Công hầu khanh tướng là gì

Ngô Thì Nhậm xuất thân trong một gia đình danh gia vọng tộc ở Bắc Hà, là con của Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai, ngày nay thuộc huyện Thanh Trì, TP Hà Nội.

Từ nhỏ ông nổi tiếng thông minh, học giỏi và sớm có những công trình về lịch sử. Năm 1768, ông đỗ giải nguyên, rồi tiến sỹ tam giáp năm 1775. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan ở bộ Hộ dưới triều Lê – Trịnh và được chúa Trịnh Sâm rất quý mến. Năm 1778, ông làm Đốc đồng ở Kinh Bắc và Thái Nguyên.

Năm 1788, khi Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, ra chiếu "cầu hiền", Ngô Thì Nhậm đã đầu quân cho nhà Tây Sơn. Sử cũ viết khi được danh sỹ Bắc hà này, Nguyễn Huệ rất mừng mà rằng: "Thật là trời để dành ông cho ta vậy" và phong cho ông giữ chức Tả thị lang bộ Lại, sau đó thăng làm thượng thư bộ Lại.

Cuối năm Mậu Thân (1788), khi 29 vạn quân Thanh vào nước ta theo lời cầu cứu của Lê Chiêu Thống với danh nghĩa "phù Lê diệt Tây Sơn", Ngô Thì Nhậm đã hiến kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp- Biện Sơn (Ninh Bình), góp phần làm nên chiến thắng của nhà Tây Sơn.

Năm 1790, vua Quang Trung giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ Thượng thư. Tuy làm việc ở bộ Binh nhưng Thì Nhậm chính là người chủ trì về các chính sách và giao dịch với Trung Hoa. Ông là người đứng đầu, một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa.

Sau khi vua Quang Trung mất, ông không được tin dùng và quay về nghiên cứu Phật học.

Năm 1803, Ngô Thì Nhậm và một số quan lại triều Tây Sơn bị đánh bằng roi ở Văn Miếu nhưng do có mâu thuẫn với Đặng Trần Thường nên người này đã tẩm thuốc độc vào roi. Sau trận đòn, về nhà Ngô Thì Nhậm chết.

Vế đối để đời và cái chết tức tưởi

Tương truyền Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường có quen biết với nhau. Lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử nhưng không được, cộng với những mâu thuẫn trước kia nên từ đó căm giận, nhất quyết trả thù. Đặng Trần Thường vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh.

Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, các võ tướng và một số quan văn bị giải về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu, trong số đó có Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm. Chủ trì cuộc phạt đánh đòn đó lại là Đặng Trần Thường.

Vốn có thù riêng, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:

"Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai".

(Vế đối hiểm hóc vì có 5 chữ ai và có chữ trần là tên đệm của Đặng Trần Thường).

Ngô Thì Nhậm khảng khái đáp:

"Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế".

(Vế đối lại cũng có 5 chữ thế, nói lên được hoàn cảnh và khí phách của người anh hùng. Và vế đối cũng có chữ thời là tên đệm của Ngô Thời Nhậm).

Hai câu đối nhau chan chát, cực kỳ chỉnh không sai trật một ly. Quả là lời lẽ và từ ngữ của bậc quốc sĩ, hào khí ngất trời.

Bên cạnh đó, cũng có thuyết nói rằng, nguyên câu đối lại của Ngô Thì Nhậm là:

"Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, dù thời thế, thế nào cũng thế".

hoặc là:

"Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế nào vẫn thế".

Nhưng dù là thuyết nào thì cũng nói lên được hào khí của Ngô Thì Nhậm. Ngược lại, nghe xong câu đối, Đặng Trần Thường bắt ông phải sửa lại "thế đành theo thế" (hay thế thời theo thế hoặc là thế thì phải thế) nhưng Ngô Thì Nhậm dửng dưng không nói lại. Thường tức giận sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông.

Công hầu khanh tướng là gì

Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc nên còn sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào tạng phủ, biết mình không qua khỏi, trước khi qua đời ông có làm bài thơ gửi tặng Đặng Trần Thường như sau:

"Ai tai Đặng Trần Thường

Chân như yến xử đường

Vị Ương cung cố sự

Diệc nhĩ thị thu trường".

(Nghĩa là: Thương thay Đặng Trần Thường, quyền thế lắm đấy nhưng như chim yến làm tổ trong nhà sắp cháy rồi tai ương sẽ đến. Gi ống như Hàn Tín giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang rồi bị Cao Tổ giết ở Vị Ương. Kết cục của ngươi cũng thế).

