Trước khi bắt đầu chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định quân ta tiến công Xuân Lộc và

Lịch sử và ý nghĩa của ngày Giải phóng miền Nam 30/4/1975

Cuối năm 1974, đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở Miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.

Ngày đăng : 29/04/2021 Xem với cỡ chữ

Bản in

Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam” và đã đưa ra quyết định: “phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Miền Nam trước mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Rang, đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.

Vào lúc 17 giờ ngày 26/4/1975, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4/1975, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức tổng thống ngày 28/4/1975 đã phải tuyên bố đầu hàng quân ta không điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng là đỉnh cao cuộc Tổng tiến công và nổi dậy long trời lở đất của quân và dân ta từ đầu tháng 3 đến ngày 30 tháng 4, đã nhanh chóng đập tan hang ổ cuối cùng của địch, giải phóng Sài Gòn trong một thời gian rất ngắn, tiêu diệt, làm tan rã và bắt toàn bộ lực lượng của địch, đánh đổ toàn bộ hệ thống chính quyền tay sai từ trung ương đến địa phương, kết thúc toàn thắng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của toàn miền, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Nếu trước đây, với Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ, thì với Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, chúng ta đã kết thúc chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ ở nước Việt Nam ta, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu.

Kể từ khi có Đảng, qua gần nửa thế kỷ liên tục đấu tranh, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong cả nước. Thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 là một thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, mở ra một kỷ nguyên mới đầy hứa hẹn cho Tổ quốc ta. Thắng lợi này tạo ra đầy đủ những điều kiện cơ bản thuận lợi để nhân dân ta xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.

Đại thắng mùa xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Chiến thắng đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, cả nước cùng tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi này đã đi vào lịch sử nước ta và của thế giới, như một trang sử chói lọi ở những năm 70 của thế kỷ XX, mang tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc.

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta mãi tự hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các anh hùng, các thế hệ cha ông ta đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Chúng ta càng tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, vào tinh thần quật cường bất khuất và trí thông minh, sáng tạo của dân tộc ta, của quân đội ta. Mỗi người dân Việt Nam nguyện tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm vươn lên hoàn thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh theo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra. Phan Ngân

Lê Thùy Trang

Lần xem: 15553

Go top

Bài viết khác

Trưa ngày 30/4/1975, hai chiếc xe tăng mang số hiệu 843 và 390 thuộc biên chế của Lữ đoàn 203 [Binh chủng Tăng - Thiết giáp] hùng dũng tiến lên, húc đổ cánh cổng sắt Dinh Độc Lập. Trung úy Bùi Quang Thận, Đại đội trưởng Đại đội xe tăng 2, từ xe tăng 843 tiến lên, cắm lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trên nóc Dinh. Cùng lúc ấy, các chiến sỹ của Lữ đoàn xe tăng 203, Trung đoàn bộ binh 66 - lực lượng xung kích thọc sâu của Quân đoàn 2 và lực lượng biệt động thành Sài Gòn tiến vào Dinh. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh và toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện.

 

Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Ảnh: Tư Liệu

Để có được thắng lợi vĩ đại ấy, dân tộc ta đã trải qua một cuộc chiến tranh trường kỳ và gian khổ suốt 21 năm. Hàng triệu cán bộ, chiến sỹ và đồng bào đã anh dũng hy sinh. Từ những nguồn tư liệu lịch sử, xin được nhắc lại một số diễn biến chính của Chiến dịch lịch sử này.

Mùa Xuân năm 1975, sau Chiến dịch Tây Nguyên [từ 4/3 đến 3/4/1975], Chiến dịch Huế - Đà Nẵng [từ 5/3 đến 2/4/1975] thắng lợi, ta đã giải phóng một vùng rộng lớn, gồm các tỉnh Tây Nguyên và toàn bộ vùng duyên hải miền Trung. Địch mất toàn bộ Quân khu 1 và Quân khu 2. Một nửa binh lực của quân ngụy Sài Gòn đã bị tiêu diệt. Tuy nhiên, địch vẫn ra sức tổ chức lực lượng, tăng cường phòng ngự, lấy việc bảo vệ Sài Gòn làm mục đích chiến lược để có thể mặc cả với ta trên chiến trường. Chúng nhanh chóng tổ chức các tuyến phòng ngự từ xa, như các tuyến: Phan Rang, Xuân Lộc và tuyến phòng ngự trực tiếp bảo vệ thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.

