Đánh giá tình hình thực hiện bđkh năm 2024

(TN&MT) - Bộ TN&MT vừa ban hành Văn bản hợp nhất số 13/VBHN-BTNMT quy định về đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và đánh giá khí hậu quốc gia.

Văn bản này hợp nhất Thông tư số 08/2016/TT-BTNMT quy định về đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và đánh giá khí hậu quốc gia và Thông tư số 01/2022/TT-BTNMT quy định chi tiết thi hành Luật Bảo vệ môi trường về ứng phó với biến đổi khí hậu.

Đánh giá tình hình thực hiện bđkh năm 2024
Việc đánh giá tác động của biến đổi khí hậu được tiến hành song song với đánh giá môi trường chiến lược

So với Thông tư số 08/2016/TT-BTNMT, Thông tư hợp nhất đã bãi bỏ Điều 5 về đánh giá tác động của biến đổi khí hậu. Cơ quan được giao nhiệm vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của Bộ, ngành, địa phương thuộc trường hợp phải thực hiện đánh giá môi trường chiến lược có trách nhiệm đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, đánh giá các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ với biến đổi khí hậu.

Việc đánh giá bao gồm đánh giá thực trạng (ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân và giải pháp khắc phục) và đánh giá hiệu quả của các giải pháp này với các hoạt động kinh tế - xã hội của ngành, địa phương trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.

Trình tự đánh giá được tiến hành theo các bước: Phân tích, lựa chọn các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ với biến đổi khí hậu cần đánh giá liên quan đến phạm vi của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; phân tích, lựa chọn công cụ đánh giá, chỉ số đánh giá, phương pháp đánh giá; đánh giá thực trạng các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ với biến đổi khí hậu liên quan đến phạm vi của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; đánh giá hiệu quả của các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ với biến đổi khí hậu tới các hoạt động kinh tế - xã hội của ngành, địa phương; tổng hợp báo cáo đánh giá.

Thông tư cũng quy định về việc đánh giá khí hậu quốc gia thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Luật Khí tượng thủy văn. Theo đó, các nội dung đánh giá gồm: Đặc điểm của khí hậu Việt Nam đến thời điểm đánh giá; diễn biến của nhiệt độ, lượng mưa, bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn, nước biển dâng, xâm nhập mặn và các hiện tượng khí hậu cực đoan như lũ, lũ quét, nắng nóng, hạn hán, rét đậm, rét hại, mưa đá, sương muối.

Đánh giá mức độ dao động của các yếu tố khí hậu, cực trị khí hậu, các hiện tượng khí hậu cực đoan; đánh giá mức độ biến đổi của các yếu tố khí hậu và các cực trị khí hậu; những điểm khác biệt so với trung bình khí hậu toàn cầu và báo cáo đánh giá kỳ trước. Đánh giá mức độ phù hợp của kịch bản biến đổi khí hậu so với diễn biến thực tế của khí hậu trong kỳ đánh giá; mức độ sử dụng kịch bản biến đổi khí hậu đối với hoạt động thích ứng và giảm nhẹ với biến đổi khí hậu trong kỳ đánh giá.

Kỳ đánh giá khí hậu quốc gia là 10 năm và có thể được điều chỉnh, bổ sung khi cần thiết.

Kết quả đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, đánh giá các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ với biến đổi khí hậu được thể hiện đầy đủ trong báo cáo đánh giá tác động môi trường chiến lược của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch theo quy định của Luật Khí tượng thủy văn.

Theo các chuyên gia, nhà khoa học, Việt Nam cần chú trọng xây dựng, áp dụng khung chính sách về khuyến khích và ưu đãi đầu tư, cơ chế và các công cụ tài chính nhằm khơi thông nguồn lực xã hội, huy động hiệu quả nguồn lực tài chính của khối doanh nghiệp cho ứng phó với biến đổi khí hậu.