Quả nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Thường bị Gia Long xử tử. Xét cho cùng thì Nhậm và Thường đều là những sỹ phu Bắc hà lỗi lạc thời bấy giờ, chỉ là "vòng trần ai, ai dễ biết ai!".

Đất Việt quả thật là nhiều quý địa. Chỉ tính từ Ninh Bình trở ra mà đã có tới 27 ngôi đất kết Đế vương, hơn 2.000 ngôi kết công hầu khanh tướng. Ngày nay lãnh thổ nước ta đã vượt qua Ninh Bình rất xa vào phía Nam với một đại cán long nữa là dãy Trường Sơn thì hẳn là phải thêm hàng ngàn ngôi đất quý nữa.

Mặc dù bị Cao Biền trấn yểm, khắp nước Việt Nam vẫn còn hàng ngàn ngôi đất kết phát có thể sản sinh ra nhân tài anh kiệt xuất chúng.

Đất kết là khái niệm để chỉ nơi có sinh khí tụ lại trong khoa phong thủy. Người xưa quan niệm ở những nơi có đất kết, nếu đặt tro cốt của ông bà, tổ tiên xuống đó thì do tú khí của đất đai, tro cốt sẽ lâu mục nát, do đó sẽ phát phúc cho con cháu.

Mức độ kết phát của đất tới đâu lại tùy thuộc vào các yếu tố tổng thể của cả cuộc đất. Có đất phát giàu có tiền tài, có đất phát quan tước công hầu khanh tướng và cao nhất là đất phát vương giả. Trong phần địa đạo diễn ca, cụ Tả Ao – người được xem là thánh địa lý của Việt Nam mô tả về huyệt đất phát quan:

"Muốn cho con cháu nên quan

Thì tìm Thiên mã phương Nam ứng chầu

Muốn cho kế thế công hầu

Thì tìm chiêng trống dàn chầu hai bên"

Còn đất phát đến vương giả thì cụ nói:

“Ngũ tinh cách tú chiều nguyên

Kim Mộc Thủy Hỏa bốn bên loan hoàn

Thổ tinh kết huyệt trung ương

Ấy đất sinh Thánh sinh Vương đời đời”

Là mảnh đất phát tích của khoa Địa lý Phong thủy, các vua chúa Trung Quốc rất trọng vọng khoa này. Lý luận phong thủy được họ đem áp dụng cả vào trong việc ngoại trị. Một trong những ví dụ điển hình là việc vua Đường sai Cao Biền sang trấn yểm các long mạch của nước ta.

Ngược dòng lịch sử, nước Việt ta từ đầu công nguyên cho đến đầu thế kỷ 10 nằm dưới ách đô hộ của người Hán. Thời bấy giờ Trung Quốc chia nước ta thành quận huyện và phái quan lại người Hán sang cai trị. Tuy nhiên, người Việt ta không chịu khuất phục mà luôn luôn tìm cách nổi dậy giành độc lập.

Vua chúa Trung Quốc tin rằng sở dĩ người Việt không chịu khuất phục mà liên tiếp nổi dậy là vì đất nước ta có nhiều huyệt đất kết nên sinh ra nhiều anh hùng. Để triệt tận gốc mầm mống chống đối, các triều đình Trung Quốc đã nghĩ đến chuyện triệt âm phần bằng khoa Địa lý Phong thủy. Đó chính là sứ mệnh mà Đường Trung Tông giao phó cho Cao Biền khi phái ông này sang làm quan cai trị ở bên nước ta.

Nội dung sự việc được tập Phong thủy địa lý Tả Ao – Địa lý vi sư pháp của Vương Thị Nhị Mười nói chi tiết: “Thời vua Đường Trung Tông đổi tên nước ta là An Nam đô hộ phủ và phong Cao Biền làm An Nam đô hộ sứ sang cai trị.

Trước khi Cao Biền sang nhậm chức, nhà vua cho triệu vào ngự điện và nói: Khanh học địa lý tối vi tinh diệu, trẫm nghe An Nam có nhiều quý địa, kết phát tới Thiên tử, sản xuất ra nhiều nhân tài, anh kiệt nên luôn luôn nổi lên chống đối. Qua đó khanh nên tường suy phong thủy, kiến lãm sơn xuyên và làm tờ biểu tấu kèm theo lời diễn ca các kiểu đất bên An Nam gửi ngay về cho trấm xem trước rồi ở bên đó khanh đem tài kinh luân, đoạt thần công, cải thiên mệnh, trấn áp các kiểu đất lớn đi, đó là cách nhổ cỏ thì nhổ cả gốc, để tránh hậu hoạn sau này”.

