Sang thương nghĩa là gì

Nang nhân xơ tuyến vú là bệnh lý thường gặp ở phụ nữ, đặc biệt là trong độ tuổi từ 30-50 và có xu hướng mất đi sau mãn kinh. Để đánh giá tình trạng nang tuyến vú lành tính hay ác tính bác sĩ thường chỉ định xét nghiệm cận lâm sàng siêu âm vú, từ đó đưa ra nhận định và phác đồ điều trị hợp lý.

Phân loại Birads mammography được đưa ra bởi Hiệp hội điện quang Mỹ [ACR] nhằm chuẩn hóa việc chẩn đoán, tiên lượng nguy cơ ác tính cũng như thái độ xử trí thích hợp đối với các trường hợp siêu âm tuyến vú. Siêu âm vú sau khi chụp X-quang rất cần thiết đối với phụ nữ [đặc biệt là ở người trẻ] nhằm tránh bỏ sót các trường hợp tổn thương không vi vôi hóa trên nền vú đặc. Đây cũng là phương pháp an toàn khi không sử dụng tia X, có thể sử dụng rộng rãi với người trẻ, trẻ em và phụ nữ mang thai những vấn đặc biệt hữu ích vì cho thông tin về giải phẫu tốt hơn.

Để phân loại Birads cần dựa vào các dấu hiệu lành tính và ác tính được gợi ý qua các đặc điểm sau:

1.1. Dấu hiệu gợi ý lành tính

  • Hình bầu dục
  • Chiều hướng song song
  • Đường bờ rõ ràng
  • Thương tổn giới hạn mặt ngăn cách rõ và mỏng với mô lành kế cận
  • Cấu trúc hồi âm: hồi âm trống [nang], hồi âm dày, thay đổi phía sau [tăng âm] và vôi hóa

Siêu âm vú để phát hiện và phân loại Birads tuyến vú

1.2. Dấu hiệu gợi ý ác tính

  • Hình dáng không đều hoặc tròn
  • Chiều hướng không song song
  • Đường bờ không rõ, có tua gai, gập góc hoặc đa cung nhỏ
  • Giới hạn tổn thương có viền hồi âm dày
  • Cấu trúc hồi âm rất kém hoặc hỗn hợp
  • Thay đổi phía âm sau tạo bóng lưng phía sau
  • Vôi hóa
  • Siêu âm Doppler thấy tưới máu u
  • Hạch di căn có đường kính ngắn trên 1cm, dày vỏ hạch trên 3mm, mất rốn hạch, tưới máu ngoài rốn hạch, bờ đa cung

Bảng phân loại Birads gồm có 7 mức độ từ 0-6 tương ứng với hình ảnh siêu âm đi từ lành tính tới ác tính trong siêu âm tuyến vú:

  • Birads-0: hình ảnh chưa hoàn thiện, cần đánh giá thêm
  • Birads-1: tổ chức tuyến vú bình thường
  • Nang tuyến vú Birads-2: nang tuyến vú lành tính [nang điển hình, nốt hồi âm dày]
  • Nang tuyến vú Birads-3: nốt tổn thương có thể lành tính [u sợi tuyến]
  • Nang tuyến vú Birads-4: nghi ngờ ác tính nên cần phải sinh thiết, trong đó chia làm 3 mức độ: 4A: mức độ nghi ngờ thấp, 4B: mức độ nghi ngờ trung gian, 4C: mức độ nghi ngờ vừa phải.
  • Nang tuyến vú Birads-5: rất gợi ý ác tính, cần sinh thiết ngay
  • Nang tuyến vú Birads-6: ác tính đã biết qua giải phẫu bệnh, tiếp tục điều trị

Có 7 mức độ phân loại Birads

Các trường hợp u nang tuyến vú Birads 1-2 thường là lành tính nhưng người bệnh nên theo dõi và tầm soát ung thư vú định kỳ hàng năm. Nếu được chẩn đoán Birads-3 khả năng ác tính chỉ khoảng 2% nhưng cũng cần tầm soát ung thư mỗi 6 tháng. Tỷ lệ ung thư đối với Birads-4 lên tới 23-34% cần phải làm sinh thiết để chẩn đoán bệnh. Trường hợp Birads-5 tỷ lệ ác tính đã lên tới 95% và Birads-6 là khi đã xác định chắc chắn ung thư vú.

