Phương pháp đánh giá kết hợp nhiều rủi ro ngoài trừ
Đánh giá rủi ro kiểm soát và tác động của đánh giá rủi ro kiểm soát đến lựa chọn phương pháp kiểm toánBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.4 KB, 22 trang ) LỜI MỞ ĐẦU hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có kiểm soát nội bộ. Mức độ rủi ro tiềm tàng là cơ sở để lựa chọn các thủ tục kiểm toán, xác định khối lượng công việc, thời gian, nhân sự và các chi phí cần thiết cho cuộc kiểm toán. - Rủi ro kiểm soát: là rủi ro trong đó một sai sót trọng yếu trong một tài khoản trong báo cáo tài chính, riêng biệt hay gộp với các sai sót trong các tài khoản khác, đã không được hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ ngăn ngừa hoặc phát hiện và sửa chữa trong thời gian mong muốn. Hay nói cách khác đó là khả năng mà hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị không phát hiện và ngăn chặn được gian lận và sai sót. Rủi ro kiểm soát luôn tiềm ẩn và khó tránh khỏi do hạn chế cố hữu của bất kì hệ thống kiểm soát nội bộ nào. Nó ảnh hưởng đến khâu lập kế hoạch và xây dựng trình tự, phương pháp kiểm toán thích hợp. - 2 - - Rủi ro phát hiện: là khả năng xảy ra các sai sót hoặc gian lận trên báo cáo tài chính mà không được ngăn chặn hay phát hiện bởi hệ thống kiểm soát nội bộ và cũng không được kiểm toán viên phát hiện ra trong quá trình kiểm toán. Rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp đến phạm vi kiểm toán và phương pháp kiểm toán áp dụng trong kiểm toán. Phạm vi kiểm toán càng rộng, phương pháp kiểm toán càng thích hợp và chặt chẽ, công việc kiểm toán càng tuân thủ chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán thì mức độ rủi ro càng thấp và ngược lại. Kiểm toán viên cần có hiểu biết đầy đủ về hệ thống kiểm soát nội bộ, đánh giá chính xác mức độ rủi ro để vạch kế hoạch kiểm toán và xây dựng trình tự, phương pháp kiểm toán thích hợp. 2. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán với tính trọng yếu Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay qui mô) và bản chất của các sai phạm (kể cả bỏ sót) của các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ, hoặc là từng nhóm mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì không thể chính xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm. Trọng yếu được xem xét ở mức độ toàn bộ báo cáo tài chính và từng khoản mục. Khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán viên phải đưa ra ước lượng ban đầu về tính trọng yếu, là lượng tối đa mà kiểm toán viên tin rằng ở mức đó các báo cáo tài chính có thể có sai sót nhưng không ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng thông tin. Trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và ngược chiều nhau nghĩa là mức độ trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Nếu mức độ trọng yếu có thể chấp nhận được tăng lên thì rủi ro kiểm toán sẽ giảm xuống, vì khi giá trị sai sót có thể bỏ qua tăng lên thì khả năng xảy ra sai sót đó sẽ giảm xuống. Ngược lại, có thể giảm mức độ trọng yếu có thể chấp nhận, rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Trọng yếu và rủi ro đều có tác động đến lượng bằng chứng cần thu thập. Khi kiểm toán viên ước tính mức độ trọng yếu càng thấp và rủi ro càng cao thì lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều và ngược lại. - 3 - Trong ba loại rủi ro trên thì rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát khác rủi ro phát hiện ở chỗ các loại rủi ro này tồn tại độc lập và khách quan đối với thông tin tài chính. Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát nằm ngay trong chức năng hoạt động kinh doanh và môi trường quản lí của doanh nghiệp cũng như trong bản chất của các số dư tài khoản và loại nghiệp vụ, chúng tồn tại độc lập với kiểm toán, nằm ngoài phạm vi kiểm toán. Còn rủi ro phát hiện được xác định từ rủi ro kiểm toán, rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát .Vì ba loại rủi ro này thay đổi đối với từng khoản mục trên báo cáo tài chính nên rủi ro phát hiện và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập cũng thay đổi theo đối với từng khoản mục. Tuy nhiên việc giới hạn rủi ro tiềm tàng và rủi ro phát hiện là không thể thực hiện được mà chỉ có thể giới hạn được rủi ro kiểm soát và rủi ro kiểm soát là loại rủi ro chủ yếu trong ba loại rủi ro kiểm toán. Vì vậy, việc đánh giá rủi ro kiểm soát có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc lập kế hoạch kiểm toán và lựa chọnh phương pháp kiểm toán cũng như số lượng bằng chứng cần thu thập. II. ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM SOÁT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM SOÁT ĐẾN LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP KIỂM TOÁN 1. Đánh giá rủi ro kiểm soát Việc đánh giá chính xác rủi ro kiểm soát có ý nghĩa thực tiễn rất lớn đối với công tác kiểm toán từ khâu lập kế hoạch kiểm toán đến khâu thực hiện kế hoạch và lập báo cáo kiểm toán. Mức độ rủi ro kiểm soát quyết định nội dung, thời hạn, phạm vi của các phương pháp kiểm toán cần tiến hành cũng như quyết định khối lượng công tác kiểm toán cần thiết. Nếu rủi ro kiểm soát cao kiểm toán viên sẽ không tin tưởng vào hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp và áp dụng phương pháp tuân thủ và khối lượng thử nghiệm cơ bản cũng tăng lên hơn rất nhiều so lúc kiểm toán viên dựa vào hệ thống kiểm soát. Và ngược lại rủi ro kiểm soát được đánh giá thấp thì kiểm toán viên có thể dựa vào kiểm soát nội bộ để giảm các thử nghiệm cơ - 4 - bản. Do vậy, sự hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như sự đánh giá chính xác rủi ro kiểm soát sẽ giúp cho kiểm toán viên: Xác định được các loại thông tin sai sót nghiêm trọng có thể xảy ra trên báo cáo tài chính. Xem xét các nhân tố tác động đến khả năng để xảy ra các sai sót nghiêm trọng. Thiết kế phương pháp kiểm toán thích hợp. Việc đánh giá rủi ro kiểm soát diễn ra theo các bước sau Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát Thiết kế và thực hiện thử nghiệm kiếm soát. Đánh giá lại rủi ro kiểm soát và thiết kế lại thử nghiệm cơ bản 1.1.Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát bao gồm việc đánh giá tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ trong việc ngăn ngừa, phát hiện và sữa chữa các sai sót trọng yếu. Tuy nhiên, rủi ro kiểm soát không thể hoàn toàn được loại trừ do những hạn chế cố hữu của mọi hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ. Sau khi có được hệ thống sự hiểu về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ thì kiểm toán viên thực hiện đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát theo các cơ sở dữ liệu đối với các số dư của các tài khoản trọng yếu. Rủi ro kiểm soát được đánh giá thông qua sự hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành hữu hiệu thì rủi ro kiểm soát được đánh giá có khả năng thấp và ngược lại. Khi đã thu thập được sự hiểu biết về cách thiết kế và vận hành hệ thống kiểm soát nội bộ thì kiểm toán viên đưa ra đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát. Công việc này đựơc thực hiện riêng rẽ cho từng loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu trong từng chu trình nghiệp vụ và theo các bước sau: Nhận diện các mục tiêu kiểm toán của kiểm soát nội bộ mà theo đó kiểm toán viên vận dụng để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. - 5 - Trong bước này kiểm toán viên sẽ vận dụng các mục tiêu kiểm soát cụ thể cho từng doanh nghiệp chủ yếu của công ty mà theo đó có thể đánh giá rủi ro kiểm soát đối với từng khoản mục. Chẳng hạn đối với chu trình bán hàng thì mục tiêu kiểm soát là Mục tiêu tổng quát Mục tiêu đặc thù đối với nghiệp vụ bán hàng Mục tiêu hợp lí chung Các nghiêp vụ bán hàngđều có căn cứ hợp lí Hiệu lực Hàng bán vận chuyển đến khách hàng là có thật Trọn vẹn Mọi nghiệp vụ bán hàng đều dược ghi sổ Quyền và nghĩa vụ Hàng hoá đã bán thuộc quyền sở hữu của đơn vị Định giá Hàng đã vận chuyển và có hoá đơn ghi giá bán được thoả thuận Phân loại Các nghiệp vụ bán hàng được phân loại thích hợp Chính xác cơ học Các nghiệp vụ ghi vào sổ tổng hợp, chi tiết thích hợp và khớp đúng về số cộng Nhận diện các quá trình kiểm soát đặc thù. Ở bước này, kiểm toán viên không cần phải xem xét mọi quá trình kiểm soát mà chỉ phải nhận diện và phân tích các quá trình kiểm soát chủ yếu (có khả năng ảnh hưởng lớn nhất đến việc thoả mãn mục tiêu kiểm soát), đảm bảo tính hiệu quả cho cuộc kiểm toán. Nhận diện và đánh giá các nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ. Nhược điểm được hiểu là sự vắng mặt của các quá trình kiểm soát thích đáng làm tăng khả năng rủi ro của việc tồn tại các sai phạm trên báo cáo tài chính. Phương pháp nhận diện các nhược điểm : - Nhận diện các quá trình kiểm soát hiện có: Vì nhược điểm là sự vắng mặt của các quả trình kiểm soát thích hợp nên kiểm toán viên trước hết phải biết hiện các quá trình kiểm soát