Ví dụ về quy nạp không hoàn toàn

Sơ đồ của phép qui nạp hoàn toàn :

a có P

b có P

c có P

………

n có P

a, b, c, ……n ∈s

Mọi S có tính P

Qui nạp hoàn toàn là qui nạp trong đó khẳng định tất cả đối tượng của lớp đang xét có tính P, trên cơ sở biết mỗi đối tượng của lớp này có tính P.

82Ví dụ : Vào đầu năm học, một tổ học tập đã tiến hành bầu chọn tổ trưởng bằng hình thức bỏ phiếu. Kết quả kiểm phiếu thật bất ngờ. Tất cả các bạn trong tổ đều chọn bạn An làm tổ trưởng.

Trong qui nạp hoàn toàn, kết luận chỉ khái quát được những trường hợp đã biết, chứ không đề cập đến những trường hợp chưa biết. Vì thế, qui nạp hoàn toàn tuy đầy đủ, chắc chắn nhưng nó không đem lại điều gì mới mẻ so với những điều đã được nêu ra trong tiền đề. Mặc dù có rất ít tác dụng đối với việc nghiên cứu, phát minh khoa học, nhưng nó cũng giúp chúng ta trong việc tóm tắt, trình bày các sự kiện.

Qui nạp không hoàn toàn là qui nạp trong đó khẳng định rằng : Tất cả các đối tượng của lớp đang xét có tính P trên cơ sở biết một số đối tượng của lớp này có tính P. Qui nạp không hoàn toàn có hai loại, qui nạp thông thường và qui nạp khoa học.

Qui nạp thông thường là kiểu qui nạp không hoàn toàn. Qui nạp thông thường là qui nạp bằng cách liệt kê một số trường hợp bất kỳ và nếu thấy chúng có thuộc tính P thì ta kết luận rằng : Tất cả các đối tượng của lớp đang nghiên cứu cũng có thuộc tính P.

Ví dụ : Khi quan sát thấy một số kim loại như : Sắt, Đồng, Chì, Vàng, Bạc, v.v… đều có thể rắn. Nhiều người đã qui nạp và rút ra kết luận : “Mọi kim loại đều là chất rắn”.

Qui nạp thông thường – qui nạp bằng liệt kê đơn giản là không đáng tin cậy, kết luận của nó rất có thể sai lầm. Kết luận rút ra từ phép qui nạp trên là một ví dụ, ai cũng biết rằng : Thủy ngân là một kim loại nhưng không phải là chất rắn.

Những kinh nghiệm về thời tiết, về trồng trọt của nhân dân ta được đúc rút từ trong cuộc sống hàng ngàn năm như :

83 - Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa.

- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa.

Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.

v.v…

Những kinh nghiệm đó là kết quả của phép qui nạp thông thường.

Qui nạp khoa học khác với qui nạp thông thường ở chỗ, qui nạp thông thường là qui nạp bằng liệt kê đơn giản. Qui nạp thông thường chỉ dựa vào sự quan sát bề ngoài, quan sát những thuộc tính thường thấy của đối tượng. Qui nạp khoa học căn cứ trên sự phân tích, tổnghợp các thuộc tính bản chất, căn cứ trên sự nghiên cứu nguyên nhân sinh ra hiện tượng nào đó để đi đến kết luận chung đối với các hiện tượng cùng loại.

Qui nạp khoa học vì thế đáng tin cậy hơn qui nạp thông thường. Tuy vậy, qui nạp khoa học không phải là hoàn toàn chắc chắn. Giá trị của qui nạp khoa học tùy thuộc vào số lượng các trường hợp được xem xét nhiều hay ít; các trường hợp được xem xét có mang tính chất ngẫu nhiên hay không, và mức độ phù hợp của kết luận với thực tiễn.

  • Các phương pháp qui nạp dựa trên cơ sở mối liên hệ nhân quả của các hiện tượng.

Phương pháp phù hợp được diễn đạt như sau :

84Nếu hai hay nhiều trường hợp của hiện tượng nghiên cứu chỉ có một sự kiện chung thì sự kiện chung đó, có thể là nguyên nhân của hiện tượng ấy.