Nhóm phụ nữ cần kiểm tra định kỳ hàng năm đối với ung thư vú gồm có:

  • Phụ nữ trên 40 tuổi hoặc phụ nữ có kinh nguyệt sớm [dưới 12 tuổi], mãn kinh muộn [55 tuổi]
  • Tiền sử gia đình có người trẻ bị ung thư vú
  • Môi trường sinh sống và làm việc thường xuyên tiếp xúc với các chất độc hại [hóa chất, phóng xạ]
  • Tự khám vú phát hiện u cục, bất thường
  • Phụ nữ hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, béo phì
  • Phụ nữ dùng thuốc tránh thai, liệu pháp thay thế hormone

Để hạn chế tình trạng ung thư vú thì phụ nữ cũng nên sinh con sớm, đồng thời cho con bú đều đặn. Phụ nữ ở mọi độ tuổi nên duy trì lối sống lành mạnh, tập thể dục đều đặn và duy trì cân nặng hợp lý.

Duy trì lối sống lành mạnh để hạn chế tình trạng ung thư vú

Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến ở nữ giới. Bệnh có thể được chẩn đoán nhờ các phương pháp chẩn đoán, xét nghiệm. Theo đó, nếu bệnh ung thư vú có thể được phát hiện sớm thì việc điều trị sẽ đem lại tiên lượng cao cho người bệnh. Do đó với các đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh cần sớm tầm soát ung thư vú định kỳ để nâng cao cơ hội điều trị bệnh.

Hiện nay, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec đã và đang triển khai Gói tầm soát ung thư vú dành cho các đối tượng là phụ nữ ở nhiều độ tuổi khác nhau. Tại Vinmec có đầy đủ trang thiết bị y tế cần thiết để thực hiện các phương pháp thăm khám, chẩn đoán, xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, điều trị ung thư vú.

Theo đó, quy trình thăm khám và điều trị tại Vinmec đều được thực hiện bởi đội ngũ y bác sĩ có chuyên môn cao, đã trải qua đào tạo và được cấp chứng chỉ kỹ thuật, có thể xử lý nhanh và hiệu quả. Vì thế khi sử dụng gói tầm soát và phát hiện sớm ung thư vú của Vinmec, Quý khách hàng có thể phát hiện được bệnh lý ung thư ngay cả khi chưa có triệu chứng.

Để được tư vấn chi tiết về gói tầm soát ung thư vú cũng như các phương pháp điều trị bệnh hiệu quả tại Vinmec, quý khách vui lòng đến trực tiếp hệ thống y tế Vinmec trên toàn quốc hoặc đăng ký khám trực tuyến TẠI ĐÂY.

XEM THÊM:

Hỏi - 23/03/2016
Em năm nay 23 tuổi chưa lập gia đình. Cách đây 2 năm em có đi phẫu thuật u vú [u vú tuyến sợi lành tính]. Vừa rồi em đi khám lại thì kết quả siêu âm thế này: Mô tuyến sợi: Dày trung bình. Mật độ Echo: Đồng nhất. Sang thương khu trú: Vú[p]: Rải rác có vài khối echo kém đồng nhất đk từ 4->6mm, bờ đều, trục ngang, giới hạn rõ, không vi vôi hóa, không tăng sinh mặt máu kích thước: Từ 4->9mm Vú[T]: Rải rác có vài khối tương tự đk từ 4->9mm Hạch vùng: Không thấy Kết luân: Sang thương 2 vú nhóm 3Bác sĩ hẹn em đi hội chuẩn vú nhưng đến ngày em tới bệnh viện thì được báo em không cần hội chuẩn. Cho em hỏi em có nguy cơ bị ung thư vú không? Bị như vậy có cần phải uống thuốc gì không? Đi khám thì bác sĩ không cho thuốc gì cả.

