Lươn châu âu sinh sản như thế nào

Cá chình Châu Âu (tên khoa học Anguilla anguilla), là một loài cá chình di cư. Cần phân biệt nhóm cá chình này (thuộc bộ Cá chình Anguilliformes) với lươn (thuộc bộ Lươn hay Cá mang liền Synbranchiformes). Chúng có thể sống đến 80 năm, chiều dài cơ thể khi trưởng thành trung bình từ 60–80 cm có khi lên đến 130 cm, cân nặng khoảng từ 1–2 kg. Cá chinh Châu âu được ghị nhận sinh sản tại vùng biển Sargasso (nằm giữa Bắc Đại Tây Dương). Khi sinh ra chỉ là một ấu trùng sau đó trôi dạt theo dòng hải lưu Gulf Stream khi đến gần thềm lục địa dọc theo bờ biển Châu âu ấu trùng nở thành con lươn thủy tinh trong suốt. Chúng tập trung sống gần cửa biển, một số tiếp tục di chuyển ngược dòng vào sâu trong đất liền để sinh sống một thời gian dài trong quá trình phát triển. Cá chình Châu âu chỉ sinh sản một lần trong đời, khi phát triển đến giai đoạn sinh sản Cá chinh Châu âu lại bơi ngược lại ra biển nơi chúng đã từng sinh ra (vùng biển Sargasso) để sinh sản rồi chết ở đó.

Thân hình thon dài, không có vảy. Mang mở nhỏ và thẳng đứng, bị hạn chế tới các bên. Hàm dưới hơi dài hơn và nhô ra. Vây lưng bắt nguồn xa sau vây ngực.

Chiều dài cơ thể khi trưởng thành trung bình: 150cm (cá đực), 130cm (cá cái). Trọng lượng tối đa từ 0.9 - 2kg. Tuổi cá trung bình lên tới 30 năm.

Phân bố

Cá chình Châu Âu thương phân bố tại các sống thuộc bắc đại Tây Dương, biển Bantic và biển Địa Trung Hải. 

Được đưa và Châu Á, Nam và Trung Mỹ. Nó cũng phân bố dọc theo vùng biển ven bờ của Châu Âu từ biển Đen đến biển Trắng.

Có ít nhất một nước đã báo cáo về ảnh hưởng sinh thái nghiêm trọng sau khi đưa loài này vào nuôi trồng.

Tập tính

Cá có tập tính sinh sống trong môi trường nước có nhiệt độ từ 0-30 độ C và điều kiện nhiệt độ tốt nhất là 20-25 độ.

Cá sống trong môi trường nước ngọt. Từ lúc nhỏ cho đến trưởng thành, khi đến cuối thời kì sinh sinh trưởng chúng di cư ra biển sâu, thành thục giới tính và  bắt đầu vào quá trình sinh sản.

Lươn châu âu sinh sản như thế nào

Cá Chình Châu Âu. Ảnh: shutterstock.com

Thời gian sống trong nước ngọt đối với cá đực từ 6-12 năm. Đối với cá cái từ 9-20 năm đối với cá cái.

Là loài sinh trưởng chậm, thức ăn của chúng thường là các loài động vật dưới nước như giun.

Sinh sản

Cá chình Châu Âu đẻ ở Đại Tây Dương (biển Sargasso). Mùa sinh sản của chúng thường vào cuối mùa đông và mùa xuân.

Cá chình bố mẹ sinh sản ở biển, khi sinh ra các ấu trùng trôi dạt theo dòng hải lưu khi đến gần các thềm lục địa dọc bờ biển Châu Âu, ấu trùng mới nở ra thành con non. 

Những con non khi nở ra thường trong suốt nên nó còn được gọi là lươn thủy tinh.  Thời gian sống của chúng tại bờ biển thường kéo dài khoảng 3 năm.

Cá con non thưởng sống gần cửa biển di chuyển ngược dòng, di chuyển vào đất liền để tiếp tục sinh sống trong quá trình phát triển.

Hiện trạng

Cá Chình Châu Âu là loài thịt ngon, có giá trị kinh tế cao bởi chúng được xem là một trong những món ăn đặc sản dành cho giới thượng lưu trên thị trưởng Châu Á như: Nhật Bản và Trung Quốc và loài cá này được cho rằng có thể giúp tăng cường sinh lý nên vì vậy chúng được săn bắt ráo riết và có nguy cơ bị tuyệt chủng.

