Tại sao phải phát huy tính năng động chủ quan

Khi nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chúng ta thấy rằng vật chất quyết định ý thức nhưng ý thức lại tác động trở lại đối với vật chất đó là quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trên cơ sở mỗi quan hệ biện chứng này, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã rút ra được nguyên tắc khách quan. Vậy cơ sở lý luận và vận dụng của nguyên tắc khách quan trong triết học là gì?

Sau đây, Chúng tôi sẽ giới thiệu tới quý vị những nội dung sau để hỗ trợ khách hàng những thông tin cần thiết liên quan đến nguyên tắc khách quan.

Bản chất của nguyên tắc khách quan trong triết học

Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, triết học Mác – Lenin đã rút ra nguyên tắc phương pháp luận là phải xuất phát trừ thực tế khách quan.

Xuất phát từ thực tế khách quan tức là xuất phát từ tính khách quan của vật chất, chúng ta phải xuất phát từ bản thân sự vật, không thể tùy tiện gán cho sự vật cái mà nó không có hoặc là nó chưa có. Trong hoạt động thì chúng ta phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, mục tiêu, phương hướng thì đều phải xuất phát từ thực tế khách quan. Tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người.

Như vậy, xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan có ý nghĩa rất lớn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Có thể khái quát được rằng bản chất của nguyên tắc khách quan đó là khi đánh giá, phân tích sự vật hiện tượng nào đó thì chúng ta phải đánh giá đúng như sự vật thể hiện như vậy. Chúng ta không được gán cho sự vật cái mà nó không có. Khi chúng ta bôi hồng hoặc to đen sự vật là chúng ta vi phạm nguyên tắc khách quan trong đánh giá.

Nội dung nguyên tắc khách quan trong triết học

– Thế nào là tôn trọng điều kiện khách quan, quy luật khách quan?

Mỗi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như chính sự tồn tại của nó, không bị những tếu tố chủ quan chi phối để nhận thức sai lệch, tô hồng hay bôi đen cho sự vật, cần phải có phương pháp nhận thức thức khoa học và tuân thủ theo các nguyên tắc phương pháp luận trong triết học để luôn tôn trọng điều kiện khách quan.

+ Trong mọi hoạt động, khi đề ra phương hướng hoạt động phải căn cứ vào điều kiện khách quan, quy luật khách quan để đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả và không bị các yếu tố khách quan cản trở.

+ Khi xác định phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động phải căn cứ vào các quy luật khách quan để lựa chọn phương pháp, cách thức phù hợp với từng điều kiện khách quan đảm bảo cho sự phát triển của đối tượng tác động và hoạt động đó theo đúng ý thức của mỗi người.

+ Có kế hoạch điều chỉnh mục tiêu của bản thân cho phù hợp khi điều kiện khách quan có sự biến đổi để phát huy ý thức của bản thân luôn năng động và sáng tạo trong mọi điều kiện khách quan.

– Phát huy tính năng động chủ quan: theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì ý thức không thụ động mà nó có tính động lập, tương đối với vật chất và nó tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Bản chất của ý thức mang tính năng động, sáng tạo.

+ Tri thức khoa học và vận dụng tri thức khoa học có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Vì tri thức khoa học giúp cho hành động của mỗi người trở đúng quy luật và có hiệu quả hơn.

+ Luôn phát huy tính tích cực của ý thức và tìm tòi cái mới, phương pháp mới. Vì những yếu tố này giúp ta phát triển bật phá, khác biệt so với những cá nhân khác luôn hoạt động theo quy luật mà không chịu đổi mới.

+ Luôn phát huy tính sáng tạo vì sáng tạo mới giúp phát triển trí tuệ và tạo nên đột phá, biết dự đoán một cách khoa học, phù hợp quy luật khách quan khi đó chúng ta có thể đối phó với những biến đổi của quy luật khách quan.

Vận dụng nguyên tắc khách trong hoạt động thực tiễn

– Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: nguyên tắc khách quan đòi hỏi con người trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ sở, phương tiện hoạt động.

Những đường lối, chủ trương, chính sách của phải xuất phát từ thực tế xã hội trong từng giai đoạn khác nhau. Trong các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam trước đây chúng ta luôn xác định điều kiện tất yếu diễn ra cuộc cách mạng từ đó đề ra chủ trương, đường lối phù hợp. Điều kiện khách quan như: sự chín muồi của mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội tạo nên cuộc khủng hoảng về chính trị sâu sắc hay sự vực dậy của nông dân khi bị áp bức, bóc lột quá sức chịu đựng…

– Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam: xuất phát từ việc tôn trọng các điều kiện tất yếu để thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, đòi hỏi phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường do vật các sản phẩm, hàng hóa phải được sản xuất dựa trên nền tảng vững chắc của cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại với cơ cấu phù hợp với chi phí có thể bỏ ra của nền kinh tế, tăng khả năng tích lũy cho nền kinh tế, từ đó góp phần phát triển nền kinh tế.

Trên đây, là toàn bộ nội dung liên quan đến cơ sở lý luận và vận dụng của nguyên tắc khách quan trong triết học là gì? Mọi thắc mắc liên quan đến nội dung bài viết trên, quý vị có thể liên hệ với chúng tôi để được giải đáp nhanh chóng nhất.