Trả lời
Chào em,

U sợi tuyến vú là một bệnh lý lành tính. Và không là nguy cơ của ung thư vú. Một số nguy cơ ung thư vú như: Tuổi; tuổi bắt đầu hành kinh; tuổi mãn kinh; tiền sử gia đình; thời gian cho con bú; TC sử dụng thuốc tránh thai keó dài; có sử dụng nội tiết thai thế; BMI cao,…Nếu em không có những yếu tố nguy cơ trên, thì cũng không cần quá lo lắng. Tuy nhiên, trong trường hợp của em dù đã phẩu thuật bóc trọn khối u, tuy nhiên vẫn còn khối nhỏ vẫn phải được theo dõi mỗi 6 tháng - 1 năm.

Thân mến,

BS. CKII Trần Thị Nhật Thiên Trang
Khoa Khám phụ khoa - BV Từ Dũ

CÁC TỔN THƯƠNG VÚ

KHÁI NIỆM

Vú là tổ chức mà thành phần chính là các tổ chức tuyến và mô đệm, trong đó tổ chức tuyến gồm các tuyến tiết sữa và các ồng tuyến dẫn sữa, phát triển rất mạnh trong thời gian mang thai và nuôi con. 

Bất kỳ sự thay đổi nào của các tổ chức vú đều có thể gây ra các khối u tại vú, nếu như ở tuổi sinh đẻ, nhất là khi nuôi con thì khối u thường gặp nhất là ápxe của tuyến và ống dẫn sữa, nhưng đến tuổi quanh mãn kinh và mãn kinh thì do sự thiếu hụt của các hormone buồng trứng cũng dẫn đến một số triệu chứng bất thường như đau tức vùng vú, mật độ tuyến vú không đồng nhất do hiện tượng loạn dưỡng của tổ chức vú và đặc biệt người phụ nữ cảm nhận thấy rõ ràng là sự teo giảm về kích thước cùng mật độ, tính chun giãn của vú.

Các bệnh về vú nếu được phát hiện sớm và điều trị sớm thì tiên lượng thường tốt.

CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ KHỐI U VÚ LÀNH TÍNH:

Bệnh xơ nang tuyến vú: Là khối u khu trú do xơ hoá tuyến và quá sản biểu mô tuyến vú hình thành nang xảy ra khi mất cân bằng nội tiết estrogen, progesterone, prolactin.

Sờ thấy các khối mềm, ranh giới không rõ xuất hiện nửa sau chu kì kinh, gặp ở nửa ngoài vú hoặc có thể cả 2 bên vú. Gây đau hoặc cảm giác cương, trong nhiều trường hợp thì cảm giác này xuất hiện rõ hơn khi sắp đến ngày hành kinh, và ở thời điểm này sờ thấy khối u có thể to ra và khiến cho vú có thể mất cân xứng. Tuy nhiên cũng có một số phụ nữ có cảm giác cương, đau không liên quan với chu kỳ kinh. 

Triệu chứng đau vú, tăng kích thước vú và có nhiều khối xơ nang cần phải phân biệt với các khối nhân xơ lành tính hoặc tổn thương của ung thư vú.

Chẩn đoán chính xác dựa vào sinh thiết làm giải phẫu bệnh. Điều trị bằng thuốc mà chủ yếu là progesterone dạng bôi, uống hay dán ở da nhằm cân bằng lại nội tiết. Đôi khi có thể dùng thêm kháng sinh và các thuốc giảm đau.

