Ngay cả cái tên bài thơ: Tràng Giang đã như một cửa ngõ mở vào vô biên rồi. Tràng Giang gợi ra hình tượng một con sông chảy mênh mang giữa đất trời. Và câu đề từ, tuy vẫn còn nằm ngoài văn bản nhưng nó đã như một bức rèm quyến rũ ta bước chân vào thế giới vô tận. Mà người đọc là những người phải vén lên. Lời đề từ còn có thể ví như một hành lang mở thông vào vô biên. Mà những người đọc cần bước theo :
"Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài"
"Trời rộng", "sông dài" : Là không gian mênh mông vô biên
"Bâng khuâng", "nhớ" : Là tâm trạng buồn, cô đơn giữa trời rộng sông dài.
Ta thấy rõ hơn ai hết, rõ hơn bao giờ hết rằng đời người sao quá phù du, rằng con người sao quá nhỏ nhoi, kiếp người cũng chỉ là thoáng chốc.Đối diện với cái vô cùng vô tận của không gian và cái vô thuỷ vô chung của thời gian, con người như cảm thấy một cách thấm thía hơn nỗi cô đơn, sự nhỏ nhoi của chính mình,thấy mình bơ vơ, lạc lõng giữa cái mênh mông của đất trời, trôi nổi trong cái xa vắng, rợn ngợp của dòng thời gian và chơi vơi giữa cõi nhân gian.Đó là nỗi niềm của cái tôi nhà thơ. Lời đề từ vừa tô đậm thêm cảm giác "Tràng Giang" vừa thâu tóm cảm xúc chủ đạo vừa gợi ra nét nhạc chủ âm cho cả bài thơ.Lời đề từ thốt lên những xúc cảm, bày tỏ những tâm trạng của nhà thơ trước một không gian bao la của bầu trời. Nỗi niềm bâng khuâng, ngỡ ngàng, luyến tiếc, nhớ thương đan xen lẫn nhau tạo nên một âm hưởng da diết, và khắc sâu hơn cảm xúc bao trùm toàn bài thơ. Lời đề từ nằm ngoài văn bản, nhưng nó đã thể hiện rất thành công dụng ý nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng chủ đạo của bài thơ.Không gian mênh mông của đất trời gợi trong sâu thẳm lòng người nỗi bâng khuâng trước sông dài biển rộng.
11 165 KB 0 85
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 11 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
VĂN MẪU LỚP 11
PHÂN TÍCH Ý NGHĨA NHAN ĐÈ VÀ LỜI ĐỀ TỪ BÀI THƠ TRÀNG
GIANG CỦA HUY CẬN
BÀI MẪU SỐ 1:
Trong bài thơ Mai Sau” in trong tập thơ Riêng chung” nhà thơ Huy Cận đã tự bạch
lòng mình:
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm...
Nỗi nhớ thương không biết đã nguôi chưa?
Hay lòng chàng cứ tủi nắng, sầu mưa
Cùng đất nước mà lặng buồn sông núi?”.
Thơ Huy Cận trước cách mạng rất buồn, vì vậy ông thường tìm đến thiên nhiên
để:
Vui chung vũ trụ nguôi sầu trần gian”.
Xuất hiện lần đầu tiên trên thi đàn văn chương Việt Nam năm 1940 với tập thơ
Lửa thiêng”. Khi tập thơ xuất hiện ta bắt gặp một giọng thơ buồn ảo não của:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”.
Linh hồn của tập thơ Lửa thiêng” chính là bài thơ Tràng Giang”. Như cái tên của
nó, bài thơ là một dòng sông dài. Đó là một dòng sông tâm trạng để Huy Cận gửi gắm cái
tôi” của một thời thơ mới. Đồng thời Tràng Giang” là bài thơ thể hiện tình yêu quê hương
đất nước một cách thầm kín trong tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại thi ca nói
chung. Nhờ đó mà Xuân Diệu nhận định: Tràng Giang là bài thơ cuối cùng dọn lòng đến
với giang sơn Tổ quốc”.
Toàn bộ vẻ đẹp ấy kết tinh ngay ở nhan đề cũng như lời đề từ của bài thơ: Bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
1. Nhan đề:
Bài thơ hấp dẫn người đọc ngay từ nhan đề. Có những người suốt đời lặn lội với
văn chương nhưng cũng chẳng để lại cho đời một áng văn hay, một bài thơ đẹp. Vì vậy,
khi người nghệ sĩ sáng tác ra được một thi phẩm nghệ thuật, họ thường trăn trở băn khoăn
cho cách đặt nhan đề. Nhan đề của một tác phẩm thường chứa đựng nội dung của nó.
Viết về một xã hội tăm tối trước cách mạng, Ngô Tất Tố có tiêu thuyết Tắt Đèn”. Để ca
ngợi cái tâm của người nghệ sĩ, những nho sĩ cuối mùa nay vẫn còn vang bóng, Nguyễn
Tuân có tác phẩm Chữ người tử tù”,…Nhan đề của bài thơ là Tràng Giang” cũng là một trong những dụng ý nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận. Tràng Giang” vốn là hai từ Hán
Việt để chỉ dòng sông dài. Đó là dòng sông Hồng-dòng sông đã gợi ý gợi tứ để nhà thơ
Huy Cận viết thành công bài thơ này. Dòng sông ấy vĩnh viễn thuộc về đất nước Việt
Nam, nó có từ thuở khai thiên lập địa. Nó không chỉ dài về không gian địa lý mà còn dài
về khoảng thời gian lịch sử. Trong bài thơ Người đi tìm hình của nước”, Chế Lan Viên có
viết:
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây”.