VIỆT NAM XÁC ĐỊNH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LÀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM, CẤP BÁCH

Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất thế giới trước những tác động bất lợi của biến đổi khí hậu (BĐKH). Thực tế này đe dọa những nỗ lực tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững trong dài hạn. Tính dễ tổn thương của Việt Nam gia tăng do nước ta chịu nhiều rủi ro thiên tai, do vị trí địa lý, mô hình phát triển kinh tế và các vùng đồng bằng, ven biển với mật độ dân cư cao cũng như các nhóm dân cư là người dân tộc thiểu số tại các vùng cao, hẻo lánh. Nhiệt độ tăng, hạn hán và lũ lụt ngày càng trầm trọng, mực nước biển dâng và tần suất xuất hiện và cường độ bão tăng đe dọa tới an ninh lương thực, sinh kế và cuộc sống của hàng triệu người dân Việt Nam.

Đánh giá tình hình thực hiện bđkh năm 2024
Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất thế giới trước những tác động bất lợi của BĐKH nên thường xảy ra lũ lụt, sạt lở đất.. (ảnh minh họa: Internet).

Để vượt qua những thách thức từ BĐKH trong nước cũng như tham gia vào nỗ lực chung toàn cầu về ứng phó với BĐKH, Chính phủ Việt Nam đã ký Công ước khí hậu năm 1992, phê chuẩn năm 1994; ký Nghị định thư Kyoto năm 1998, phê chuẩn năm 2002; phê duyệt Thỏa thuận Paris về BĐKH năm 2016.

Triển khai quy định quốc tế và tích cực chủ động ứng phó với BĐKH, trong thời gian qua, hàng loạt các chính sách về thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính đã được ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả.

Về phía Quốc hội cũng đã thông qua nhiều Luật có liên quan đến thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó có Luật Bảo vệ môi trường (2022); Luật Trồng trọt (2018); Luật Chăn nuôi (2018); Luật Đa dạng Sinh học (2018); Luật Lâm nghiệp (2017); Luật Thủy sản (2017); Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (2015); Luật Khí tượng thủy văn (2015); Luật Tài nguyên nước (2014); Luật Phòng, chống thiên tai (2013).

Tuy nhiên, với đặc thù là nước đang phát triển và chịu tác động nghiêm trọng do thiên tai và BĐKH như Việt Nam thì các hoạt động thích ứng với thiên tai và BĐKH là rất quan trọng nên cần có sự quan tâm đặc biệt, đưa ra các chính sách, sự đầu tư bài bản thì mới có thể giảm nhẹ được những thiệt hại do BĐKH gây ra.

Tạo thuận lợi để thu hút các dòng vốn đầu tư, các dòng tài chính xanh vào ứng phó với biến đổi khí hậu

Để ứng phó hiệu quả với BĐKH, theo các đại biểu, chuyên gia, nhà khoa học, bên cạnh thực hiện các chính sách, Việt Nam cần triển khai các giải pháp kịp thời để thu hút các dòng vốn đầu tư, các dòng tài chính xanh vào triển khai các nhiệm vụ đặt ra.

TS.Nguyễn Đăng Mậu-Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) nêu quan điểm: Các giải pháp công trình trong thích ứng với BĐKH thường đòi hỏi nguồn kinh phí rất lớn. Trong khi nguồn lực tài chính cho ứng phó với BĐKH còn hạn chế, các hoạt động thích ứng thường khó thu hút sự tham gia của cộng đồng cư dân, tổ chức xã hội và khối tư nhân. Do vậy, để có cơ sở tin cậy cho việc ban hành chính sách thích ứng với BĐKH hiệu quả, tránh dàn trải và lãng phí, cần phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu đánh giá tác động, rủi ro và tổn thương do BĐKH. Thực tế, tại các quốc gia như Hàn Quốc và Trung Quốc, công tác đánh giá tác động, rủi ro và tổn thương do BĐKH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác nghiên cứu ban hành văn bản luật về BĐKH.

Đánh giá tình hình thực hiện bđkh năm 2024
TS.Nguyễn Đăng Mậu-Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường).

Ngoài ra, Việt Nam cần chú trọng xây dựng, áp dụng khung chính sách về khuyến khích và ưu đãi đầu tư, cơ chế và các công cụ tài chính nhằm khơi thông nguồn lực xã hội, huy động hiệu quả nguồn lực tài chính của khối doanh nghiệp cho ứng phó BĐKH; xác định các chương trình, dự án, nhiệm vụ mang lại hiệu quả kinh tế cao và đóng góp thực hiện mục tiêu thích ứng với BĐKH, giảm phát thải khí nhà kính để doanh nghiệp thực hiện thông qua các hình thức hợp tác giữa Nhà nước và doanh nghiệp, giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; ưu tiên các dự án áp dụng công nghệ, giải pháp chuyển đổi sử dụng từ năng lượng hoá thạch sang năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu suất năng lượng.