Nhân xơ vú: bệnh lý lành tính thường gặp ở các phụ nữ trẻ, trong khoảng 20 năm đầu sau dậy thì, nhiều nhân có thể gặp ở một bên hay cả 2 bên vú [chiếm 10– 15%]. Trên lâm sàng một nhân xơ vú điển hình thường là một khối tròn đều, cứng chắc, ranh giới rõ, di động, nắn không đau, kích thước thay đổi từ 1–5 cm. Phát hiện nhân xơ vú khá dễ dàng và thường do tự phát hiện thấy một cách ngẫu nhiên, tuy nhiên đối với những phụ nữ trên 30 tuổi thì cần phân biệt với nang vú [siêu âm hay chọc hút] hoặc với ung thư vú. Nhân xơ vú thường không xuất hiện sau mãn kinh, tuy nhiên những phụ nữ mãn kinh có sử dụng thuốc nội tiết bổ sung vẫn có thể thấy xuất hiện nhân xơ. Bóc nhân xơ rạch da theo hình nan hoa hoặc theo v ng quầng vú hoặc các vị trí có thể che được vết sẹo, chú ý không cắt vào các tuyến vú vì nhân xơ thường có ranh giới rõ, dễ bóc.

Cystosarcoma phyllodes: là loại nhân xơ vú với các tế bào mô đệm phát triển rất nhanh, tạo thành một khối u rất to, cứng chắc, thậm chí chiếm toàn bộ vú. Bệnh thường lành tính nhưng cũng có một tỷ lệ nhỏ ác tính. Phẫu thuật lấy bỏ toàn bộ khối u và vùng tổ chức lành xung quanh khối u để phòng ngừa tái phát.

Bệnh nang vú:

Thường liên quan đến nội tiết.

Nang là những khối riêng rẽ, ranh giới rõ, di động, mật độ căng. Kích thước nang to nhỏ khác nhau, thường có nhiều nang ở một hay cả hai vú, khi siêu âm sẽ thấy các vùng giảm âm đồng nhất, ranh giới rõ, vỏ mỏng.

Chọc hút dịch nang có màu vàng xanh hoặc nâu. Nếu nhiều nang nhỏ có thể không cần can thiệp.

Hoại tử tổ chức mỡ:

Là bệnh lý lành tính hiếm gặp, thường gặp sau chấn thương hoặc sau sinh thiết. Khám có khối cứng, thường đi kèm với co kéo da hay núm vú [phải sinh thiết để loại trừ ung thư vú]. Cảm giác căng đau có thể xuất hiện hoặc không. Khối u có thể tự mất mà không cần điều trị.

Absces vú:

Trong giai đoạn mang thai hay cho con bú có thể xuất hiện vùng tấy đỏ, cương đau, không cứng. Đó là hiện tượng absces do nhiễm khuẩn ngược vào các ống, tuyến vú rồi lan toả ra xung quanh.

Giai đoạn đầu của viêm có thể vẫn cho con bú và đồng thời điều trị kháng sinh.

Giai đoạn muộn, khối viêm có thể hoá mủ khu trú tại chỗ thành khối, đau và ấn lõm, đôi khi có thể tự vỡ khối mủ. Trong các trường hợp này cần mở thông khối mủ và dẫn lưu [thường bằng gạc chèn vào ổ đó để vừa cầm máu vừa dẫn lưu].

Ít gặp hơn là các khối absces vùng dưới quầng vú thường gặp ở các phụ nữ trẻ hay trung niên không cho con bú. Các trường hợp này ngoài việc chích dẫn lưu c n phải làm giải phẫu bệnh tổ chức cứng. 

Tiết dịch núm vú: phần lớn các trường hợp tiết dịch vú bất thường thường liên quan với u nhú [papilloma] ống tuyến vú, xơ nang gây giãn ống tuyến, hoặc ung thư vú. Để chẩn đoán nguyên nhân cần phải hỏi bệnh và thăm khám theo các bước sau:

Tính chất dịch tiết: dịch trong, hay máu hay gì khác.

Đi kèm theo khối u hay không.

Một hay hai bên.

Tiết dịch ở một hay nhiều ống.

Tiết dịch tự nhiên, liên tục hay đứt quãng, hay phải bóp mới chảy ra.

