấm lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Hồ Chủ tịch. Bằng những ngôn từ ẩn dụ đặc sắc, từ ngữ bình dị mà giàu sức gợi, câu thơ đã khơi gợi trong lòng người đọc những rung động sâu sắc và đáng quý…

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

Xem Thêm : Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò (Sơ đồ tư duy)

Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà! Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình yên, Bác phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày, đến “cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên tiêu”…Tuy vậy, Bác chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì “trong tù không rượu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên, nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật sự ra đi mãi mãi.

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”

Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù lý trí vẫn luôn trấn an lòng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng. Một từ “nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lý lẽ, mọi lập luận lí trí. Bác như trời xanh, Bác là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời thường này. Mất Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được? Tổ quốc ta đã thật sự không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một cái gì đó thật vĩ đại, không thể xoá nhoà. Dù Bác ra đi thật sự rồi nhưng những điều Bác đã làm vẫn sẽ đọng lại trong tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn tồn tại trường kỳ trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.

Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xúc động:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim người. Một tiếng “thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác. Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt Nam, vô bờ bến và rất thật.

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre xanh xanh Việt Nam tỏa bóng mát dịu dàng quê hương của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính là nguyện ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để kết thúc, ngừng lặng hoàn toàn…

Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết theo thể tám chữ, trong đó có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể hiện cảm xúc thành kính của tác giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng thành kính với Bác. Giọng điệu của bài trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc.

Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất nước ta có hoà bình như ngày hôm nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, như vậy chúng ta cần phải biết xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Phân tích hai khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 3

Ngày 2/9/1969, Bác Hồ kính yêu đã vĩnh viễn ra đi, để lại muôn nỗi tiếc thương cho bao người dân Việt Nam. Nhiều bài thơ khóc Bác được các nhà thơ viết nên với tất cả lòng thành kính, yêu thương. Bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương dù ra đời rất muộn, tháng 4 – 1976, nhưng vẫn tạo ấn tượng mạnh trong lòng người đọc bởi tình cảm sâu lắng nhưng mãnh liệt của một đứa con miền Nam lần đầu tiên được thấy Bác trong lăng. Nhận xét về bài thơ, có ý kiến cho rằng: “Bài thơ có giọng điệu trang trọng, tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ bình dị mà cô đúc”. Qua việc tìm hiểu và phân tích hai khổ cuối của bài thơ, chúng ta sẽ làm sáng tỏ vấn đề này.

Ở khổ thơ thứ ba là những cảm xúc của tác giả khi đi vào trong lăng và đứng trước di hài của Bác, bao tình cảm nhớ thương chất chứa bao lâu bây giờ đã vỡ òa. Chính vì thế cho nên khi gặp hình bóng của Người thì trào dâng thổn thức. Hình ảnh Bác nằm yên trong lăng được diễn tả một cách xúc động qua những dòng thơ ở khổ thứ ba này:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Bác Hồ đang nằm đấy rất dịu hiền, nhân từ làm cho chúng ta cảm thấy rằng giống như Bác chỉ là đang ngủ một giấc ngủ yên, vẫn chưa đi xa và chưa rời khỏi thế gian này. Và khi ngẩng mặt lên chúng ta thấy trời xanh, chúng ta thấy Bác, Bác vẫn sống mãi cùng với dân tộc, cùng với cuộc đời. Cho dù biết vậy nhưng sao chúng ta vẫn nghe nhói ở trong tim, mắt ta vẫn đẫm lệ khi nhận ra rằng Bác đã không còn nữa. Khổ thơ thứ hai và thứ ba được liệt ra một hình ảnh về thiên nhiên vũ trụ như là mặt trời, trời xanh, vầng trăng được lồng vào nhau như để ca ngợi tầm vóc lớn lao của Người đồng thời thể hiện lòng kính yêu vô hạn của tác giả, của toàn thể nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.

Để ý chúng ta sẽ thấy câu “Con ở Miền Nam ra thăm lăng Bác” và cuối câu thơ cũng “mai về Miền Nam”, đó là giây phút chia tay bịn rịn, tâm trạng không muốn xa rời khi phải chia tay với Bác Hồ kính yêu, một tâm trạng lưu luyến, bùi ngùi và xúc động:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Tình yêu thương của tác giả đã làm nảy sinh biết bao ước muốn, đó là làm con chim cất tiếng hót, đó là làm đóa hoa tỏa hương đâu đây, đó là cây tre canh giấc ngủ yên lành cho Bác. Điệp từ “muốn làm” được nhắc lại ba lần trong câu thơ với những hình ảnh được xuất hiện cho ta thấy niềm khao khát mãnh liệt và cháy bỏng của nhà thơ muốn được gần Bác mãi mãi.

Bằng những tình cảm hết sức chân thành nhà thơ Viễn Phương đã viết bài “Viếng lăng Bác” như một bản tình ca sâu lắng để lại nhiều xúc cảm và ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Bài thơ không chỉ có giá trị hôm nay mà còn để lại mãi muôn đời sau.

Phân tích hai khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 4

Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, tác giả Viễn Phương có dịp ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bằng giọng điệu trang trọng và tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ bình dị mà cô đúc, bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác. Hai khổ thơ cuối thể hiện sâu sắc tình cảm ấy của nhà thơ.