Ngày 18/4, ta tiến công Phan Rang, đập tan tuyến phòng ngự của địch, bắt sống Trung tướng Tư lệnh mặt trận Nguyễn Vĩnh Nghi. Ngày 20/4, trước sức tiến công của ta, Sư đoàn 18 ngụy tháo chạy. Xuân Lộc thất thủ. Các tuyến phòng ngự từ xa của địch bị phá vỡ, buộc chúng phải co về phòng ngự trực tiếp thành phố Sài Gòn với ba tuyến chính: vòng ngoài [bán kính 25 - 30 km], vòng ven và nội đô.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với quyết tâm giải phóng Sài Gòn và toàn bộ miền Nam trước mùa mưa. Tất cả các lực lượng chiến lược được huy động cho chiến dịch này.

Ngày 8/4/1975, tại Lộc Ninh, Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được thành lập. Sau đó, Chiến dịch được Bộ Chính trị quyết định đổi tên thành “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Đại tướng Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh; các đồng chí Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh và Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh. Lực lượng ta được triển khai thành 5 cánh quân, với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn theo tinh thần chỉ đạo: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng”.

Chiều 26/4, ta nổ súng mở màn Chiến dịch. Từ 5 hướng, các quân đoàn đồng loạt tiến công Sài Gòn. Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch, đêm 29, rạng sáng ngày 30/4/1975, các binh đoàn chủ lực trên từng hướng đồng loạt tiến công vào nội đô, đánh chiếm các mục tiêu then chốt đã được phân công.

Trên hướng Tây Bắc, 5 giờ ngày 30/4, Quân đoàn 3 với lực lượng đột kích thọc sâu, chủ yếu là Sư đoàn 10, được pháo binh chi viện, bắn phá liên tục vào sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Bộ Tư lệnh quân dù, Bộ Tư lệnh thiết giáp, Bộ Tư lệnh không quân… Sau đó tiến công bằng cơ giới, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn. Đến trưa 30/4, Trung đoàn 24 [Sư đoàn 10] đã làm chủ hoàn toàn sân bay Tân Sơn Nhất, Trung đoàn 28 [Sư đoàn 10] chiếm Bộ tổng tham mưu quân đội Sài Gòn.

Trên hướng Bắc, suốt đêm 29 rạng sáng ngày 30/4, Quân đoàn 1 tiến công, bao vây, tiêu diệt địch tại cụm cứ điểm Lai Khê, tiến công căn cứ Phú Lợi, đánh chiếm thị xã và tiểu khu Bình Dương, đập tan hệ thống phòng ngự chi khu quân sự Lái Thiêu, mở toang cánh cửa cuối cùng trên hướng Bắc tiến vào nội đô Sài Gòn. Rạng sáng ngày 30/4 các đơn vị của Quân đoàn tiến công cầu Bình Phước, cầu Vĩnh Bình, đánh chiếm Gò Vấp, sau đó thực hành thọc sâu theo đường Bạch Đằng, Chi Lăng đánh vào Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn.

Trên hướng Tây Nam, đêm ngày 29/4, lực lượng đột kích chủ yếu của Đoàn 232 do Sư đoàn 9 đảm nhiệm tiến vào nội thành Sài Gòn theo 3 trục chính. 10 giờ 30 phút, ngày 30/4, lực lượng thọc sâu Sư đoàn 9 đã vây chặt biệt khu Thủ đô. Tướng Lâm Văn Phát, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô ngụy Sài Gòn đã đầu hàng và kêu gọi sĩ quan, binh lính thuộc quyền hạ vũ khí.