-->

Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiLỜI CẢM ƠNNhóm 1 lớp CH18A - QLKT xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS.Phương Kỳ Sơn đã tận tình giúp đỡ nhóm trong quá trình học tập cũng như thực hiện báo cáo thảo luận.Do nhóm còn nhiều hạn chế về kiến thức và thời gian nghiên cứu nên bài trình bày chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành từ phía thầy giáo và các bạn.Khoa Sau đại học 1 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiLỜI CAM ĐOANTrong quá trình được thầy giáo truyền đạt kiến thức và thực hiện đề tài thảo luận, nhóm 1 đã tham khảo một số giáo trình, tài liệu có liên quan trong phạm vi nội dung Triết học. Tuy nhiên, nhóm xin cam đoan bài trình bày của nhóm không trùng lặp với bất kỳ báo cáo nghiên cứu nào thực hiện trước đó mà nhóm được biết.Khoa Sau đại học 2 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiMỤC LỤCBÊN BẢN ĐÁNH GIÁ TrangLỜI CẢM ƠNLỜI CAM ĐOANNỘI DUNGCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRIẾT HỌC CỦA NGUYÊN TẮC “TÔN TRỌNG KHÁCH QUAN, PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN”1.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan”1.1.1. Vật chất1.1.2. Ý thức1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức1.2. Yêu cầu của nguyên tắc phương pháp luận “tôn trọng khách quan và phát huy tính năng động chủ quan” trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễnCHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC “TÔN TRỌNG KHÁCH QUAN, PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN” Ở VIỆT NAM HIỆN NAY2.1 Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan ở Việt Nam giai đoạn trước năm 19862.2 Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan ở Việt Nam hiện nay2.2.1 Quan điểm của Đảng về vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan2.2.2. Vận dung nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay2.2.3. Vận dung nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên lĩnh vực chính trị ở Việt Nam hiện nay2.2.4. Vận dung nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nayKẾT LUẬNDANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢOMỤC LỤCKhoa Sau đại học 3 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiCHƯƠNG 1CƠ SỞ LÝ LUẬN TRIẾT HỌC CỦA NGUYÊN TẮC “TÔN TRỌNG KHÁCH QUAN, PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN”1.1- Cơ sở lý luận của nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan”Cơ sở lý luận chung của nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan” là quan điểm của chủ nghĩa duy vật khoa học về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.1.1.1- Vật chất:Theo định nghĩa của V.I Lê Nin trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán thì vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan mà con người biết được là nhờ cảm giác. Cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh nhưng tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.* Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Như vậy vật chất tồn tại bằng hình thức vận động, thông qua vận động mà biểu hiện ra nó là gì?nhận thức sự vận động của vật chất là nhận thức chính bản thân sự vật, hiện tượng.- Vận động của vật chất là sự vận động tự thân, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất đều do các mặt, các yếu tố hợp thành, sự liên hệ tác động giữa chúng làm cho vật chất vận động.- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất mà vật chất không do ai sinh ra và không bao giờ mất đi, chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác; định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng đã chứng minh điều đó.- Vận động của vật chất có nhiều hình thức khác nhau, nhưng có 5 hình thức vận động cơ bản sau:+ Vận động cơ học: Đó là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian.+ Vận động vật lý: Đó là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản: đIện từ, nhiệt + Vận động hoá học: Đó là sự vận động của các nguyên tử, sự hoá hợp và phân giải của các chất.+ Vận động sinh học: Đó là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môI trường.Khoa Sau đại học 4 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại+ Vận động xã hội: Đó là sự thay đổi, sự thay thế các quá trình vận động của các hình thái kinh tế xã hội.Năm hình thức vận động trên từ thấp đến cao, chúng khác nhau về chất nhưng có quan hệ biện chứng với nhau.Hình thức vận động cao bao hàm các hình thức vận động thấp trong đó nhưng không được lẫn lộn giữa các hình thức vận động, không được quy định hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp.Mỗi sự vật, hiện tượng bao giờ cũng được đặc trưng bởi 1 hình thức vận động tiêu biểu.- Vận động là tuyệt đối còn đứng yên là tương đối, trạng thái cân bằng của sự vật là tạm thời trong quá trình vận động của nó.1.1.2- Ý thức: Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ cảm giác cho tới tư duy lý luận trong đó tri thức là phương tiện tồn tại của ý thức. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bé não người, nó phản ánh sự sáng tạo của thế giới khách quan vào bộ não người thông qua lao động và ngôn ngữ. * Nguồn gốc của ý thức: - Nguồn gốc tự nhiên: Chính bộ óc của con người cùng với thế giới bên ngoài tác động vào bộ óc là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.- Nguồn gốc xã hội: là lao động, thực tiễn xã hội và ngôn ngữ, đó là nguồn gốc quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức. Nhờ có lao động, con người tác động vào các đối tượng, buộc các đối tượng bộc lộ đặc điểm, tính chất của nó, sau đó các đặc điểm, tính chất đó lại tác động vào bộ óc con người. Từ đó con người nhận thức được quy luật, hiện tượng của sự vật trong thế giới tự nhiên. Như vậy quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ quan của con người thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là công cụ của tư duy.Ýthức là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về ngôn ngữ thì ýthức không thể hình thành và phát triển được.* Bản chất của ý thức:Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động sáng tạo. Đây không phải là sự phản ánh đơn giản, là bản sao thụ động máy móc của sự vật. Ý thức là hình ảnh tinh thần của thế giới khách quan hình thành trong quá trình con người tác động cải tạo nó. Cho nên, ýthức con người là sự phản ánh có tính năng động sáng tạo, hay nói cách khác, ýthứclà hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Khoa Sau đại học 5 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiTính tích cực sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ: trên cơ sở cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái không thể có trong thực tế, có thể dự đoán về hiện tượng trong tương lai có thể tạo ra những ảo tưởng, những giả thuyết, những lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng khái quát . Dù sáng tạo của ý thức không đối lập, không loại trừ và không tách rời sự phản ánh, mà ngược lại thống nhất với phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của thức.1.1.3- Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:Vật chất vàý thức là hai phạm trù triết học, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó vai trò quyết định thuộc về vật chất, mặt khác ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.* Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, được thể hiện ở những mặt sau đây:- Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định sự hình thành của ý thức;- Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Bởi vì ý thức của chúng ta là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, nó là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.- Vật chất quyết định sự biến đổi, sự phát triển của ý thức: Bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trong điều kiện tự nhiên thay đổi, quan hệ vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo.- Vật chất là điều kiện để hiện thực hoá ý thức: Mỗi một cá nhân, mỗi một tổ chức đều có những ý niệm và mục đích riêng, do đó phải có vật chất thì những ý nguyện đó mới thành hiện thực.* Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thông qua sự chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, được diễn ra theo 2 chiều hướng: - Hướng thứ nhất: Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, trên cơ sở đó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người và đưa hoạt động thực tiễn của con người đi đến thành công.