Cao Biền nhận lệnh sang nước ta liền tập trung đi xem xét các cuộc đất lớn nhỏ. Dân gian nói rằng Cao Biền ngày ngày cưỡi chim thần đi xem xét phong thủy, tài liệu nói trên của Vương Thị Nhị Mười thì nói Cao Biền dùng gỗ chế một cái diều rồi ngồi lên. Nhìn chung đó chỉ là những chi tiết làm tăng thêm sự thần bí cho nhân vật Cao Biền.

Tuy nhiên việc Cao Biền nhận lệnh trấn yểm phong thủy nước ta là có thật. Nó thể hiện qua một tập sách mang tên “Cao Biền địa lý tấu thư kiểu tự”. Tập sách này, theo như tài liệu của Vương Thị Nhị Mười đã nói ở trên thì năm 1427 Lê Lợi công phá thành Đông Quan bắt được Hoàng Phúc – Thượng thư bộ Công của nhà Minh nên thu được.

Sở dĩ Hoàng Phúc có nó là do vua Minh trao cho Y với nhiệm vụ xét duyệt lại xem còn huyệt lớn nào mà Cao Biền chưa yểm thì yểm nốt. Âm mưu của nhà Minh là hòng làm cho Đại Việt không thể nào sản sinh ra được những thế hệ như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo – những anh hùng đã gây khó khăn cho họ thời trước, để Đại Việt lại quay về thời là quận huyện của Tàu như mấy trăm năm trước.

Công hầu khanh tướng là gì
Cao Biền cưỡi diều đi xem long mạch - Ảnh Internet

Tập Cao Biền địa lý tấu thư kiểu tự này nói đến 632 huyệt chính cùng 1517 huyệt bàng từ Ninh Bình trở ra (thời Đường, lãnh thổ nước ta chỉ mới vào đến khu vực này). Những kiểu đất này đều là đất phát nhân tài anh kiệt, văn thì đến Tam khôi Trạng Nguyên, võ thì đến Quận công danh tướng… Tổng cộng là hơn 2.000 ngôi đất quý.

Ngoài tập Cao Biền địa lý tấu thư kiểu tự, Cao Biền còn một bản tấu nữa về phong thủy là Cao Biền tấu thư cửu long kinh. Bản tấu này đề cập đến 27 ngôi đại địa có thể phát đến đế vương ở nước ta. Trong 27 ngôi đất này có những ngôi đã kết phát rực rỡ như ngôi đất ở Tức Mặc – Nam Định đã tạo nên một Trần triều hiển hách võ công hay ngôi đất ở Cổ Pháp kết phát ra triều Lý.

Về nhiệm vụ trấn yểm các mạch, dân gian còn lưu truyền nhiều câu chuyện. Trong đó có chuyện Cao Biền yểm thành Đại La và yểm thánh Tản Viên. Cả hai lần Cao Biền đều thất bại. Đối với các huyệt nhỏ chỉ phát công hầu khanh tướng không thấy tài liệu nào hay truyền thuyết nào nói Cao Biền có trấn yểm. Tuy nhiên, theo thiển ý của tác giả với số lượng quá lớn mà thời gian trị nhậm của Cao Biền chỉ trong quãng chục năm lại còn bận bịu việc quan lại chính trị thì sao có thể yểm hết được.

Qua đó ta thấy đất Việt quả thật là nhiều quý địa. Chỉ tính từ Ninh Bình trở ra mà đã có tới 27 ngôi đất kết Đế vương, hơn 2000 ngôi kết công hầu khanh tướng. Ngày nay lãnh thổ nước ta đã vượt qua Ninh Bình rất xa vào phía Nam với một đại cán long nữa là dãy Trường Sơn thì hẳn là phải thêm hàng ngàn ngôi đất quý nữa.

Các nhà địa lý có quyền nói rằng nhờ vào những quý địa đó mà sản sinh ra các anh hùng hào kiệt để dựng nước và giữ nước suốt chiều dài mấy ngàn năm lịch sử.