Sơ đồ :

- Với điều kiện A, B, C có mặt hiện tượng a.

- Với điều kiện A, D, E có mặt hiện tượng a.

- Với điều kiện A, F, G có mặt hiện tượng a.

Có thể : A là nguyên nhân của hiện tượng a.

Ví dụ : Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hư hỏng ở một số học sinh, một cô giáo nhận thấy :

- Học sinh A : Nhà giàu, cha mẹ làm ăn xa, không quan tâm giáo dục con cái.

- Học sinh B : Nhà nghèo, đông con, cha mẹ mải làm ăn, không quan tâm đến con cái.

- Học sinh C : Nhà khó khăn, cha mẹ li dị, không quan tâm đến con cái.

Sau khi so sánh, cô giáo rút ra kết luận : nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh hư chính là ở những học sinh này không có sự quan tâm giáo dục của cha mẹ.

Phương pháp khác biệt được diễn đạt như sau :

Nếu hiện tượng xuất hiện và không xuất hiện trong những trường hợp khác nhau có những điều kiện như nhau, trừ một điều kiện, thì điều kiện bị loại trừ đó có thể là nguyên nhân (hay một phần nguyên nhân) của hiện tượng ấy.

Sơ đồ :

- Với điều kiện A, B, C thì xuất hiện tượng a.

- Với điều kiện B, C thì không xuất hiện tượng a.

85Có thể : A là nguyên nhân (hay một phần nguyên nhân) của a.

Ví dụ : Các nhà nghiên cứu chăn nuôi đã làm thí nghiệm đối chứng như sau : Chọn một số con heo có thể trọng như nhau được chia làm hai nhóm, cả hai nhóm này có chế độ ăn uống và chăm sóc như nhau. Điểm khác nhau là ở chỗ : người ta cho vào thức ăn của nhóm thứ nhất một lượng nhỏ thuốc có chứa vài nguyên tố vi lượng và vitamin, còn nhóm thứ hai thì không. Kết quả là ở nhóm heo thứ nhất, trọng lượng của chúng tăng vọt, còn ở nhóm heo thứ hai, trọng lượng của chúng tăng một cách bình thường.

Các nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận, chính loại thuốc có chứa vài nguyên tố vi lượng và vitamin kia là nguyên nhân tăng trọng nhanh ở một nhóm heo đó.

Phương pháp cộng biến được diễn đạt như sau :

Nếu một hiện tượng nào đó xuất hiện hay biến đổi thì một hiện tượng khác cũng xuất hiện hay biến đổi tương ứng – thì hiện tượng thứ nhất là nguyên nhân của hiện tượng thứ hai.

Sơ đồ : - Với điều kiện ABC thì xuất hiện hiện tượng a.

- Với điều kiện A1BC thì xuất hiện hiện tượng a1.

- Với điều kiện A2BC thì xuất hiện hiện tượng a2.

Có thể : A là nguyên nhân của a.

Ví dụ : Ở điều kiện bình thường (nhiệt độ và áp suất xác định), cột mức thủy ngân trong ống nghiệm ở một điểm xác định. Khi nhiệt độ tăng thì cột mức thủy ngân trong ống nghiệm cũng dâng lên (do thể tích tăng). Nhiệt độ càng tăng thì cột mức thủy ngân càng dâng cao. Do đó, sự cung cấp nhiệt là nguyên nhân làm cho cột mức thủy ngân trong ống nghiệm dâng cao. Chính phép qui nạp này là cơ sở cho sự ra đời của chiếc nhiệt kế thủy ngân.

86

Phương pháp phần được diễn đạt như sau :

Trong một hiện tượng, ngoài các phần mà nhờ những qui nạp trước đó người ta biết là do những sự kiện nào đó sinh ra, thì phần còn lại của hiện tượng là do sự kiện còn lại sinh ra.

Sơ đồ : - Với điều kiện ABC thì xuất hiện hiện tượng abc.

- Với điều kiện BC thì xuất hiện hiện tượng bc.

- Với điều kiện C thì xuất hiện hiện tượng c.

Có thể : A là nguyên nhân của hiện tượng a.