Trên hướng tiến công quan trọng Đông - Đông Nam, trưa ngày 29/4, nhận được chỉ thị của Thường trực Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã lệnh cho Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4 “tiến công vào nội đô Sài Gòn” từ 16 giờ ngày 29/4/1975 [sớm hơn 12 giờ so với các hướng khác].


Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường hoan hô bộ đội giải phóng.

Ảnh: Tư Liệu

14 giờ ngày 29/4, Sư đoàn 325, Quân đoàn 2 đánh chiếm các mục tiêu còn lại ở khu vực Nhơn Trạch, bến phà Cát Lái và thành Tuy Hạ. Rạng sáng ngày 30/4, được pháo binh và xe tăng yểm trợ, Sư đoàn vượt sông Đồng Nai, đánh chiếm căn cứ hải quân Cát Lái, sau đó phát triển vào nội thành đánh chiếm Bộ Tư lệnh hải quân địch, phát động và hỗ trợ cho nhân dân quận 9 nổi dậy giành quyền làm chủ.

5 giờ sáng ngày 30/4, mũi đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 do Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn trực tiếp chỉ huy, gồm hơn 400 xe cơ giới, dẫn đầu là xe tăng và xe thiết giáp, theo xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn, tiến công vào nội đô Sài Gòn. Dọc đường tiến công, các đơn vị trong đội hình vừa đi vừa đánh, quét sạch các đồn, bốt, tuyến phòng ngự chốt chặn của đối phương.

Cũng trong sáng 30/4, tại khu vực thành phố Biên Hòa, Quân đoàn 4 tiến công vào Thủ Đức, ngã ba Tam Hiệp rồi chuyển sang cầu xa lộ Đồng Nai tiến vào thành phố.

Đội hình thọc sâu Quân đoàn 2 sau khi đè bẹp một số mục tiêu quan trọng ở quận Thủ Đức, đã tiến sát cầu Sài Gòn. Tại đây ta gặp sự phản kích dữ dội của địch. Nhưng trước sự phối hợp hỏa lực hiệu quả và các mũi tiến công của quân ta, địch phải bỏ vũ khí tháo chạy.


Xe tăng Quân giải phóng húc đổ cánh cổng sắt của Dinh Độc lập trưa ngày 30/4/1975.

Ảnh: Tư Liệu

9 giờ, lực lượng đi đầu binh đoàn đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 tiếp tục vượt cầu Sài Gòn, tiến về phía Dinh Độc Lập. Phía nam cầu, Phó Tư lệnh Quân đoàn 2 chỉ thị cho cán bộ Lữ đoàn xe tăng 203 điều chỉnh Tiểu đoàn 2 thiết giáp dàn đội hình, giữ cự ly, bám Tiểu đoàn 1 xe tăng đi đầu; chỉ thị cho Ban chỉ huy tiền phương Trung đoàn 66 bám sát đội hình xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập và đánh chiếm Đài phát thanh.

Vượt qua sự chống trả quyết liệt ở cầu Thị Nghè, lực lượng thọc sâu cơ động dọc theo tường rào Thảo Cầm Viên. Tiểu đoàn 1 xe tăng do Đại đội 4 dẫn đầu, tiếp cận cổng chính Dinh Độc Lập. Xe tăng đi đầu mang số hiệu 843 do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy húc vào cánh cổng, nhưng xe bị chết máy, ngay lập tức xe tăng mang số hiệu 390 do Chính trị viên Vũ Đăng Toàn chỉ huy đi sau vượt lên, lao vào húc đổ cánh cổng chính cửa Dinh Độc Lập. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ Giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Ngay sau đó, Tổng thống Dương Văn Minh lên Đài phát thanh Sài Gòn đọc lời tuyên bố đầu hàng không điều kiện quân giải phóng.

Chiến dịch Hồ Chí Minh là mốc son chói lọi, đánh dấu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Nguyễn Vũ Điền

[Hội Khoa học lịch sử tỉnh Sơn La]

Video liên quan

Chủ Đề