- Ngược lại, nếu ý thức không phản ánh đúng hiện thực khách quan mà dùa vào đó để chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người thì sẽ làm cho hoạt động thực tiễn của con người mang tính chủ quan, duy ý chí, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến mù quáng.1.2- Yêu cầu của nguyên tắc phương pháp luận “tôn trọng khách quan và phát huy tính năng động chủ quan” trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn:Khoa Sau đại học 6 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại- Xuất phát từ thực tế khách quan tức là phải xuất phát từ bản thân sự vật với tất cả các đặc tính, các thuộc tính của sự vật và các quan hệ của nó để tìm ra bản chất, ra xu hướng vận động phát triển theo quy luật. Từ đó rút ra kết luận về sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó mà đề ra phương hướng và các giải pháp tác động cải biến sự vật, thế giới tự nhiên phục vụ lợi ích của con người, không được áp đặt ý muốn chủ quan của chủ thể nhận thức vào sự vật.- Phát huy tính năng động chủ quan trước hết là phát huy tính tích cực sáng tạo của ý thức trong quá trình phản ánh sự vật, hiện tượng để tìm ra bản chất quy luật của nó và đề ra đường lối, biện pháp cải biến nó phục vụ lợi ích con người. Phát huy tính năng động chủ quan còn có nghĩa là không thụ động ngồi chờ điều kiện chín muồi mới hành động mà trái lại phải biết tạo ra những điều kiện thích hợp, làm cho điều kiện này tác động vào điều kiện khác để nảy sinh ra điều kiện cần thiết cho hoạt động của con người.- Vai trò của ý thức về thực chất là nói tới vai trò của con người, ý thức là ý thức của con người nhưng bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực, cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn, phải có ý chí và phương pháp để tổ chức hành động; ý thức tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện cụ thể, điều kiện khách quan nhất định.- Ý thức của con người không tách rời điều kiện vật chất, con người phải biết dựa vào vào những điều kiện vật chất đã có và phản ánh đúng quy luật khách quan một cách chủ động sáng tạo với ý chí và nhận định cao, một mặt phải chống chủ quan duy ý chí, mặt khác phải chống bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ thụ động, trông chờ, ỷ lại.Khoa Sau đại học 7 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiCHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC “TÔN TRỌNG KHÁCH QUAN, PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN” Ở VIỆT NAM HIỆN NAY2.1 Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan ở Việt Nam giai đoạn trước năm 1986. Mô hình kinh tế của nước ta trong giai đoạn này là mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp mà biểu hiện của nó là :- Nền kinh tế phi thị trường, tuyệt đối hóa vai trò của thành phần kinh tế XHCN dưới hai hình thức kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể [ hai chủ lực ]- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng.- Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, việc phân bổ nguồn lực để sản xuất chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu trong nền kinh tế thị trường.- Áp đặt nóng vội, giản đơn các chính sách, biện pháp hành chính để đẩy nhanh tiến độ cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế còn lại với mục tiêu không phải để huy động, phát triển, mà hạn chế, thu hẹp, thậm chí xóa bỏ các thành phần kinh tế “phi XHCN”- Chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.Kết quả là thành phần kinh tế XHCN [quốc doanh và tập thể] tăng nhanh về số lượng, quy mô và phạm vi hoạt động mở rộng nhưng hiệu quả kinh doanh thấp và ngày càng giảm2.2 Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan ở Việt Nam hiện nay.2.2.1 Quan điểm của Đảng về vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan.Ở Việt Nam, trong khoảng 10 năm sau khi thống nhất đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta nôn nóng, tách rời hiện thực, vi phạm nhiều quy luật khách quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nên đã vi phạm những sai lầm trong việc xác định mục tiêu, xác định các bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chủ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Đánh giá về mức độ sai lầm do chủ quan duy ý chí của Đảng trong thời kỳ này, Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ Đảng đã “nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”, “giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới có chặng đường đầu tiên”. Do chủ quan duy ý chí, trong nhận thức và hành động của Đảng trong giai đoạn này vi phạm các quy luật Khoa Sau đại học 8 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạikhách quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể được Văn kiện Đại hội Đảng lần VI đánh giá như sau: “chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian tương đối dài” nên “đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”, “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ sản xuất” nên “có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ”. Ngoài ra, cũng do chủ quan duy ý chí trong việc dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, “duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp” – một cơ chế “gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí”, “có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả tiền lương, tiền tệ” cùng với việc “bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là sản xuất và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế ” nên dẫn đến việc sản xuất chậm phát triển, mâu thuẩn giữa cung và cấu ngày càng gay gắt do việc áp dụng những chính sách, chủ trương trên đã vi phạm những quy luật khách quan của nền kinh tế sản xuất hàng hóa [quy luật cung cầu quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, phá sản …]. Việc bỏ qua không thừa nhận và vận dụng những quy luật khách quan của phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa vào việc chế định các chủ trương chính sách kinh tế làm cho nền kinh tế nước ta bị trì trệ khủng hoảng trầm trọng.Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, rút kinh nghiệm từ những sai lầm do chủ quan duy ý chí, từ Đại hội VI của Đảng [1986] Đảng đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm trong thực tiễn cách mạng ở nước ta là muốn đảm bảo thành công thì phải vận dụng đúng nguyên tắc khách quan “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng” [Văn kiện Đại hội Đảng lần V]. Đây là sự thừa nhận vai trò quyết định của vật chất và các quy luật khách quan vốn có của nó trong việc đề ra các chế định, chủ trương, chính sách vào thực tế của công cuộc xây dựng đất nước ta.Với quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, từ sau Đại hội Đảng lần VI đến nay, nhiều biện pháp khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí đã được thực hiện mà đầu tiên là việc Đại hội VI đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Đại hội VI xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: "Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn toàn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".Khoa Sau đại học 9 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiTrong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tôn trọng nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất, Đại hội VI đã xác định phải điều chỉnh lại các cơ cấu này theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóaVề cơ chế mới quản lý kinh tế, trước đây trong các văn kiện Đại hội Đảng chỉ nêu nhiệm vụ "xây dựng nền kinh tế hàng hóa", thì nay nói rõ và đầy đủ hơn: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước" [Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội]. Theo Đại hội VI, cơ chế quản lý kinh tế có 2 đặc trưng: "Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế về quản lý kinh tế". Vì vậy, chúng ta phấn đấu thi hành chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp và xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế.Vấn đề phân phối đã được chú trọng hơn trong quan hệ sản xuất bằng việc thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Đồng thời với các đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, việc đổi mới bắt đầu từ việc Đảng phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực, trình độ lý luận của Đảng để nhận thức đúng và hành động đúng phù hợp với hệ thống các quy luật khách quan. Đồng thời với việc đổi mới tư duy lý luận, việc tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ khoa học kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý và tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới và kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị … là những biện pháp nhằm từng bước sửa chữa sai lầm và khắc phục bệnh của chủ quan duy ý chí.Thời gian đầu sau Đại hội X, đất nước phát triển thuận lợi, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới [WTO].Nhưng từ cuối năm 2007, đầu năm 2008, kinh tế và đời sống gặp nhiều khó khăn.Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, “đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục.”Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa bền vững: chất lượng, hiệu Khoa Sau đại học 10 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiquả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước, một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch.Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội.Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố nhưng chưa được phát huy đầy đủ.Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả được nâng lên tuy vậy vẫn chưa theo kịp được yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước.Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục.Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đảng ta đã rút ra một số kinh nghiệm sau:Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, “phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”Hai là, “phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững”, nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước.Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước, chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mời.Thực tế hiện nay, Văn kiện Đại hội XI đã nhận định, hơn 20 năm qua, “Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Chúng ta đã thực hiện thành công chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực ” tuy nhiên “nước ta vẫn đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau và diễn biến phức tạp không thể xem thường”. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Đảng ta chủ trương: “Tăng cường huy động phải gắn với sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời với xây dựng, hoàn thiện quan hệ Khoa Sau đại học 11 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạisản xuất, củng cố và tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa”, muốn vậy phải “tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triểm kinh tế nhanh, bền vững ” để đến năm 2020 “nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”Xuất phát từ thực tế khách quan trên, Đảng ta cũng cần tôn trọng quy luật khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình. Trong việc ban hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, các chương trình, kế hoạch đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã rút ra kết luận mang tính định hướng là: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng khách quan”Hiện nay, thực trạng trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấy cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội chưa đầy đủ, vững chắc, đời sống của nhân dân chưa cao, trong khi chúng ta có nhiều tiềm năng cả về tài nguyên thiên nhiên, con người cũng như các quan hệ trong và ngoài nước mà chúng ta chưa khai thác được một cách tốt nhất thì việc Đảng và nhà nước chủ trương thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ trương thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm phát huy tối ưu tài lực, trí lực, nhân lực còn tiềm tàng ấy, nhằm tạo ra sự chuyển hóa về chất trong toàn bộ đời sống xã hội để đáp ứng nhu cầu mà thực tiễn cách mạng Việt Nam đang đặt ra.2.2.2. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay.Trước năm 1986, mô hình kinh tế của Việt Nam là mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp với 4 đặc điểm cơ bản sau:Về sở hữu, nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 là nền kinh tế dựa trên chế độ sở hữu thuần nhât [công hữu về tư liệu sản xuất] với hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước [quốc doanh] và kinh tế tập thể. Các thành phần kinh tế khác không được thừa nhận.Về cơ chế vận hành, nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Theo đó, mọi hoạt động từ sản xuất tới tiêu dùng đều do nhà nước quyết định. Nhà nước định lượng cho sản xuất, định lượng phân phối cho tiêu dùng. Kế hoạch hóa là công cụ trung tâm của nền kinh tế. Khi nó đã được ban hành thì có tính chất bắt buộc thực hiện vô điều kiện đối với tất cả các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ thị trường không hề được coi trọng.Khoa Sau đại học 12 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiVề quản lý nhà nước, nhà nước trực tiếp quản lý mọi hàng hóa và giá cả trên thị trường có tổ chức. Nhà nước quy định giá mua cũng như giá bán đối với hầu hết các loại hàng hóa. Hàng hóa không được tự do lưu thông. Đất đai, vốn, sức lao động không được coi là hàng hóa nên không được mua bán trên thị trường.Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 là nền kinh tế khép kín, chỉ giao lưu buôn bán với các nước xã hội chủ nghĩa.Sở dĩ có sự tồn tại của một nền kinh tế với những đặc điểm như vậy là do đặc điểm lịch sử đặc biệt của Việt Nam trước năm 1975: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa kháng chiến thống nhất đất nước, giành độc lân tộc. Trong bối cảnh đó, một nền kinh tế như thế đã góp phần tích cực vào việc huy động toàn bộ sức người sức của cho kháng chiến. Mọi lợi ích cá nhân đều được gác lại vì mục tiêu cao cả độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, sau năm 1975, khi đất thống nhất thì nền kinh tế với những đặc điểm đó đã không còn phù hợp với tình hình mới nữa và bắt đầu bộc lộ những hạn chế và yếu kém của nó. Hệ thông quản lý tập trung đã tỏ ra thiếu đồng bộ và kém hiệu quả về mọi mặt. Cơ chế hành chính thái quá đã dẫn tới căn bện quan liêu bao cấp mà tới tận ngày nay, sau hơn 20 năm đổi mới chúng ta vẫn còn phải nỗ lực khắc phục nó. Đồng thời, cơ chế hành chính quan liêu cũng làm hạn chế khả năng nắm bắt và vận dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế. Nền kinh tế thủ tiêu vai trò của thị trường đã dẫn tới xóa bỏ cạnh tranh – một động lực to lớn của sản xuất kinh doanh.Những hạn chế đó, cùng với một nền kinh tế gần như kiệt quệ sau sự tàn phá của chiến tranh đã khiến nên kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng, trì chệ về mọi mặt. Cụ thể, ngay trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm 1976 – 1980, tốc đô tăng trưởng kinh tế đã rất thấp [chỉ đạt 0,4 %/năm so với kế hoạch đề ra là 13 – 14 %]; thiếu lương thực [lương thực quy thóc giảm từ 274kg/người năm 1976 xuống 268kg/người năm 1980], phải nhập khẩu gần 1 triệu tấn lương thực mỗi năm; làm phát lên tới 20%/năm; kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 1/5 kim ngạch nhập khẩu. Sau cải cách giá, lương, tiền tháng 9 năm 1985, giá cả hàng hóa biến động mạnh, hoạt động tiền tệ hỗn loạn, lạm phát lên tới mức ba con số [chí số giá năm 1986 tăng gần 800%]Trong khi đó, trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang đứng trước nguy cơ tan rã với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, mở cửa đang diễn ra trên phạm vi toàn thê giới.Khoa Sau đại học 13 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiThực tiễn khách quan đó cho thấy mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã không còn phù hợp với tình hình mới và cần có những thay đổi. Việc đánh giá và nhận diện thực trạng những vấn đề cốt lõi của nền kinh tế kém hiệu quả trước năm 1986 là nắm bắt những hiện tượng kinh tế trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội để đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế; định hướng những giải pháp đồng bộ, khả thi theo nguyên tắc tôn trọng khách quan phát huy tính năng động chủ quan. Trước đổi mới, chúng ta đã có những nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn trong công cuộc xáy dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau đại hội đảng VI năm 1986, vấn đề này đã được nhìn lại một cách toàn diện để có những đổi mới trong tư duy cũng như thực tiễn xây dựng mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang theo đuổi. Chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng xác định: kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở giai đoạn cao, trong đó yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” đều thông qua thị trường. Các chủ thể kinh tế đều chịu sự tác động quy luật thị trường và thái độ ứng xử của họ đều tìm kiếm lợi ích cho mình thông qua sự điều tiết của giá cả. Vận dụng bài học tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan, để thực hiện được tư duy đổi mới đó, cần phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện nó. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Tôn trọng khách quan luôn gắn liền với việc phát huy tính năng động chủ quan. Chuyển đổi kinh tế sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thực tế khách quan. Tuy nhiên, trong quá trình đó, không thể dập khuân máy móc theo mô hình của bất Khoa Sau đại học 14 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạikỳ nước nào [như trước kia chúng ta lấy mô hình của Liên Xô làm khuân mẫu tuyệt đối] mà có vận dụng, biến đổi cho phù hợp với những đặc điểm riêng của Việt Nam.Đảng ta thực hiện chủ trương khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng về sở hữu. Thay vì nền kinh tế chỉ có hai thành phần như trước năm 1986 thì hiện nay nền kinh tế bao gồm năm thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cả thể tiểu chủ. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế có cơ hội phát triển và bình đẳng trước pháp luật. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo hoạt động trong những lĩnh vực then chốt ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, hướng dẫn, định hướng, kích thích cho các thành phần kinh tế khác phát triển nhằm mục đích chung là phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để tạo khuân khổ pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động, nhà nước đã ban hánh, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật. Bước đột phá quan trọng là việc nhà nước mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.Về cơ chế vận hành, chúng ta đã xóa bỏ cơ chế hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Theo đó, các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh có quyền tự lựa chọn mặt hàng kinh doanh [trong khuân khổ pháp luật] mà không phải tuân theo sự áp đặt của nhà nước như trước kia. Còn người mua có quyền lựa chọn hàng hóa, số lượng, mẫu mã theo nhu cầu và khả năng thanh toán của mình [khác với việc nhà nước phân phối định lượng bình quân trong cơ chế cũ]. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp lấy hiệu quả kinh tế và lợi nhuận là mục tiêu quan trọng thay vì thể hiện ý chí của nhà nước. Giá cả hàng hóa do thị trường quyết định phụ thuộc vào các quan hệ cung cầu, cạnh tranh. Tuy nhiên, cơ chế thị trường phải đặt dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, nên kinh tế nước ta cũng được chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở cửa và hội nhập. Quan hệ kinh tế được thiết lập không chỉ với các nước Xã hội chủ nghĩa mà được mở rộng với tất cả các quốc gia trên thế giới trên cơ sở mối quan hệ hợp tác, cùng có lợi và tôn trọng nhau.Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đã mang lại cho Việt Nam rất nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế. Khoa Sau đại học 15 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiSự tham gia của nhiều thành phần kinh tế giúp chúng ta huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả hơn.Các mối quan hệ thương mại của Việt Nam cũng được mở rộng đáng kể, từng bước hội hội nhập kinh tế khu vực và đất nước. Vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Năm 2007. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.Tốc độ tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc nội [GDP] thời kỳ 1992-1997 tăng bình quân 8,75%/năm. Thời kỳ 2000-2007: 7,55%/năm. Năm 2008 và 2011 do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng GDP vẫn đạt 6,31% và 5.89%BẢNG TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG GDP GIAI ĐOẠN 2000 – 2011Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011Tốc độ tăng GDP [%]6.79 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.46 6.31 5.32 6.78 5.89Nguồn: tổng cục thống kêGDP/người/năm: 1995 là 289 USD, năm 2005 là 639 USD, năm 2007: 835 USD và năm 2008 đạt 1.024 USD.Cơ cấu thành phần kinh tế: Khu vực kinh tế nhà nước chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh chiếm 45,7% GDP. Hợp tác và hợp tác xã chiếm 6,8% GDP. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15,9% GDP.Như vậy, có thể thấy rằng: Sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn Khoa Sau đại học 16 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạikhông ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng hạn như các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về doanh nghiệp nhà nước đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng,…Hy vọng rằng từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay.2.2.3. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên lĩnh vực chính trị ở Việt Nam hiện nayÁp dụng Nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy năng động chủ quan trên lĩnh vực chính trị ở Việt Nam hiện nay:“Chính trị là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn và hết sức quan trọng, nó quyết định vận mệnh của đất nước và sự phát triển của xã hội và con người. Trình độ xử lý các tình huống chính trị một cách khoa học và nghệ thuật không chỉ đem lại sự độc lập và ổn định chính trị mà còn là điều kiện cho việc phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, phát triển con người, xây dựng và phát triển đất nước. Bản chất chính trị, lý tưởng chính trị, trình độ hoạt động chính trị hướng tới một xã hội nhân đạo, nhân văn, tất cả vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội và con người, nói lên văn hóa chính trị của một nền chính trị”Xác định “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Để lãnh đạo đất nước nắm bắt cơ hội, vượt qua khó khăn, đạt được mục tiêu cao cả đã đề ra, Đảng - người lãnh đạo đất nước, phải có một đội ngũ cán bộ có văn hóa chính trị cao, có trình độ và khả năng thực hiện các nội dung chính trị một cách văn hóa. Chính vì thế, Đảng luôn tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự đoàn kết và uy tín của Đảng trong nhân dân. Bản chất văn hoá chính trị tiến bộ cũng xa lạ với tệ quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự đoàn kết và uy tín của Đảng, củng cố, và giữ vững niềm tin trong nhân dân. Văn kiện Đại hội VII của Đảng khẳng định: "Đảng ta coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, là công việc thường xuyên bảo đảm cho Đảng ta luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng". Tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, coi trọng phản biện xã hội, mở rộng dân chủ trong tất cả các lĩnh vực, xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những tiền đề, động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng tiến triển mạnh mẽ.Phát huy những thành tựu đã đạt được, vượt qua những khó khăn, thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng tăng Khoa Sau đại học 17 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạitrưởng kinh tế, thực hiện tốt an sinh xã hội, giải quyết những tồn đọng, những vấn đề gây bức xúc trong dân hiện nay , sẽ là những yếu tố quan trọng để nâng cao hơn nữa tính văn hóa chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng, để Đảng xứng đáng với tên gọi: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh”2.2.4. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trên lĩnh vực văn hóa – xã hội ở Việt Nam hiện nay.Phát triển lĩnh vực văn hóa – xã hội là một trong những yêu cầu căn bản và quan trọng của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung. Nguyên tắc phát triển lĩnh vực văn hóa – xã hội nước ta là dựa trên nguyên tắc tôn trọng khách quan và phát huy tính năng động chủ quan. Việc vận dụng được nguyên tắc này được xem xét trên nhiều khía cạnh, tuy nhiên có thể đề cập tới một số mặt căn bản như sau:- Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng khách quan, vật chất quyết định ý thức, chúng ta đã nhận thức được sự biến đổi cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế thị trường dẫn đến biến đổi cơ cấu xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển cho các giai tầng trong xã hội. Biến đổi cơ cấu xã hội là một trong những biến đổi xã hội điển hình nhất ở Việt Nam trong đổi mới. Trước giai đoạn 1986, kinh tế Việt Nam được xây dựng theo mô hình nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, chính vì vậy kéo theo một cơ cấu kinh tế giản đơn mang nặng ảnh hưởng giáo điều về sở hữu, về một chế độ sở hữu công hữu thuần khiết, một quan hệ sản xuất mới [XHCN] trong khi lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu, chậm phát triển thì đương nhiên. Do đó cơ cấu xã hội đã hình thành theo một lối tư duy ý chí, chủ quan, không phản ánh đúng thực tế. Đó là cơ cấu chỉ giản lược vào cơ cấu giai cấp, xã hội - giai cấp, chỉ với sự hiện diện của hai giai cấp, một tầng lớp là: công nhân - nông dân - trí thức. Giản lược trong cơ cấu xã hội dẫn đến hệ quả tiêu cực là trong chính sách xã hội đã không tính đủ các thành phần, giai tầng xã hội. Không tính đủ các thành phần, các chủ thể trong cơ cấu sẽ dẫn tới sự thiếu hụt trong chính sách thụ hưởng lợi ích và thực hiện nghĩa vụ xã hội, đối với con người, những người lao động, sản xuất kinh doanh và quản lý và những đối tượng xã hội khác. Do đó làm hạn chế động lực phát triển, nảy sinh nhiều tiêu cực trong quản lý xã hội, trong các mối quan hệ giữa người và người. Xuất phát từ biến đổi của nền kinh tế chuyển từ mô hình tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu xã hội trong nền kinh tế thị trường, trong đổi mới và hội nhập đã mang một diện mạo khác. Việc đổi mới về nhận thức này của Đảng và nhà nước xuất phát từ sự thay đổi khách quan của nền kinh tế, cũng như mở rộng về nhận thức cơ cấu giai cấp. Ngoài cơ cấu xã hội - giai cấp như một bộ phận Khoa Sau đại học 18 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạicốt yếu còn có cơ cấu xã hội - dân tộc, cơ cấu xã hội - tôn giáo, cơ cấu xã hội - lao động - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - nhân khẩu, nói tóm lại, phải nhìn cơ cấu xã hội như một hệ thống đa dạng hợp thành bởi các nhóm xã hội lớn và nhỏ, nhất là theo nghề nghiệp, ngoài ra còn có cơ cấu giới, thực hiện bình đẳng giới, cơ cấu nhóm tuổi, cơ cấu thế hệ Cụ thể, hiện nay, cơ cấu xã hội ở Việt Nam là một tập hợp bao gồm các nhóm xã hội sau đây: công nhân; nông dân; trí thức; doanh nhân; thanh niên; phụ nữ; quân đội; người cao tuổi; người về hưu; tôn giáo; dân tộc [các tộc người thiểu số]; công chức, viên chức; người Việt Nam ở nước ngoài Đáng lưu ý là biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam cho thấy tính phong phú đa dạng của sự kết hợp giữa lao động - nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, thế hệ, dân tộc, tôn giáo, trong nước và ngoài nước. Đặc biệt, khi xét về các giai cấp, giai tầng trong nền kinh tế thị trường, sự hình thành tầng lớp [hay đội ngũ] doanh nhân là một tất yếu tự nhiên và là một xu hướng tích cực đối với phát triển, tôn trọng yêu cầu khách quan của thực tế. Đại hội lần thứ X đã ghi nhận các doanh nhân được phép phát triển kinh doanh “không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”1. Tầng lớp này có vị trí và vị thế quan trọng cả về kinh tế và xã hội, nhất là trong hội nhập quốc tế, và có số lượng tăng lên nhanh chóng. Năm 2011, Việt Nam có trên 600.000 doanh nghiệp, 1 triệu hộ kinh doanh cá thể, 133.000 hợp tác xã và trang trại, có tới khoảng 3 triệu hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong khu vực không chính thức không đăng ký kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế theo quy định. Bên cạnh đó, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã khách quan hoá vai trò quan trọng vốn có của công nhân và trí thức, nhất là trong xu hướng tiến tới kinh tế tri thức, xã hội thông tin và nền kinh tế dựa trên công nghệ cao trong thế giới toàn cầu hoá. Đặc biệt, khi đề cập tới sự ra đời của các giai tầng trong xã hội Việt Nam khi có sự biến động về nền kinh tế, ta không thể không đề cập tới tính năng động chủ quan đã và đang được phát huy. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần giải phóng sức sản xuất, đẩy mạnh phân công lao động, vị thế và vai trò của người lao động, các chủ hộ lao động, của doanh nghiệp và doanh nhân được khẳng định. Các thành phần kinh tế, các giai cấp tích cực và chủ động tham gia phát triển kinh tế. Đồng thời, các chính sách xã hội được mở rộng và cải thiện dựa trên sự thay đổi về cơ cấu xã hội, tăng quyền tự chủ, đảm bảo quyền lợi cho các thành phần xã hội. Nhà nước khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo luật pháp. Chính sách của nhà nước bao quát nhiều đối tượng, có chú ý thích đáng sự quan tâm của Nhà nước và cộng đồng tới các đối tượng yếu thế, thua thiệt 1 Đảng Cộng sản Việt Nam [2006], Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.87Khoa Sau đại học 19 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạitrong phát triển, bằng các biện pháp điều tiết lợi ích, các chính sách thuế, kể cả thuế thu nhập từ bộ phận có thu nhập cao. Các thể chế pháp lý đảm bảo cho sự phát triển kinh tế định hướng vào phát triển một xã hội có tăng trưởng cao đi liền với công bằng xã hội: Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật thuế và nhiều luật khác. Chính sách xã hội không thụ động đi sau chính sách kinh tế, trái lại nó gắn liền với kinh tế, thúc đẩy kinh tế trong khi vẫn chịu sự chi phối từ tiềm lực vật chất của kinh tế. Với đổi mới và kinh tế thị trường, chính sách kinh tế và chính sách xã hội gắn liền với nhau trong một thể thống nhất, tạo ra sự thống nhất kinh tế - xã hội với xã hội - kinh tế vì mục tiêu phát triển con người và xã hội, cá nhân và cộng đồng.- Thứ hai, Đảng và nhà nước nhận ra vai trò quan trọng khách quan của giáo dục trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Đổi mới giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc. Theo thống kê hiện nay cả nước có hơn 1,8 triệu người có trình độ đại học và cao đẳng, 16 nghìn thạc sỹ, 14 nghìn tiến sỹ, trong đó lực lượng chuyên nghiệp trực tiếp làm công tác nghiên cứu là khoảng 40 nghìn người. Số cán bộ độ tuổi 30 – 40 và độ tuổi 40 – 50 ở các viện, trường đại học phát triển nhanh chóng. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý khoa học, công nghệ có đổi mới, thực hiện cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ. Thị trường khoa học, công nghệ bước đầu hình thành. Đầu tư cho khoa học, công nghệ được nâng lên. Giáo dục góp phần quan trọng trong việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho con người xã hội chủ nghĩa phát huy được tính năng động chủ quan. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng con người tại Đại hội XI [tháng 1-2011] được khẳng định rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh Khoa Sau đại học 20 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạiphúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá Việt Nam”2. Con người xã hội chủ nghĩa, phát huy tính năng động chủ quan của con người xã hội chủ nghĩa kết hợp với tôn trọng khách quan là chìa khóa thành công trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. KÉT LUẬNTrong thời kì đổi mới của nước ta, khi chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh thần 2ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tr76-77.Khoa Sau đại học 21 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mạicủa nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, chế độ XHCN ngày càng củng cố và đất nước đó ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và đang có những bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nhà xuất bản chính trị - Hành chính, năm 2010.[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà NộiKhoa Sau đại học 22 Nhóm1_CH18A.QLKTThảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại[3]. Đảng cộng sản Việt Nam , Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội[4]. Đảng cộng sản Việt Nam , Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.Khoa Sau đại học 23 Nhóm1_CH18A.QLKT