Ví dụ : Khi phân tích quang phổ, người ta thấy rằng, mỗi vạch quang phổ ứng với một nguyên tố hóa học nhất định. Trong dây quang phổ của mặt trời, người ta thấy có một vạch vàng tươi không ứng với một nguyên tố hóa học nào đã biết. Qua nghiên cứu các chất khí, người ta nhận thấy vạch quang phổ của một chất khí cũng có màu vàng tươi giống như một vạch của quang phổ mặt trời. Từ đó, tên của chất khí đó gọi là Hê-li (khí mặt trời).

Để tăng độ tin cậy của phép qui nạp, cần phải sử dụng kết hợp phương pháp trên. Các phương pháp này củng cố và bổ sung cho nhau, góp phần to lớn trong việc nghiên cứu, khám phá bản chất của hiện thực khách quan.

Giới thiệu về cuốn sách này


Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

I. Định nghĩa quy nạp và diễn dịch

– Quy nạplà phương pháp đi từtrithức về cái riêng đếntrithức về cái chung, từtrithức ít chung đếntrithức chung hơn.

Ví dụ: Nghiên cứu đặc điểm của từng cá thể lạc đà, từ đó rút ra kết luận về đặc điểm chung của loài lạc đà nói chung.

–Diễn dịchlà phương pháp đi từtrithức về cái chung đếntrithức về cái riêng, từtrithức chung đếntrithức ít chung hơn.

Ví dụ: Với những kiến thức chung về loài hoa, ta đi tìm hiểu cụ thể về riêng loài hoa hồng.

II. Đặc điểm của quy nạp và diễn dịch

Phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch đều dẫn tớitrithức mới, từ cái biết rồi để tìm cái chưa biết, tức là khám phá ratrithức mới.

1. Quy nạp

– Quy nạp là quá trình rút ra nguyên lý chung từ sự quan sát một loạt những sự vật riêng lẻ. Điều kiện khách quan của quy nạp là tính lặp lại của một loại hiện tượng nào đó.

Có hai loại quy nạp:Quy nạp hoàn toàn,Quy nạp không hoàn toàn.

+ Phương pháp quy nạp hoàn toàn có tiền để bao chứa toàn bộ đối tượng của sự vật được nói đến, từ đó mà có thể rút ra kết luận chung có tính phổ biến về đối tượng.

+ Phương pháp quy nạp không hoàn toàntrước hết là phương pháp quy nạp giản đơn. Phương pháp này thông qua quan sát nghiên cứu mà tìm ra một thuộc tính nào đó ven có trong sự vật, thuộc tính đó được lặp đi lặp lại nhiều lần và không có gì thay đổi. Từ đó rút ra kết luận các đối tượng thuộc loại này đều có thuộc tính như vậy. Kết luận của phương pháp quy nạp giản đơn có tính chất hoặc nhiên, nó có thể là đúng mà cũng có thể là sai. Phương pháp quy nạp khoa học khắc phục được những hạn chế của quy nạp giản đơn.

– Phương pháp quy nạp giúp cho việc khái quát kinh nghiệm thực tiễn về những cái riêng để có đượctrithức kết luận chung. Quy nạp đóng vai trò lớn lao trong việc khám phá ra quy luật, đề ra các giả thuyết.

– Tuy nhiên, quy nạp cũng có những hạn chế của nó, nhất là đối với loại quy nạp phổ thông theo lối liệt kê giản đơn. Thuộc tính chung được rút ra bằng quy nạp từ một số hiện tượng lại có thể không có ở tất cả các hiện tượng cùng loại nếu nó không liên quan đến bản chất của hiện tượng và do các điều kiện bên ngoài quy định. Quy nạp chưa thể xác định được thuộc tính đó là tất nhiênhayngẫu nhiên.

– Để khắc phục hạn chế của quy nạp, cần phải có diễn dịch và bổ sung bằng diễn dịch.

2. Diễn dịch

– Diễn dịch là quá trình vận dụng nguyên lý chung để xem xét cái riêng, rút ra kết luận riêng từ nguyên lý chung đã biết. Tuy nhiên, muốn rút ra kết luận đúng bằng con đường diễn dịch thì tiền đề phải đúng và phải tuân theo các quy tắc lô-gíc, phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi vận dụng cái chung vào cái riêng.