Dịch chảy ra khi ấn vào một vị trí hay phải ép toàn bộ vú.

Liên quan với kinh hay không.

Tiền mãn kinh hay mãn kinh.

Tiền sử có dùng thuốc tránh thai uống hay sử dụng estrogen thay thế ở những phụ nữ đã mãn kinh.

Tiết dịch trong hay có lẫn máu thường gặp ở các trường hợp u nhú ống tuyến, ít gặp hơn đó là do ung thư ống tuyến vú. 

Tiết dịch máu phải nghĩ tới ung thư tuyến vú, nhưng thường là do u nhú ống tuyến vú. Xét nghiệm tế bào dịch tuyến vú cho phép xác định có phải ác tính hay không, tuy nhiên dù có âm tính thì cũng không loại trừ ác tính ở những phụ nữ trên 50 tuổi. Trong trường hợp này, nếuđi kèm với khối u thì nên được cắt bỏ dạng hình chóp bằng cách tiêm chất chỉ thị màu như xanh methylen để xác định vùng định cắt bỏ.

Ở tuổi chưa mãn kinh thì tiết dịch vú ở nhiều đầu ống tuyến vú ở một hay cả hai bên, tăng lên rõ khi sắp hành kinh, thường do xơ nang tuyến vú. Sinh thiết để loại trừ ung thư nếu dịch màu xanh hay nâu. Nếu có khối u thì cũng cần phải lấy bỏ.

Tiết dịch sữa không liên quan với nuôi con thường gặp ở một số hội chứng [Chiari-Frommel, Argonz-Del Castillo] có liên quan với tăng tiết prolactin của tuyến yên. Một số thuốc, như họ chlorpromazine và viên thuốc tránh thai kết hợp cũng có thể gây tiết sữa. 

Dịch mủ thường do viêm nhiễm gây ra, trường hợp này cần loại bỏ khối viêm.

Dị dạng vú

Phì đại vú một hay cả hai bên thường cần phải phẫu thuật tạo hình để thu nhỏ lại.

KHỐI U VÚ ÁC TÍNH: 

Ung thư vú có hai loại chính là ung thư thể ống [ductal carcinoma] và ung thư thể thuỳ [lobular carcinoma].

Chẩn đoán khối u ung thư vú dựa vào:

70% các trường hợp ung thư vú khám phát hiện thấy: khối u đơn, không căng, cứng chắc, với bờ khó xác định. Tuy nhiên tới 90% khối u được phát hiện bởi chính người bệnh, nhất là những khối u nhỏ < 1 cm. Chụp vú thường được tiến hành trong trường hợp nghi ngờ. Các triệu chứng ít gặp hơn là đau vú, tiết dịch. Phát hiện muộn hơn, nhất là khi khối u lớn > 5 cm thì có thể thấy khối u co kéo da và núm vú, vú to lên, da giống cam sành, đau, khối u dính vào da hay thành ngực, khám hố nách thấy có hạch. Thậm chí có loét, hạch trên đòn, phù tay, di căn xương, phổi, gan, não….

Tỷ lệ ung thư vú thường gặp ở các vị trí:

45% phần tư trên ngoài.

10% phần tư dưới ngoài.

15% phần tư trên trong.

5% phần dưới trong.

25% vùng quầng vú.

Chụp vú [mammographie]: có thể phát hiện rất sớm từ 2 năm trước khi sờ thấy. Khoảng 35% các trường hợp được phát hiện chỉ nhờ chụp vú sàng lọc.

MRI vú giúp xác định tính chất khối u ranh giới không rõ ràng với các tổ chức xung quanh, có hiện tượng tăng sinh mạchvà mức độ thâm nhiễm của khối u ra xung quanh nhất là so với cơ ngực.

Sinh thiết: tiêu chuẩn vàng để xác định và phân loại ung thư vì có 30% nghĩ tới ung thư trên lâm sàng nhưng sinh thiết lành tính và 15% nghĩ lành tính nhưng sinh thiết là ác tính.