Mặt khác, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách để tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục, tạo thuận lợi để thu hút các dòng vốn đầu tư, các dòng tài chính xanh của các định chế tài chính, tổ chức tín dụng quốc tế vào Việt Nam; thu hút các tập đoàn quốc tế, tập đoàn đa quốc gia vào Việt Nam hợp tác và triển khai các dự án, đặc biệt là các dự án chuyển đổi sản xuất và tiêu thụ năng lượng thấp; ưu tiên sử dụng các nguồn vốn vay ưu đãi, ODA, hỗ trợ kỹ thuật của các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ cho ứng phó với BĐKH; xây dựng và triển khai nhân rộng các mô hình hợp tác đầu tư trong các lĩnh vực.

Đánh giá tình hình thực hiện bđkh năm 2024
Ông Phạm Vĩnh Phong-Trưởng phòng Kế hoạch tài chính, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) nêu quan điểm về thu hút nguồn lực đầu tư cho việc ứng phó với BĐKH.

Đề cập về nguồn lực đầu tư cho việc ứng phó với BĐKH, ông Phạm Vĩnh Phong-Trưởng phòng Kế hoạch tài chính, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng, Chính phủ cần xem xét, phê duyệt và bố trí nguồn lực kịp thời (ngay từ năm đầu kỳ Kế hoạch 5 năm 2026 - 2030) để triển khai các chương trình đầu tư công có quy mô quốc gia, có tính chất trọng điểm về BĐKH giai đoạn 2026 – 2030. Việc làm này nhằm huy động hệ thống chính trị chủ động tham gia ứng phó với biến đổi khí hậu, góp thần thực hiện các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, bao gồm cam kết tại COP26 về giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Bên cạnh đó, Quốc hội, Chính phủ cần chỉ đạo các cơ quan chức năng hoàn thiện, đồng bộ hóa chính sách, pháp luật nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh, bao gồm phát triển rừng ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển năng lượng tái tạo, huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế đầu tư cho ứng phó với BĐKH, tăng trưởng xanh. Ngoài ra, thúc đẩy tăng cường ngoại giao nghị viện nhằm huy động nguồn lực tài chính, kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ từ các quốc gia phát triển, các tổ chức quốc tế, các định chế tài chính cho ứng phó với BĐKH.

Với những ý kiến đóng góp, đề xuất của các đại biểu, chuyên gia, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy khẳng định: Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định quan điểm nhất quán, chủ động ứng phó với BĐKH là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Chủ động ứng phó với BĐKH trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa bảo đảm lợi ích lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản. Chủ động ứng phó với BĐKH cũng vừa bảo đảm toàn diện, vừa phải có trọng tâm, trọng điểm; có bước đi phù hợp trong từng giai đoạn; dựa vào nội lực là chính, đồng thời phát huy hiệu quả nguồn lực hỗ trợ và kinh nghiệm quốc tế.

Đánh giá tình hình thực hiện bđkh năm 2024
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy.

Nhiều giải pháp nhằm tổ chức thực hiện ứng phó với BĐKH hiệu quả trong thời gian tới, trong đó, tập trung nguồn lực triển khai thực hiện tốt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050; Tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách pháp luật đã ban hành về quản lý phát thải khí nhà kính; Rà soát, xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia về BĐKH.

Thông qua những tham vấn, kiến nghị của các đại biểu, chuyên gia, Ủy ban ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường sẽ nghiên cứu, tiếp thu, tiếp tục bổ sung các căn cứ khoa học và thực tiễn vững chắc để hoàn thiện báo cáo giám sát về BĐKH trong thời gian tới; đồng thời tham mưu việc rà soát, hoàn thiện thể chế pháp luật, nhất là các luật, nghị quyết của Quốc hội và tăng cường giám sát của Quốc hội đối với các Bộ, ngành của Chính phủ trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước về ứng phó với BĐKH./.