Phương pháp diễn dịchbao gồm ba bộ phận là: tiền đề, quy tắc suy luận logic và kết luận.

+ Tiền đềlà những phán đoán đã biết, chúng là căn cứ và lý do để suy luận.

+ Quy tắc suy luận logiclà kết cấu hình thức phải tuân theo trong quá trình suy luận. Kết luận là phán đoán được rút ra từ tiền đề theo những quy tác của logic, là kết quả của toàn bộ quá trình suy luận.

+ Kết luậncủa phương phápdiễn dịch tất nhiên đã ẩn chứa ỏ trong tiền để, nhưng không vì thế mà cho ràng phương pháp diễn dịch không mang lại điểu gì mới mẻ. Trên thực tê phương pháp diễn dịch đã góp phần xác định rõ kết luận và đã trả lời một cách trực tiếp điều mà tiền đề không trực tiếp trả lời. Như vậy, trên một ý nghĩa nhất định có thể nói đó là đi từ cái đã biết đến cái chưa biết.

– Nếu quy nạp là phương pháp dùng để khái quát các sự kiện và tài liệu kinh nghiệm thì diễn dịch là phương thức xây dựng lý thuyết mở rộng. Phương pháp diễn dịch có ý nghĩa quan trọng đối với các khoa học lý thuyết như toán học…

Ngàynay, trên cơ sở diễn dịch, người ta xây dựng trong khoa học các phương pháp như phương pháp tiên đề, phương pháp giả thuyết – diễn dịch.

II. Mối quan hệ giữa quy nạp và diễn dịch

– Mặc dù quy nạp và diễn dịch là hai phương pháp nhận thức có chiều hướng đối lập nhau, nhưng chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, làm tiền đề cho nhau, cái này đòi hỏi cáikiavà bổ sung cho cáikia.

Do đó, không nên tách rời quy nạp và diễn dịch, cường điệu phương pháp này mà hạ thấp phương phápkiavà ngược lại. Chúng phải đi đôi với nhau nhưtổng hợp và phân tích. Ta phải sử dụng mỗi cái đúng chỗ và chỉ như vậy thì mới có thể góp phần nhận thức được đúng đắn sự vật, hiện tượng.

– Nhờ khái quát các tài liệu kinh nghiệm đã được tích lũy, quy nạp chuẩn bị căn cứ để dự kiến về nguyên nhân các hiện tượng nghiên cứu, về sự tồn tại một mối liên hệ tất yếu nhất định.

Còn diễn dịch thì luận chứng về mặt lý thuyết cho những kết luận thu được bằng con đường quy nạp, loại trừ tính không chắc chắn của những kết luận ấy và biến chúng thành nhữngtrithức tin cậy.

Quy nạp giúp ta hiểu được cái chung, còn diễn dịch giúp ta đi từ cái chung để hiểu cái riêng. Quá trình nhận thức là đi từ cái riêng đến cái chung và từ cái chung đến cái riêng. Vì vậy, ta phải vận dụng tổng hợp cả quy nập và diễn dịch trong nhận thức và nghiên cứu khoa học.

You're Reading a Free Preview
Pages 7 to 17 are not shown in this preview.

Quy nạp

[ Logic học đại cương – Nguyễn Tuấn Anh]

Bản chất, vai trò và cấu tạo của quy nạp

a] Nguồn gốc và bản chất của quy nạp. Quy nạp nảy sinh trong quá trình hoạt đông thực tiễn của con người từ nhu cầu khái quát để thu nhân những tri thức về các tính chất chung của các đối tượng, về các mối liên hệ giữa chúng.

Cơ sở khách quan của sự xuất hiện và tổn tại quy nạp trước hết là biện chứng của cái chung và cái riêng trong chính hiện thực khách quan. Cái riêng không nằm ngoài cái chung, và cái chung — không ngoài cái riêng. Cái riêng này liên hệ với cái riêng khác thông qua cái chung. Đến lượt mình, cái chung chỉ biểu hiện ra trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bối cảnh đó làm cho thành có thể nhân thức cái chung trên cơ sở nhân thức cái riêng, nhân thức những đối tượng đơn nhất cụ thể.