Chụp xạ hình xương bằng technetium 99m- labeled phosphonates, là phương tiện quan trọng để đánh giá di căn vú. Tỷ lệ di căn xương tăng lên cùng giai đoạn bệnh, nếu Stages I và II thì chỉ khoảng 7% và 8% có [+], trong khi giai đoạn III là 25% [+]

Positron emission tomography [PET] hứa hẹn là công cụ tốt để đánh giá giai đoạn và tiến triển của bệnh. Thường được chỉ định khi có tái phát, hay di căn và theo dõi định kỳ sự đáp ứng điều trị.

Một số dạng đặc biệt của ung thư vú:

Bệnh Paget: có sự thay đổi màu sắc da ở vùng núm vú dưới dạng chàm và 99% là ác tính. 60% sờ thấy có khối u nằm ở dưới, các khối u này 95% được phát hiện là do ung thư di căn, mà phần lớn là do ung thư ống tuyến thâm nhiễm. Bệnh Paget hiếm gặp [chỉ chiếm khoảng 1% các trường hợp ung thư vú] nhưng lại thường phát hiện muộn vì triệu chứng không rõ ràng nên thường được chẩn đoán và điều trị như viêm da hay như nhiễm khuẩn. Nếu được phát hiện sớm, bệnh Paget hiếm khi di căn vào hạch nách. Điều trị có thể phẫu thuật cắt bỏ vú rộng, bao gồm tia xạ sau mổ với > 90% sống không bệnh tới > 8 năm.

Ung thư vú dạng viêm: được phát hiện dưới dạng tổn thương ecdema lan rộng ở da vùng vú, tấy đỏ ở vùng bờ xung quanh, và thường không sờ thấy khối u ở dưới. Đây là bệnh có tính chất ác tính nhất vì khi phát hiện ra thì đã có tới > 35% trường hợp có di căn, nhưng may mắn là bệnh chỉ chiếm < 5% các trường hợp ung thư vú. Trong trường hợp nghi ngờ bệnh viêm da nhưng sau 1 – 2 tuần mà không đáp ứng nhanh với một đợt điều trị kháng sinh thì cần tiến hành sinh thiết để chẩn đoán. 

Ung thư vú trong thời gian mang thai và cho con bú: hiếm gặp với tỷ lệ 1: 3000 tới 1: 10.000. Tiên lượng bệnh không có nhiều khác biệt so với khi không có thai. Đình chỉ thai nghén được chỉ định ở 6 tháng đầu của thai nghén cũng không cho thấy sự cải thiện về tiên lượng bệnh, thêm vào đó là chống chỉ định tia xạ và hoá chất. Trong phần lớn các trường hợp thì cắt bỏ vú rộng là phương thức điều trị tối thiểu được lựa chọn. Nếu thai muộn hơn ở 3 tháng cuối của thai nghén có thể chỉ cắt bỏ khối u và tia xạ ngay sau đẻ.  

Ung thư vú hai bên: tỷ lệ không nhiều nếu cùng lúc, chỉ khoảng < 1%, nhưng có tỷ lệ cao hơn từ 5 – 8% với những trường hợp ung thư muộn ở vú thứ 2. Ung thư vú hai bên thường gặp ở phụ nữ < 50 tuổi và thường là ung thư tiểu thuỳ. Những người bệnh ung thư vú nên được chụp mammographie bên kia trước khi điều trị và sau đó vẫn phải theo dõi định kỳ để phát hiện tổn thương bất thường ở vú đối diện.

Giai đoạn:

Được xếp giai đoạn theo hệ thống TMN [tumor, node, metastasis] của Hội ph ng chống ung thư quốc tế:

Tis : ung thư tại chỗ                 

N1: hạch nách, di động

T1:                     

N2: hạch nách dính. 