Không quá cầu kỳ, Viễn Phương biểu đạt cảm xúc của mình một cách tự nhiên và chân thành. Bài thơ đi theo trình tự của một cuộc vào lăng viếng Bác, từ khi đứng trước lăng đến khi bước vào Lăng và trở ra về. Mở đầu là cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập trung ở ấn tượng đậm nét về hàng tre bên lăng gợi hình ảnh quê hương đất nước. Tiếp đó là cảm xúc trước hình ảnh dòng người như bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác. Xúc cảm và suy ngẫm về Bác được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: “mặt trời”, “vầng trăng”, “trời xanh”:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Với dòng cảm xúc dạt dào, nhà thơ Viễn Phương đã viết nên hai đoạn thơ đong đầy tình cảm tiếc nhớ khôn nguôi và lòng thành kính không chỉ của riêng mình mà còn của bao đứa con miền Nam khác. Hòa theo dòng người vào lăng viếng Bác, tác giả đã nhận ra bóng dáng quen thuộc của Người. Bác đang nằm đó, nghỉ ngơi sau một cuộc đời đầy gian lao, vất vả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Giờ đây, Người đang có những giây phút thật yên bình. Với phép ẩn dụ đầy tính biểu cảm, Viễn Phương đã vẽ nên hình ảnh vô cùng đẹp đẽ của vị lãnh tụ đang nghỉ ngơi giữa mênh mông ánh sáng của “vầng trăng sáng dịu hiền”.

Với Bác, trăng là bạn, là người thân, là đồng chí thủy chung, nghĩa tình. Vầng trăng ấy đã theo chân Bác vào nhà ngục Quảng Đông, cùng Bác thưởng dạo bước đêm Nguyên tiêu, hay nhẹ nhàng soi bóng cho giấc ngủ của Người: “Gối đầu yên giấc bên sông trăng nhòm”. Chỉ có thể bằng trí tưởng tượng, sự thấu hiểu và yêu quý những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì nhà thơ mới sáng tạo nên được những ảnh thơ đẹp như vậy.

Vũ trụ thì vĩnh hằng còn đời người ngắn ngủi. Trăng vẫn sáng ở trên trời nhưng Người đã ra đi. Vẫn nghĩa tình và thủy chung, trăng luôn kề cận bên Bác, không lúc nào rời xa. Bác đi vào bầu ánh sáng mênh mang của vũ trụ, trở về với nguyên thể tự nhiên nhưng hình ảnh của người mãi mãi khắc ghi trong lòng mọi người, tình cảm của Người mãi mãi ấm nồng trong trái tim nhân dân Việt Nam, tư tưởng của Người mãi mãi là nguồn ánh sáng soi đường dân tộc đi tới. Dẫu tin tưởng, nhưng trong dòng suy nghĩ ấy, nhà thơ vẫn không thể giấu được một nôi đau xót khôn cùng:

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Bác đã đi xa, để lại nỗi tiếc thương, đau xót vô ngần cho dân tộc. Nghĩ đến việc ấy, việc không còn gặp lại vị Cha già kính yêu, mấy ai không đau “nhói ở trong tim”. Chỉ một từ “nhói” thôi, nhà thơ đã cô đúc lại bao nỗi đau của nhân dân Việt Nam.

Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót. Nó chính là nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài thơ:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…

Nhịp thơ cũng là nhịp cảm xúc, tâm trạng của tác giả khi sắp phải xa Bác, không còn gặp lại Người. Nghĩ về điều ấy, bất giác nhà thơ thấy “thương trào nước mắt”. Chỉ qua một từ “trào” thật mạnh mẽ, sục sôi, nhà thơ đã ghi lại tấm lòng mình, để rồi viết nên nguyện ước của bao đứa con Việt Nam. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.

Bằng thủ pháp trùng điệp, qua điệp ngữ “muốn làm”, Viễn Phương đã gửi trọn bao nguyện ước thiết tha, chân thành của mình. Rất khiêm nhường ông chỉ xin được hóa thân thành “con chim” cất tiếng hót vui say mỗi sớm mỗi chiều quanh lăng, muốn làm đóa hoa góp hương thơm ngát quanh lăng, muốn làm cây tre trung hiếu đêm ngày đứng canh cho giấc ngủ của Người. Hình ảnh hàng tre lại đến, thật tự nhiên, nhuần nhị để khép bài thơ lại. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam đối với Bác.

Biết bao mong muốn với Bác, cũng chỉ xin làm những điều nhỏ ấy thôi. Như trong bài Bác ơi! Phan Thị Thanh Nhàn đã viết:

“Giếng đầy còn có khi vơi
Lòng con nhớ Bác khôn nguôi bao giờ”.

Hai khổ thơ cuối khép lại bài thơ nhưng vẫn tiếp tục mở ra một cõi suy ngẫm về cái đẹp đẽ, cái tinh túy, cái bất diệt của một con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chắc chắn rằng khi đọc “Viếng Lăng Bác“, nhất là hai đoạn thơ cuối, ta không chỉ cảm nhận được bằng ngôn ngữ văn chương mà còn bằng cảm giác của cả trái tim với Người. Đọc bài thơ để thêm tiếng lòng sâu sắc, yêu kính với con người vĩ đại, người cha già kính yêu của cả dân tộc.