nào hiện có. - Nhận diện sự vắng mặt của các quá trình kiểm soát chủ yếu: kiểm toán viên sử dụng các bảng câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ, các bảng tường thuật, lưu đồ để nhận diện những lĩnh vực mà vắng mặt các quá trình kiểm soát chủ yếu nên - 6 - khả năng sai phạm tăng lên. Nếu vắng mặt các quá trình kiểm soát chủ yếu thì kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm soát là trung bình hoặc cao. - Xác định khả năng các sai phạm nghiêm trọng có thể xảy ra: nhằm nhận diện các sai số hoặc sai qui tắc cụ thể có thể xảy ra vì sự vắng mặt của các quá trình kiểm soát. - Nghiên cứu khả năng của các quá trình kiểm soát bù trừ: các quá trình kiểm soát bù trừ là một quá trình kiểm soát ở hệ thống để bù lại quá trình yếu kém. Khi có quá trình kiểm soát bù trừ thì sự yếu kém không còn là mối bận tâm vì khả năng của sai phạm đã được làm giảm xuống vừa đủ. Đánh giá rủi ro kiểm soát: căn cứ vào các quá trình kiểm soát và các nhược điểm của kiểm soát nội bộ kiểm toán viên tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát ban đầu đối với từng mục tiêu kiểm soát của từng nghiệp vụ kinh tế. Kiểm toán viên có thể đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức thấp, trung bình, cao hoặc theo tỉ lệ %. Kiểm toán viên thường đặt ra mức rủi ro kiểm soát cao đối với trường hợp: - Hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ không được áp dụng đúng. - Việc đánh giá sự áp dụng của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ được xem là không đủ. Mức độ đánh giá ban đầu của rủi ro kiểm soát đối với các cơ sở dẫn liệu lập báo cáo tài chính phải được xác định ở mức cao trừ khi kiểm toán viên : - Xác minh được rằng kiểm soát nội bộ được áp dụng đối với các cơ sở dẫn liệu này có thể ngăn ngừa hoặc phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu. - Dự định thực hiện việc kiểm tra các thủ tục kiểm toán để làm cơ sở đánh giá. Có hai vấn đề quan trọng trong đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát: - Kiểm toán viên không thực hiện đánh giá ban đầu theo cách chính thức và chi tiết. Trong nhiều trường hợp, nhất là các công ty nhỏ, kiểm toán viên thường giả sử rủi ro kiểm soát ở mức tối đa mặc dù thực tế nó có hay không để tiết kiệm hơn so với kiểm toán bao quát các số dư trên báo cáo tài chính. - 7 - - Cho dù kiểm toán viên tin rằng rủi ro kiểm soát là thấp nhưng mức độ rủi ro kiểm soát được đánh giá là bị giới hạn bởi bằng chứng thu thập được. Chẳng hạn, kiểm toán viên tin rằng rủi ro kiểm soát của doanh thu không được ghi sổ là thấp nhưng thu thập được ít bằng chứng để ủng hộ cho các thể thức kiểm soát của mục tiêu đầy đủ. Do đó đánh giá rủi ro kiểm soát của doanh thu không được ghi sổ hoặc là cao hoặc là trung bình. Nó chỉ thấp khi đưa ra được các bằng chứng ủng hộ cho các thể thức kiểm soát thích đáng. Khi rủi ro kiểm soát được đánh giá tối đa thì kiểm toán viên không thể dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị để giảm thử nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp vụ mà phải tăng cường các thử nghiệm cơ bản để phát hiện các gian lận và sai sót trọng yếu và trong trường hợp này thử nghiệm kiểm soát không được thiết kế trong qui trình kiểm toán. Ngược lại rủi ro kiểm soát được đánh giá nhỏ hơn mức tối đa thì có thể dựa vào kiểm soát nội bộ để giảm các thử nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp vụ. Và trong trường hợp này kiểm toán viên sẽ thực hiện tuần tự thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản trong triển khai kế hoạch kiểm toán. Để chứng minh mức độ rủi ro kiểm soát được đánh giá ban đầu thì kiểm toán viên thực hiện thử nghiệm kiểm soát ở giai đoạn thực hiện kế hoạch kiểm của cuộc kiểm toán trước khi kiểm toán viên đưa ra mức độ rủi ro kiểm soát thích hợp. 1.2.Thiết kế và thực hiện thử nghiệm kiểm soát Việc thiết kế và thực hiện thử nghiệm kiểm soát nhằm thu thập bằng chứng về sự hữu hiệu của các qui chế và thủ tục kiểm soát để giảm thử nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp vụ. Thử nghiệm kiểm soát được thực hiện với những phương pháp khác nhau tuỳ từng trường hợp cụ thể: Các thủ tục kiểm soát có để lại dấu vết Thì thực hiện phương pháp - Kiểm tra, chứng từ, sổ sách và báo cáo: được áp dụng nếu các thủ tục để lại dấu vết trực tiếp trên tài liệu như chữ kí phê duyệt, hóa đơn lưu...ví dụ kiểm tra các chứng từ liên quan đến phiếu chi tiền có được phê duyệt hay không. - 8 - |