Page 2

-->

Website: //www.docs.vn Email : [email protected] Tel [: 0918.775.368Lời mở đầuLạm phát là một hiện tợng đặc thù của hệ thống,nó diễn ra trong bất kìhệ thống nào.Là một hiện tợng kinh tế vĩ mô phổ biến nên nó ảnh hởng rộnglớn đến các mặt của đời sống kinh tế hiện đại.trong những thập kỉ qua ,đặcbiệt là sau 1970 hầu hết các nớc công nghiệp phát triển đều phải đơng đầuVới tình trạng lạm phát cao, kéo dài và ngay cả những nớc kém pháttriển cũng bị ảnh hởng, thâm chí siêu lạm phát. Nh Mỹ Latinh vào nhữngnăm 1980-1982 do khủng hoảng nợ . Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy luân chuyển của thị trờng.Trong những giai đoạn chuyển đổi từ mô hình kế hoạch hoá tập trungsangkinh tế thị trờng đều phải trải qua lạm phát cao. Nhất là trong quá trình hộinhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.Sau khi đợc học môn kinh tế chính trị, có sự hiểu biết và nhận thức đúngvề lạm phát tiền tệ, em xin chọn đề tài Lý luận về lạm phát tiền tệ, thựctrạng và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay để nghiên cứu làm đề tài Kinhtế chính trị. 1

Website: //www.docs.vn Email : [email protected] Tel [: 0918.775.368

Nội DungA. Cơ sở lý luận về lạm pháp và tiền tệ.I. Cơ sở lí luận về lạm phát.1.1. Lạm phátLạm phát đợc định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung.Điều này không có nghĩa là giá cả của mọi hàng hoá và dịch vụ đồng thờiphải tăng lên theo cùng một tỉ lệ mà chỉ cần mức giá trung bình tăng.Lạm phát cũng có nghĩa là sự suy giảm sức mua trong nớc của đồng nộitệ.Mỗi nớc có một tình trạng lạm phát riêng không giống nhau.Lạm phát tiền tệ đợc hiểu là mức tiền cung ứng cho lu thông vợt quámức cần thiết ,biểu hiện là sự mất giá chung của dồng bản tệ.Có nghĩa là tạithời điểm lạm phát đẻ mua cho một mặt hàng cố định thì cần dùng một lợngtiền nhiều hơn so với thời điểm không xảy ra lạm phát.hay nói khác là trongbối cảnh lạm phát thì một đơn vị tiền tệ mua đợc ít hàng hoá và dịch vụhơn,và sẽ phải chi nhiều đồng nội tệ hơn để mua một giỏ hàng hoá và dịch vụcố định.1.2 Phân loại lạm phátDựa theo tính chất,mức độ và tỉ lệ lạm phát chúnh ta có thể phân lạmphát ra làm 3 loại :lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.Lạm phát vừa phải :đợc đặc trng bởi giá cả tăng chậm có thể dự đoán tr-ớc đợc. Đối với các nớc đang phát triển lạm phát ở mức một con số thờng đợccoi là lạm phát vừa phải. Đó là mức lạm phát mà bình thờng nền kinh tế trảiqua và ít gây tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, mọi ngờivẫn sẵn sàng giữ tiền để thực hiện giao dịch và kí các hợp đồng dài hạn tínhtheo đồng nội tệ vì họ tin rằng giá và chi phí của hàng hoá mà họ mua và bánsẽ không chênh lệch quá xa.Lạm phát phi mã là lạm phát trong phạm vi hai con số một năm, thờngđợc coi là lạm phát phi mã. Việt Nam và hầu hết các nớc chuyển đổi từ nền2

Website: //www.docs.vn Email : [email protected] Tel [: 0918.775.368

kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trờng đều phải đối mặt với lạm phát phimã.Lạm phát phi mã chỉ xảy ra khi giá cả tăng tơng đối nhanh. Khi loại lạmphát này hình thành một cách vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tếnghiêm trọng.Trong bối cảnh đó đồng tiền bị mất giá rất nhanh, cho nên mọi ngời chỉgiữ một lợng tiền tối thiểu cho các giao dịch hàng ngày.Và mọi ngời có xu h-ớng tích trữ hàng hoá, mua bất động sản, ngoại tệ mạnh để làm phơng tiệnthanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích trữ của cải.Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột ngột tăng lên với tốc độ cao vợtxa lạm phát phi mã, ở mức trên 300%. Điển hình là lạm phát ở Đức năm1922-1923 là hình ảnh siêu lạm phát nổi bật nhất trong lịch sử siêu lạm phátthế giới, giá cả tăng từ 1 đến 10 triệu lần. Siêu lạm phát xảy ra thờng gây ranhững thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc. Nó phá vỡ quy luật lu thông tiền tệ,lu thông hàng hoá gặp nhiều khó khăn, xã hội đầy những tiêu cực, nền kinhtế trì trệ không thể phát triển đợc.ở Việt Nam điển hình của siêu lạm phát là thời kì 1986-1988 lạm phátđã ở mức 3 con số và ở mức cao. Đây là giai đoạn đặc trng của nề kinh tế tậptrung quan liêu bao cấp.1.3. Đo lờng lạm phát.Để đo lờng mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kìnhất định, các nhà thống kê sử dụng chỉ tiêu lạm phát đợc tính bằng phầntrăm thay đổi của mức giá chung.Công thức:%10011xPtPtPtt=IIt: tỉ lệ lạm phát của thời kì tPt: mức giá thời kì tPt-1: mức giá của thời kì trớc đó.3