Cơ sở khách quan của quy nạp còn là các mối liên hệ khách quan, trước hết là các mối liên hệ nhân – quả, giữa các đối tượng. So sánh và đối chiếu các đối tượng riêng rẽ cho phép vạch ra trong chúng những mối liên hệ chung, xác định, cái này là nguyên nhân, cái kia là hệ quả, hoặc ngược lại.

Vốn là môt nhóm suy luân, quy nạp căn bản khác với diễn dịch, và chính qua đó biểu hiện bản chất sâu xa của nó. Nếu trong diễn dịch, tư tưởng vân đông từ tri thức chung hơn đến kém chung hơn, thì trong quy nạp là ngược lại: từ ít chung hơn đến chung nhiều hơn. Trong diễn dịch tri thức được giả định là

“có sẵn”. Quy nạp lại vạch ra “cơ chế” hình thành lên nó. Vì thế, nếu ở diễn dịch tri thức chung là khởi điểm của suy luân, thì ở quy nạp nó lại là kết quả.

b] Cấu tạo của quy nạp cũng gồm ba bô phận:

  • Tiền đề: nếu ở diễn dịch tiền đề là những phán đoán toàn thể [hoặc bô phận], không đuợc tất cả là phủ định [nhu trong tam đoạn luận] và tính chân thực của chúng đã đuợc xác lập chắc chắn, thì ở quy nạp là những phán đoán đơn nhất, đồng chất [hoặc cùng là khẳng định, hoặc cùng là phủ định], và chúng có tính chân thực dữ kiên dựa trên quan sát kinh nghiêm.
  • Kết luận của quy nạp cơ bản phải là phán đoán toàn thể diễn đạt chủ yếu tri thức chung [mặc dù có thể là riêng, về một số đối tuợng của lớp nào đó], trong khi đó kết luận ở diễn dịch có thể là phán đoán bô phận, mà cũng có thể là đơn nhất. Phán đoán kết luận cũng phải luôn đồng chất với các phán đoán tiền đề. Nếu trong diễn dịch kết luận luôn xác thực, khi có các tiền đề chân thực và suy diễn đúng quy tắc, thì trong quy nạp kết luận ấy có thể là xác thực, mà cũng có thể chỉ là xác suất. .

c] Cơ sở logiccủa quy nạp là mối liên hệ logicgiữa các tiền đề và kết luận, mối liên hê đó phản ánh mối liên hê khách quan giữa cái riêng và cái chung, giữa nguyên nhân và kết quả.

Phân loại quy nạp

Có nhiều loại quy nạp khác nhau theo các căn cứ phân loại khác nhau.

Quy nạp hoàn toàn và không hoàn toàn. Nếu dựa vào việc đã nghiên cứu toàn bô hay chỉ phần nào các phần tử của lớp, thì có thể chia thành hai loại quy nạp.

Quy nạp hoàn toàn là quy nạp thoả mãn hai điều kiện, thứ nhất, đã nghiên cứu tất cả các phần tử của lớp và, thứ hai, đã xác lập đuợc từng phần tử trong số chúng có [hay không có] thuộc tính [hay quan hệ] nào đó.

S1 không là P

S2 không là P

……………….

Sn không là P

I………..∀ S không là P

Quy nạp hoàn toàn, cũng như diễn dịch, có thể mang lại tri thức xác thực. Dĩ nhiên, quy nạp hoàn toàn chỉ chân thực, nếu tất cả các tiền đề đều chân thực và, nếu giữa chúng và kết luân có quan hê kéo theo lôgíc, nếu đã bao quát được toàn bô các đối tượng của lớp nghiên cứu và vạch ra được ở từng đối tượng có [hay không có] tính chất cần quan tâm. Nhờ quy nạp hoàn toàn có thể thu được những tri thức khoa học quan trọng có tính phổ biến nhất định. Còn nếu xác lâp được là, không phải tất cả các phần tử của lớp có tính chất chung cần quan tâm, thì sự khái quát sẽ mang hình thức của phán đoán bô phân. Sự khái quát có hình thức không chỉ của phán đoán khẳng định, mà còn của phán đoán phủ định.