T1 mic: Tổn thương vi thể < 0,1 cm  

N3: Hạch vùng xương đòn

T1a >0,1 cm nhưng ≤ 0,5cm     

M1: di căn xa

T1b >0,5 cm nhưng ≤ 1,0 cm

T1c > 1,0 cm nhưng ≤ 2,0cm

T2: > 2cm nhưng ≤ 5cm

T3: > 5cm T4:

T4a: lan tới thành ngực

T4b: phù, loét da 

T4c: Gồm cả 4a và 4b

T4d: Khối ung thư viêm

Các biện pháp nhằm phát hiện sớm ung thư vú

Mammographie luôn là lựa chọn hàng đầu và tốt nhất cho việc sàng lọc nhằm phát hiện sớm ung thư vú. Khám lâm sàng và chụp vú trong đó chụp vú giúp phát hiện tới 40% các trường hợp ung thư giai đoạn sớm và 40% khác được phát hiện qua sờ nắn. Nhìn chung, tuỳ thuộc vào tuổi của phụ nữ và mật độ của vú thì độ nhậy của chụp vú là 70 – 90% và độ đặc hiệu > 90%. Chụp vú có thể 2-3 năm một lần lần ở những phụ nữ từ 40 – 49 tuổi và hàng năm ở những tuổi lớn hơn.

Siêu âm vú thường chỉ giúp chẩn đoán phân biệt u nang và nhân xơ. Siêu âm chỉ nên được coi như là một biện pháp bổ sung cho khám lâm sàng và chụp vú trong sàng lọc ung thư vú.

Tự khám vú tiến hành trong thời gian sau sạch kinh 5- 7 ngày.

Xét nghiệm gen: ở những bệnh nhân có tiền sử gia đình ung thư vú, với việc phát hiện dương tính với 2 gen BRCA1 và BRCA 2, đồng nghĩa với tăng nguy cơ ung thư vú cũng như ung thư buồng trứng, đại tràng, tiền liệt tuyến và ung thư tuỵ.

Receptor nội tiết với progesterone [RP] và estrogen [RE] của khối u ung thư vú cho biết khả năng đáp ứng điều trị với thuốc nội tiết. Tuy nhiên có khoảng 10% trường hợp ung thư vú di căn mặc dù có RE âm tính nhưng vẫn được điều trị thành công bởi liệu pháp hormone.

Điều trị ung thư vú

Cắt bỏ vú rộng được Halsted thực hiện lần đầu tại Mỹ vào năm 1882. Cho tới những năm 1950 thì người ta bắt đầu tiến hành thêm việc nạo hạch nách. Sau đó cho tới những năm 1980 thì người ta bắt đầu chỉ cắt bỏ khối u vú hoặc một phần vú hay một phần tư vú để bảo tồn, thường được chỉ định ở những giai đoạn sớm của bệnh [I và II].

Điều trị bảo tồn nếu chỉ có một ổ tổn thương có đường kính < 2cm. Tuy nhiên, điều trị bảo tồn phải đi kèm với kiểm tra mô học ngay tức thì vùng rìa xung quanh để bảo đảm đã cắt hết tổ chức ung thư, tốt hơn cả nếu như tiến hành xạ vùng vết mổ ngay khi người bệnh trên bàn mổ sau khi đã được lấy hết tổ chức u. Vét hạch vùng hố nách đi kèm.

Điều trị cắt bỏ vú theo phương pháp Patey thường được chỉ định tại Việt nam, bất kể giai đoạn nào của bệnh, kèm theo vét hạch nách. 

Tia xạ, hoá chất và nội tiết là những liệu pháp điều trị bổ xung trong ung thư vú.

Điều trị nội tiết thường kéo dài trong 5 năm. Cần chú ý, nếu người bệnh c n kinh nguyệt và cảm thụ RE [+] và RP [+] thì nên được loại bỏ 2 buồng trứng trước khi điều trị bằng tia xạ hoặc nội soi cắt bỏ [thường được lựa chọn] và 6 tháng phải kiểm tra độ dày niêm mạc tử cung qua siêu âm để phát hiện tình trạng quá sản nếu có. 

Video liên quan

Chủ Đề