Website: //www.docs.vn Email : [email protected] Tel [: 0918.775.368

Ngoài ra các nhà kinh tế còn sử dụng chỉ số điều chỉnh GDP[ DGDP] vàchỉ số giá tiêu dùng [CPI] để đo lờng mức giá chung. Tuy nhiên nếu mục tiêulà xác định ảnh hởng của lạm phát về mức sống thì chỉ số tiêu dùng tỏ rathích hợp hơn. Trong thực tế các số liệu công bố chính thức về lạm phát th-ờng đợc tình trên cơ sở CPI.1.4. Nguyên nhân gây ra hiện tợng lam phát:Có 3 nguyên nhân chính là do cầu kéo, do chi phí đẩy và do lạm phát ỳ.1.4.1. Lạm phát do cầu kéo:Xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lợng đã đạt mức tự nhiên hoặcvợt quá mức tự nhiên. Nguyên nhân của tình trạng d cầu đợc giải thích donền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng lực sản xuất.Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhucầu về tiêu dùng, đầu t.Ví dụ: có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng, giá cảcủa những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát tăng lên và ngợc lại.Trong nhiều trờng hợp lạm phát thờng bắt nguồn từ sự gia tăng quá mứctrong các chơng trình, chỉ tiêu chính phủ, khi chính phủ quyết định tăng chitiêu cho tiêu dùng và đầu t nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng thì giá cả sẽ tăng vàngợc lại.Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên hàngxuất khẩu tác động tới lạm phát trong nớc theo một cách khác: khi nhu cầuxuất khẩu tăng lợng còn lại để cung ứng trong nớc giảm và do vậy làm tăngmức giá trong nớc.Ngoài ra nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây lạmphát đặc biệt trong chế độ tỉ giá hối đoái cố định.1.4.2. Lạm phát do chi phí đẩyLạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lêntrong toàn bộ nền kinh tế. Trong dồ thị tổng cầu tổng cung, một cú sốc nhvậy sẽ làm đờng tổng cung dịch chuyển lên trên sang bên trái. Trong bốicảnh đó mọi biến cố kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế dều biến động theo chiều4

Website: //www.docs.vn Email : [email protected] Tel [: 0918.775.368

hớng bất lợi: sản lợng giảm ,thất nghiệp và lạm phát đều tăng, chính vì vậylạm phát nay đợc gọi là lạm phát chi phí đẩy.Ba loại lạm phát có thể gây ra chi phí đẩy là: tiền lơng ,tiền thuế giánthu và giá nguyên vật liệu nhập khẩu. 1.4.3. Lạm phát ỳ: Trong nền kinh tế hiện đại lạm phát vừa phải có xu hớng ổn định theothời gian. Hàng năm mức giá tăng lên theo một tỉ lệ khá ổn định. Tỉ lệ lạmphát này đợc gọi là lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn đợc dự tính tr-ớc và tính đến khi thoả thuận về cá biến danh nghĩa đợc thanh toán trong t-ơng lai .chúng ta có thể coi đó là tỉ lệ lạm phát cân bằng trong ngắn hạn vànó sẽ dợc duy trì cho đến khi cá cú sốc tác động đến nền kinh tế.1.5. Những tổn thất xã hội của lạm phát.1.5.1. Đối với lạm phát đợc dự tính trớc: Lạm phát hoàn toàn đợc tính trớc, khi xảy ra lạm phát đúng nh dự địnhthì chúng ta có thể hạn chế đợc những tổn thất do lạm phát gây ra.Thứ nhất:lạm phát hoạt động giống nh một loại thếu đánh vào nhữngngời giữ tiền và đợc gọi là thuế lạm phát. Thâm hụt chính phủ đợc tính bằngsự chênh lệch giữa chi tiêu và thu nhập thuế chính phủ. Chính phủ có thể inđúc tiền và khi in tiền mới chính phủ đã đánh thuế lạm phát. Lợng tiền đợccung ứng nhiều hơn gây ra lạm phát , làm giảm giá trị của đồng tiền dang luhành và thuế lạm phát gây ra tổn thất cho xã hội.Lạm phát làm tăng lãi suất danh nghĩa do đó làm giảm nhu cầu về tiền.Sự bất tiện của việc gĩ tiền hơn tạo nen chi phí mòn giày, việc đến ngân hàngnhiều làm cho giày bạn chóng mòn nhanh hơn.Thứ hai: lạm phát có thể gây ra những thay đổi không mong muốn tronggiá tơng đối. Trong chừng mực ma mà lạm phát gây ra sự thay đổi giá cảkhông đều và đó làm thay đổi giá tơng đối, thì sức mạnh của thị trờng bị hạnchế và nội dung tuyền đạt thông tin của giá cả bị suy giảm.Thứ ba: lạm phát có thể lám thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhântrái vối ý định của ngời làm luật.thực tế cho rằng thuế thờng không tính đến5

Website: //www.docs.vn Email : [email protected] Tel [: 0918.775.368

tác động của lạm phát và do vậy mọi ngời phải nộp thuế cao hơn ngay cả khithu nhập của họ không đổi.1.5.2. Lạm phát không dự tính trớc.Lạm phát có một tác hại lớn là khi nó bất ngờ xaỷ ra ngoài dự tính.Lạmphát bất ngờ phân phối lại thu nhập lại của cải của xã hội khi có lạm phát thìtỉ lệ lạm phát thờng lớn hơn tỉ lệ lạm phát dự tính, điều đó có nghĩa là ngờitiết kiệm có thu nhập thấp hơn dự tính ban đầu, trong khi ngời di vay trả vốngốc và tiền lãi bằng những đồng tiền kém giá trị hơn so với ban đầu.Trên thực tế lạm phát cao thờng có xu hớng biến động mạnh và khó dựđoán trớc, gây ra những bất định cho các hoạt động tiết kiệm và đàu t và dođó không có lợi cho tăng trởng kinh tế dài hạn.II. Tiền tệ.2.1. Khái niệm và bản chất.Tiền tệ là bất cứ cái gì đợc chấp nhận chung trong việc thanh toán để lấyhàng hoá hay dịch vụ hoặc trong việc hoàn trả món nợ.Bản chất của tiền đợc nhắc tới trong chức năng của tiền.2.2. Chức năng và phân loại tiền tệ.2.2.1. Chức năng của tiền tệ: gồm ba chức năng.Là phơng tiện trao đổi, là một vật đợc mọi ngời chấp nhận để đổi lấyhàng hoá và dịch vụ.Là phơng tiện cất giữ giá trị: ngời ta có thể qui ra những giá trị hiện vậtra thành tiền để cất giữ đơn giản và tiện lợi.Là đơn vị hạch toán vì đã đợc chấp nhận rộng rãi trong mọi giaodịch.Mọi ngời sử dụng một đơn vị tiền tệ chung để niêm yết và ghi các khoảnnợ.2.2.2. Phân loại: -Tiền hàng hoá:đó là khi muối, vỏ sò, kim loại, vàng, tồn tại dới hìnhthức một hàng hoá cố hữu thì tiền đợc gọi là tiền hàng hoá-Tiền pháp định: là loại tiền tạo ra nhờ một pháp lệnh của chính phủ6

Page 3

Video liên quan

Chủ Đề