Nhìn chung quy nạp hoàn toàn chỉ được dùng nghiên cứu các lớp đối tượng hữu hạn với số lượng xác định. Nó không dùng được cho các lớp vô hạn các đối tượng. Do vây ở phần lớn các trường hợp khoa học phải dùng đến

Quy nạp không hoàn toàn là suy luân về toàn bô lớp đối tượng trên cơ sở nghiên cứu chỉ môt phần các đối tượng của lớp ấy:

Quy nạp không hoàn toàn có ý nghĩa nhân thức quan trọng và lớn hơn nhiều so với quy nạp hoàn toàn. Ở quy nạp hoàn toàn kết luân không được phổ biến sang các đối tượng chưa được nghiên cứu. Còn qua kết luân của quy nạp không hoàn toàn thì lại diễn ra sự thuyên chuyển lôgíc tri thức từ phần được nghiên cứu sang toàn bô phần còn lại của lớp.

Tuy nhiên, chính ở ưu điểm này mà quy nạp không hoàn toàn lại hàm chứa khiếm khuyết cơ bản của nó. Khác với quy nạp hoàn toàn, kết luân ở đây, ngay cả khi tất cả các tiền đề là chân thực, cũng chỉ có thể là xác suất. Kết luân quy nạp cũng có thể là tri thức xác thực, nếu nó là phán đoán bộ phân. .

Quy nạp phổ thông và quy nạp khoa học. Nếu căn cứ vào việc đã giải thích được nguyên nhân và bản chất của đối tượng được khái quát ở kết luân hay chưa, thì quy nạp lại được phân chia tiếp thành hai loại cơ bản.

Quy nạp phổ thông thông qua liệt kê đơn giản, khi không gặp phải trường hợp ngược lại. Cuôc sống hàng ngày cung cấp vô số ví dụ về loại quy nạp này. Mức đô xác thực của kết luân thu được trên cơ sở quy nạp phổ thông phụ thuôc vào hai điều kiện: số các trường hợp quan sát; và chất lượng các dấu hiệu, mức đô bản chất của nó đối với lớp đối tượng được quan sát.

Tuy nhiên, như thế cũng chưa đủ để loại trừ khiếm khuyết cơ bản của quy nạp phổ thông. Môt trong chúng chỉ nhằm vào việc kể lể các trường hợp lặp lại của môt dấu hiệu mà không có sự lựa chọn tự giác những dữ kiện điển hình và phân tích chuyên sâu về chúng. Còn điều kiện kia chỉ yêu cầu sự khái quát được tiến hành trên cơ sở quan sát giản đơn tổng các đối tượng ngẫu nhiên rơi vào tầm nhìn mà không đòi hỏi nghiên cứu nguyên nhân của chính hiện tượng. Điều đó giải thích vì sao mà bên cạnh nhiều kinh nghiệm dân gian [điềm báo] đáng tin cây vẫn có không ít những khái  quát sai lầm dựa trên niềm tin mù quáng…

Quy nạp khoa học. Những điểm yếu nêu trên của quy phổ thông được khắc phục phần nào bởi quy nạp khoa học. Trong loại quy nạp này người ta không chỉ đơn giản quan sát các trường hợp, mà còn nghiên cứu bản chất của hiện tượng và trả lời câu hỏi: “sao lại như thế, mà không phải thế khác?”.

Nếu quy nạp phổ thông coi trọng việc tổng quan càng nhiều càng tốt các trường hợp, thì đối với quy nạp khoa học việc đó lại không có ý nghĩa lớn thế. Trong các khoa học quy nạp không hoàn toàn có biểu hiện khác nhau. Chẳng hạn trong nhân thức thế’ giới vi mô, nơi chủ yếu có sự tác đông của các quy luật thống kê, thì sử dụng chủ yếu là quy nạp thống kê. Nó cũng được dùng không kém phần rông rãi trong các nghiên cứu xã hôi học. Nhưng các quy luật chung mà lôgíc hình thức nghiên cứu tác đông ở mọi biến thể quy nạp khoa học.