Hiện nay, loài này đã được nuôi ở một số nước như: Na Uy, Đức, Đan Mạch, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Malaysia. Tại Việt Nam Cá Chình Châu Âu đã nhập giống vào nuôi ở khu vực Thủ Đức và Tp.HCM.

Các nhà khoa học đã làm sáng tỏ khả năng di cư của lươn từ các vùng cận nhiệt đới đến các con sông ở Châu Âu.

Sinh ra từ vùng biển Sargasso, nơi có dòng hải lưu Thái Bình Dương ở phía đông Bermuda, những con lươn Châu Âu sẽ di chuyển 4.000 dặm để đến các con sông nước ngọt ở Châu Âu. Hiện các nhà khoa học đã có thể trả lời câu hỏi đã có từ một thế kỷ nay, đó là làm cách nào mà các con lươn nhỏ này thực hiện một cuộc di cư băng qua đại dương rộng lớn như thế.

Chúng sử dụng GPS (Global positioning system - Hệ thống định vị toàn cầu). Nhưng không giống như ở xe hơi hay smartphone của chúng ta.

Theo một nghiên cứu được đăng trên tạp chí Current Biology, lươn Châu Âu có một loại GPS nội bộ hoặc hệ thống định vị toàn cầu được điều chỉnh theo từ trường của trái đất.

Nathan Putman, một nhà khoa học và là tác giả chính của nghiên cứu cho biết: “Với nghiên cứu này, lần đầu tiên chúng tôi đã cho thấy cách những con lươn thật sự sử dụng từ trường trái đất như thế nào để tự định hướng trong suốt cuộc hành trình dài trên đại dương”.

Lươn châu âu sinh sản như thế nào

 Một nhà khoa học đang có trên tay những con lươn con Châu Mỹ. Hầu như không thể phân biệt được lươn Châu Âu và lươn Châu Mỹ cùng được sinh ra ở biển Sargasso. Chúng thực hiện cuộc một di cư đường dài tương tự để đến các con sông nước ngọt ở Bắc Mỹ. Các nhà nghiên cứu về lươn Châu Âu lý luận rằng lươn Châu Mỹ cũng có thể điều chỉnh theo từ trường để hỗ trợ quá trình di chuyển.

Những phát hiện có thể giúp cải thiện việc quản lý các loài lươn nuôi thương mại quan trọng này cũng như những loài tương tự khác là lươn Nhật Bản. Tất cả các quần thể của các loài lươn này coi là đã cạn kiệt do áp lực khai thác, mất môi trường sống do những con đập cản trở đường đi, ô nhiễm và những thay đổi ở đại dương.

Những con lươn con đã rời nhà để đến dòng hải lưu Gulf Stream

Putman và một đội ngũ các nhà khoa học đã kiểm tra kỹ năng định hướng của lươn Châu Âu bằng cách đặt những con lươn con trong một phòng thí nghiệm với một loạt từ trường mô phỏng theo những điều kiện từ trường khác nhau đã được tìm thấy dọc theo đường di cư của chúng. Họ nhận thấy rằng sự định hướng của lươn khác nhau phụ thuộc vào các điều kiện từ trường. Nhưng trong mỗi trường hợp, các con lươn đều quay đầu hướng về nơi có dòng hải lưu Gulf Stream - một dòng chảy mạnh mẽ để đẩy những con lươn con này từ biển Sagasso hướng về Châu Âu.

Các loài lươn Châu Mỹ, Nhật, Châu Âu đã bị đánh bắt trong nhiều thế kỷ vì giá trị thương mại, giải trí và sinh kế. Lươn con vừa mới vào vùng nước ngọt có thể bán được với giá đáng kinh ngạc. Trong một vài năm, lươn được đánh bắt ở Maine có giá mỗi pound (khoảng 450 gam) là hơn 2.000 USD. Vào năm 2014, tổng số lươn thương mại cập cảng ở Mỹ được đánh giá xấp xỉ 9,8 triệu USD.

Nghiên cứu trước đó của Putman cho thấy nhiều loài động vật biển, như cá hồi Thái Bình Dương và rùa biển, sử dụng từ trường của trái đất như một bản đồ có quy mô lớn. Bằng cách nhận biết những tín hiệu môi trường gì mà các động vật sử dụng để điều chỉnh sự di chuyển của chúng, các nhà khoa học có thể dự đoán tốt hơn những thay đổi trong các tuyến di cư và phân bố của chúng. Nhiều nghiên cứu cũng có thể góp phần quản lý tốt hơn đối với các lĩnh vực nghề cá có liên quan đến các loài di cư như cá ngừ, cá cờ, cá kiếm và cá mập.