Hướng dẫn cách truyền dịch cho chó năm 2024
Truyền dịch, truyền nước cho chó là việc tiêm trực tiếp dung dịch thuốc hoặc truyền máu vào tĩnh mạch để phục hồi lượng máu đã mất hoặc cũng có thể truyền nước để bổ sung lượng nước đã mất cho cơ thể trong trường hợp chó bị bệnh. Đây được coi là cách đưa thuốc vào cơ thể hiệu quả nhất và nhanh nhất. Show
Dịch vụ trông thú cưng tại nhà PET Service HCMDịch tĩnh mạch được phân bố đều khắp cơ thể. Tác dụng nhanh hơn, mạnh hơn, chuyển hóa thuốc và tác dụng cũng ngắn hơn. So với tiêm bắp, phản ứng tại chỗ tiêm cũng nhẹ hơn. Chó không cảm thấy đau khi tiêm chất lỏng vào cơ. Ngoài ra, truyền dịch qua đường tĩnh mạch không ảnh hưởng đến đường tiêu hóa hay các cơ quan khác nên hiệu quả không bị giảm sút so với các phương pháp khác. Đối với các bệnh như tiêu chảy, sốt làm mất nước dẫn đến suy kiệt, thậm chí tử vong. Sau đó truyền nước giúp phục hồi cơ thể chó. Như vậy có thể thấy phương pháp truyền dịch, truyền nước có tác dụng rất lớn trong việc điều trị và phục hồi sức khỏe của chó. Làm thế nào để truyền chất lỏng và chất lỏng cho chó? Vị trí truyền dịch và truyền dịch thường là dưới da mắt cá trước hoặc cũng có thể chọn là tĩnh mạch khuỷu ngoài sau hoặc tĩnh mạch cảnh. Dịch vụ trông thú cưng tại nhà PET Service HCMTrước khi truyền dịch cần chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ như gạc, gạc, băng... Một người giữ yên chó. Con chó có thể nằm thẳng hoặc nằm nghiêng và để lộ da cho kim đâm vào. Một dây buộc tĩnh mạch nâng cao có thể được sử dụng để chèn kim chính xác. Sau khi kim được đưa vào tĩnh mạch, bạn có thể kiểm tra xem kim đã được đưa đúng vào tĩnh mạch hay chưa bằng cách hút nếu máu chảy ra từ ống kim, chứng tỏ kim đã vào đúng tĩnh mạch. Đối với việc truyền dịch, việc truyền nước cho chó trong suốt quá trình phải được giữ cố định và chó không được di chuyển. Ngoài ra, nên quan sát trong quá trình truyền dịch. Nếu bất thường, kim phải được rút ra ngay lập tức để xác minh. Trên đây chúng tôi vừa hướng dẫn cách cho chó uống chất lỏng và nước, phương pháp này cần được thực hiện đúng kỹ thuật và được thực hiện bởi những người có chuyên môn, kinh nghiệm. Do đó nếu muốn truyền dịch. Truyền nước cho chó hãy nhờ sự trợ giúp của các bác sỹ thú ý nhé. Truyền dịch là đưa vào cơ thể bệnh súc qua đường tĩnh mạch hoặc dưới da một khối lượng dung dịch với mục đích:
I. Những dung dịch hay dùng để truyền cho chó, mèo1. Dung dịch đẳng trương1.1 Dung dịch nước muối sinh lý (NaCl 0,9%)Dịch muối 0,9% hay dịch mặn, gồm nước và muối, dùng để bù dịch cho cơ thể khi mất nước như tiêu chảy, bỏng... NaCl 0,9 % là nước muối sinh lý, đẳng trương (có độ thẩm thấu bằng độ thẩm thấu trong mạch máu.
1.2 Ringer lactatĐặc điểm: vào cơ thể, lactat được gan chuyển thành bicarbonat và kiềm hóa máu do đó chỉnh được toan nhẹ. Truyền 100 ml sẽ tăng được 20 - 30 mL thể tích tuần hoàn, vì vậy cần truyền 1 lượng gấp 3 lần thể tích bị mất.