Các phương pháp nghiên cứu quy nạp

Phương pháp đồng nhất: 

Cốt lõi của nó là ở việc so sánh, đối chiếu các sự kiện khác nhau và vạch ra trong chúng sự giống nhau ở môt điểm nào đó. Dưới đây là sơ đổ của phương pháp đổng nhất:

ABC. . . có a

ACD. . . có a

AEG. . . có a

I —  A là nguyên nhân của a.

Phương pháp này thường được sử dụng trong các khoa học dùng nhiều thí nghiệm, quan sát. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có thể không cho kết quả đáng tin cậy, vì nhiều khi không phải là toàn bô hiện tượng A, mà chỉ có phần nào của nó là nguyên nhân gây ra hệ quả “a”.

Phương pháp khác biệt duy nhất.

Các hiện tượng đã giống nhau trong nhiều quan hệ vẫn có thể khác nhau ở chỗ nào đó, mà sự có hay không những hệ quả này hay khác rất có thể gắn với sự khác nhau ấy.

Công thức:

ABC. . . có a

BC. . không có a
I….  A là nguyên nhân của a.

Phương pháp này có hiệu lực hơn cả phương pháp đổng nhất, vì ở đây người ta đã không chỉ có quan sát, mà còn tiến hành thí nghiệm cho khả năng tạo ra những điều kiện chuyên biệt, không còn quá cần phải quan sát rất nhiều các trường hợp nữa, không cần phải tính đến yếu tố nhiều nguyên nhân nữa…

Nhưng ngay cả phương pháp này cũng chỉ cho kết luân xác suất. Nguyên nhân của a có thể không phải là bản thân A, mà ở sự kết hợp với hiên tượng B nữa

Phương pháp biến đổi kèm theo. Tên gọi của phương pháp nói lên nôi dung của nó: khi làm thay đổi một bối cảnh, người ta quan sát xem có những thay đổi nào đi kèm với nó. Sơ đổ của phương pháp này như sau:

A 1BC . . có a1

A2BC. . . có a2

A3BC. . . có a3

I …. A là nguyên nhân của a

Phương pháp này cũng được sử dụng rất rộng rãi trong nhân thức. Tuy nhiên, kết luân theo phương pháp này cũng chỉ là xác suất.

Phương pháp phần dư. Sơ đổ của phương pháp này như sau:

ABC. . . có abc

BC. . có bc

I …. A là nguyên nhân của a

Về hiệu lực chứng minh phương pháp phần dư có thể được quy về phương pháp biến đổi duy nhất, nhưng cũng như mọi phương pháp khác nó cũng chỉ cho kết luân xác suất. Vì A có thể là nguyên nhân duy nhất của a, một phần của nguyên nhân, hoặc ngược lại, có chứa nguyên nhân trong mình, chứ chưa là nguyên nhân trực tiếp.

Trong các nghiên cứu thực nghiệm những phương pháp nêu trên có thể được dùng riêng, hoặc kết hợp với nhau. Nhưng ngay cả sự kết hợp của chúng cũng chỉ gia tăng thêm khả năng nhân thức, chứ chưa đảm bảo tuyệt đối tính chính xác của kết luân.

Các quy tắc và lỗi trong suy luận quy nạp

a] Nhầm lẫn kéo theo nhân quả với sự kế’ tiếp theo thời gian của các hiện tượng. Đôi khi người ta cho rằng, “Sau cái đó, có nghĩa là do cái đó”, làm cho mối liên hệ nhân quả bị đổng nhất một cách phi lý với tính kế tiếp giản đơn của chúng về thời gian.

b] Khái quát vội vàng. Lỗi này thường xảy ra khi, mới chỉ trên cơ sở của một số các sự kiên, nhiều khi là ngẫu nhiên, người ta đã vôi khái quát thành kết luân chung. Để tránh sai lầm này, trước khi khái quát cần phải xét càng nhiều trường hợp càng tốt, ở nhiều bối cảnh khác nhau càng hay, xét xem hê quả giả định điển hình đến mức nào

Video liên quan