Dung dịch Glucose (dextrose) đẳng trương 50g/ 1000 mL (5%). Dịch 5% có nồng độ thẩm thấu bằng huyết tương nên có thể bù dịch khi cơ thể bị mất nước hay khi không cho uống được. 2. Dung dịch ưu trương2.1 Các loại dung dịch: NaCl 1,2 - 1,8- 3,6- 7,2- 10 và 20%.Trên thị trường có sẵn loại 10 - 20%, ống 10- 20 mL. Khi dùng, pha với glucose 5% để đạt nồng độ mong muốn. Đặc điểm:
2.2 Dung dịch Glucose ưu trương100g; 150g và 300g/ 1000 mL.Glucose ưu trương chứa nhiều glucose hơn, dùng để giải độc và nuôi ăn khi không ăn được bằng miệng.
Chú ý: Truyền chậm vào tĩnh mạch. Glucose huyết tăng phụ thuộc không những vào nồng độ dung dịch tiêm truyền mà còn vào tốc độ truyền và khả năng chuyển hóa của bệnh súc. Khi nuôi dưỡng bằng dịch truyền, cần phân phối liều đều trong ngày và giảm liều dần, tránh ngừng đột ngột dễ gây hạ đường huyết. Nhất là ở chó, mèo con. Dung dịch ưu trương có thể gây rối loạn thần kinh hoặc là do tăng áp lực thẩm thấu, hoặc là do tác dụng độc trực tiếp trên thần kinh II. Những lưu ý trước khi truyền dịch1. Những biến chứng có thể xảy ra khi truyền dịch
Ngay cả khi truyền dịch đúng chỉ định, bệnh súc vẫn có thể gặp một số nguy hiểm trong quá trình truyền: chỗ tiêm bị phù, đau sưng, viêm tĩnh mạch, rét run, mặt tái nhợt, khó thở, ho... 2. Những lưu ý khi truyền dịch cho chó, mèo
3. Tính toán liều lượng trước khi truyền dịch cho chó mèo3.1 Đối với mèoLượng dịch cần truyền/giờ(ml) = 70*√(√(〖(Trọng lượng cơ thể(Kg))〗^3 )) /24 3.2 Đối với chóLượng dịch cần truyền/giờ(ml) = 132*√(√(〖(Trọng lượng cơ thể(Kg))〗^3 )) /24 Trong đó: 70 và 132 là hằng số 4. Thao tác lấy vein trên chó, mèo để truyền dịchTruyền dịch thường được làm bởi BSTY. Ngoài thao tác thành thạo thì việc hiểu được nguyên lý trong truyền dịch chất là rất quan trọng, bởi nó quyết định đến hiệu quả của truyền dịch. BSTY này cũng truyền cho cún, BSTY kia cũng truyền cho cún, nhưng hiệu quả lại khác nhau là vì họ nắm rõ nguyên lý và kinh nghiệm không được như nhau. Cách lấy vein trên chóTrong truyền dịch phải làm tốt những vấn đề sau:
4.1 Chuẩn bị:
4.2 Thao tác:Thao tác truyền dịch cho cún ở tĩnh mạch chân có nhiều cách. Có 2 người sẽ làm rất thuận lợi. Nhưng nếu chỉ 1 mình thì cũng phải làm thật tốt. Dưới đây là làm 1 người. Một tay bắt ven một tay đâm kim: Vd chân trước, thì bạn dùng 1 tay này, sử dụng 2 ngón trỏ+giữa giử phía sau khủy chân cún, ngón nhẫn đỡ phía dưới khủy và ngón cái tỳ lên ven để chặn dòng chảy về tim, nhớ tỳ vặn ngón cái qua một bên để ven được thẳng và căng. Khi đó ven sẽ nỗi lên và chân của cún đã bị ta cố định bởi 1 bàn tay của ta. (Nếu làm chân sau thì phải dùng dây cố định bàn chân cún vào điểm cố định nào đó rồi thao tác nếu không cún sẽ rụt chân lại khi đâm kim). Bàn tay còn lại dùng bông cồn 70 độ ướt chà qua chà lại sát trùng, dùng tay bóp bóp bàn chân để máu dồn vào tĩnh mạch nhanh hơn--> lông sẽ rạp xuống và cũng kích thích ven nỗi lên mà không cần phải cắt lông. Chọc kim dọc theo tĩnh mạch sao cho toàn bộ chiều dài kim nằm gọn trong lòng mạch để khi cún nếu có zãy zụa thì kim vẫn không xuyên tiếp được hoặc có trụt lui một chút cũng ko sao. Đâm chính xác thì máu sẽ chảy ngược ra dây truyền một ít (kiểm tra bóp bóp dây, máu thụt ra thụt vào). Mở khóa (trước khi mở khóa phải mở garô). Chú ý:
III. Tác dụng phụ của các dung dịch truyền tĩnh mạch1. Tác dụng phụ chung1.1. Thừa thể tíchNguy cơ này có thể gặp cả dịch tinh thể cũng như dung dịch keo và có thể làm thương tổn chức năng phổi. Đối với phổi lành, thì không làm thay đổi màng phế nang, ngưỡng xảy ra phù phổi thấp, nếu áp lực keo thấp. Khi thể tích tuần hoàn giảm nặng, hay có bệnh lý tim mạch thì biến chứng phù phổi có thể xảy ra trong quá trình truyền dịch và nếu sử dụng dung dịch có nồng độ cao thì gia tăng nguy cơ thừa thể tích tuần hoàn cũng như nguy cơ mất nước của khu vực khoảng gian bào. 1.2. Hoà loãng máuSử dụng quá mức dịch truyền không có nguồn gốc từ sản phẩm máu sẽ tạo ra tình trạng hoà loãng máu với giảm hématocrite và những yếu tố đông máu. Dung dịch tinh thể và dung dịch keo truyền một thể tích lớn có thể gặp hậu quả này đối với quá trình đông máu. 2. Tác dụng phụ đặc thù2.1 Tác dụng trên quá trình đông máuAlbumin là một dung dịch được đánh giá là một dung dịch trung tính đối với đông máu, ngoài hậu quả là hoà loãng máu và thu hút ion ca++. Tuy nhiên một nghiên cứu in vivo tiết lộ rằng có đến 20% gặp tình trạng tăng đông với albumin 4%. Dextran và đặc biệt dextran có trọng lượng phân tử cao làm kéo dài thời gian chảy máu và làm mềm hoá cục máu đông với liều cao hơn 1,5g/kg/ngày. Những tác dụng phụ này một phân do làm giảm yếu tố đông máu VIIIc và yếu tố von Willbrand (vWF) với sự làm giảm kết dính tiểu cầu, mặt khác làm thay đổi quá trình polyme hoá sợi fibrin. Sự thay đổi này giống như sự thay đổi hay gặp trong hội chứng Willebran type I. Điều này biện minh cho sự chống chỉ định truyền dung dịch này ở những trường hợp rối loạn đông máu và giảm tiểu cầu và cũng thận trọng trong trường hợp có dùng thuốc chống đông kết hợp Gelatine làm giảm kết tụ tiểu cầu gây ra bởi ristocétine, gélatine cố định yếu tố von Willebran làm thay đổi tỉ lệ vWF/ GPIb. Tác dụng này càng rõ đối với gélatine có cầu nối urê (GPU). Những dung dịch này cũng làm giảm sự tạo thành cục máu đông và giảm tổng hợp thrombin. Tuy nhiên, trên lâm sàng những hậu quả này hình như cũng không phổ biến Các hydroxyethylAmidon (HEA) gây ra các biến chứng xuất huyết là hiếm gặp, nhưng khi xảy ra thường là rất nặng, biến chứng này là do nó làm giảm yếu tố VIII, vWF và làm giảm quá trình polyme hoá cục máu đông để hình thành fibrin, kéo dài thời gian chảy máu, giảm thời gian của thrombin và nồng độ fibrinogène trong huyết tương. Giảm tỉ lệ các yếu tố VIII và yếu tố vWF có lẽ do sự thanh thải nhanh của phức hợp này mà nó gắn với các phân tử HEA trong tuần hoàn. Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng sự cố định của phức hợp Willebrand trên những phân tử HEA là tương ứng với số lượng phân tử có trong tuần hoàn. Trọng lượng phân tử, tỉ lệ thay thế phân tử, và tỉ lệ C2/C6 của các HEA càng cao thì các phân tử này hiện diện và kéo dài trong lòng mạch càng lâu. Tác động của các HEA với phức hợp Willebrand càng lớn khi nó có trọng lượng phân tử cao in vivo so với các HEA có trọng lượng phân tử thấp, điều đó khuyến cáo không nên sử dụng số lượng lớn các phân tử HEA có trọng lượng phân tử thấp. Ở Pháp gần đây công ty bảo hiểm các sản phẩm y tế đã xác định thể thức sử dụng các dung dịch HEA như sau: Đối với dung dịch HEA liều sử dụng phải giới hạn 33ml/kg/ngày và thời gian sử dụng dưới 4 ngày. Liều tối đa là ≤ 80ml/kg/ngày. Trong thời gian sử dụng phải theo dõi chức năng đông máu bằng cách đo thời gian cephaline hoạt hoá, thời gian của yếu tố ristocétine và yếu tố VIIIc được đề nghị. Việc theo dõi này càng được chú ý hơn đối với các trường hợp có điều trị các loại thuốc mà nó có tác động lên sự cầm máu và những người có nhóm máu O, với lý do là những người này có tỉ lệ yếu tố Willebrand thấp. 2.2. Nguy cơ dị ứngĐối với Albumin biến chứng phản ứng dị ứng của albumin là 0,0011%/lọ và 0,0099 %/bệnh nhân, những con số này thấp hơn so với gélatine và dextran, nhưng đáng kể so với các dung dịch HEA. Những phản ứng gây sốt, run lạnh cũng được mô tả như là tác dụng phụ, vì sự hiện diện của nội độc tố vi khuẩn không phát hiện được bởi test vi khuẩn, nhưng cũng không tương ứng với một phản ứng của dạng phản vệ. Với dextran cơ chế của phản ứng dị ứng đã được biết rõ. Những phản ứng dị ứng là loại phản vệ đối với dextran có trọng lượng phân tử cao, nhưng tất cả các loại dextran cũng có thể gây phản ứng phản vệ dạng kháng nguyên - kháng thể (kháng thể được hình thành từ các vi khuẩn có trong đường tiêu hoá hay sau khi đã dùng những dextran có trong thực phẩm) tạo ra các phức hợp miễn dịch và hoạt hoá bổ thể. Tần suất của phản ứng này là 1,3 (13/100.000/lọ dung dịch) và tần suất xảy ra đối với bệnh nhân là 1%. Để làm giảm biến chứng này người ta khuyến cáo nên tiêm phòng một cách hệ thống 20ml dextran 1000daltons (Promit) hai phút trước khi truyền dextran và hầu như loại bỏ hoàn toàn những trường hợp phản ứng nặng. Với lý do này dextran chống chỉ định ở phụ nữ mang thai. Đối với gélatine nguy cơ phản ứng dị ứng là 6 lần cao hơn so với Albumine và HEA, cũng đáng kể so với dextran. Cơ chế của phản ứng dị ứng vẫn chưa được biết rõ. Phản ứng dị ứng xảy ra càng cao với gélatine có cầu nối urê (GPU). Đối với HEA dung nạp tốt hơn với miễn dịch dị ứng. Tuy nhiên người ta cũng đã mô tả gặp một số trường hợp phản ứng rất nặng mà sinh bệnh lý vẫn còn chưa được biết rõ. Những sai lầm đánh giá hệ nhóm máu Rhésus có thể xảy ra khi có hiện diện gélatine, cũng như khó phân tích nhóm máu khi có hiện diện HEA, vì vậy phải định nhóm máu trước khi chỉ định truyền các loại dung dịch này. |