Trong Tiếng Việt hiện hành có hai từ nhằm miêu tả chiều dài đó là từ Tràng” và từ
Trường”. Ở đay nhà thơ Huy Cận không viết là Tường Giang” mà lại viết là Tràng
Giang”. Như vậy đủ thấy sự tinh tế của Huy Cận khi sử dụng Tiếng Việt. Bởi chữ
Trường” chỉ đơn thuần là miêu tả chiều dài. Còn chữ Tràng” với âm vang” vốn là âm mở,
nó không chỉ miêu tả chiều dài của dòng sông mà còn gợi lên chiều rộng của con sông.
Đó là một con sông được vẽ lên với không gian ba chiều: sâu chót vót; rộng mênh mông;
dài dằng dặc. Dòng sông càng mênh mông, càng vô biên, vô cùng bao nhiêu thì tâm hồn
thi nhân càng cô liêu, cô sầu bấy nhiêu. Như vậy, bài thơ với nhan đề Tràng Giang”đã
phần nào bộc lộ được sở trường và phong cách thơ Huy Cận-một nhà thơ luôn bị ám ảnh
bởi bước đi của không gian.
2. Lời đề từ: Bìa thơ Tràng Giang” có lời đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông
dài”.
Trong một số thi phẩm nghệ thuật, ta bắt gặp một số lời đề từ. Lời đề từ không
phải là một thứ đồ trang sức làm đẹp da cho thi phẩm nghệ thuật. Trái lại lời đề từ là một
xuất phát điểm, là một dụng ý nghệ thuật. Nó cung cấp cho người yêu thơ chiếc chìa khóa
nghệ thuật để khám phá nội dung của thi phẩm. Có lời đề từ là những câu văn xuôi mà
tác giả mượn lời của người khác. Ta nhớ tới lời đề từ của Nam Cao trong tác phẩm Nước
mắt” khi ông mượn lời của nhà văn Pháp Francois Coppée, ông viết:
Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỷ. Nước
mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”.
Có lời đề từ là những câu văn vần của chính tác giả mà ta có thể kể đến lời đề từ
của Chế Lan Viên trong bài thơ Tiếng Hát Con Tàu”:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”. Lời đề từ còn cung cấp những thi liệu chính mà tác giả xây dựng trong bài thơ. Lời
đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã gợi lên trước mắt người đọc hai thi liệu
chính: đó là trời rộng và sông dài. Điều này được kết tinh trong hai câu thơ được xem là
trung tâm của bài thơ Tràng Giang”:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”.
Hai khổ thơ còn lại của bài thơ này. Nếu khổ ba tác giả vẽ lên hình ảnh dòng sông
dài, mênh mông, dợn ngợp thì khổ thơ thứ tư tác giả lại vẽ lên hình ảnh bầu trời cao rộng.
Hơn nữa, lời đề từ còn thể hiện rõ âm điệu, xúc cảm của bài thơ. Tràng Giang” là
bài thơ có âm điệu buồn. Đó là nỗi sầu vạn kỉ thấm sâu vào trong mạch cảm xúc của bài
thơ này mà Lê Di viết:
Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước Là Huy Cận khổ nào cũng
lặng lẽ u sầu”.
Đồng thời lời đề từ còn thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín trong tâm
hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại trong thi ca nói chung. Đó là những con người:
Sống giữa giữa quê hương mà vẫn thấy mình thiếu quê hương” [nói như Nguyễn
Tuân].
Còn Chế Lan Viên viết:
Nhân dân ở quanh ta mà sao chẳng thấy Tổ quốc ở quanh mình mà có cũng như
không”.
Nên chăng ta mượn lại lời nhận định của Hoài Thanh, Hoài Chân trong Một thời
đại trong thi ca” để kết thúc bài viết của mình:
Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, nhưng càng đi
sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trường tình cùng Lưu Trọng
Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng
động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ
ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. BÀI MẪU SỐ 2:
1. Ý nghĩa nhan đề"Tràng giang"
Nhan đề của các thi phẩm nhiêu khi bao quát được những nội dung tư tưởng chủ
đạo, những cảm hứng tư tưởng nổibật của bài thơ. Huy Cận cũng đã chọn cho thi phẩm
của mình một nhân đề rất hàm súc và đích đáng. "Tràng giang"cũng chính là "Trường
giang" có nghĩa là sông dài. Nhưng nhà thơ không viết "Trường giang" mà lại viết "Tràng
giang" tạo nên phép điệp âm "ang", một âm mở, và nhờ vậy còn gợi lên hình ảnh một con
sông lớn, sông rộng.
"Tràng giang" lại là mộttừ Hán Việt cổ điển nêncũng kín đáo gợi hìnhảnh con
sông cổ kính, lâu đời. Dòng "tràng giang"vì vậy không chỉ có chiều dài, chiều rộng địa lí
mà còn có chiều sâu của thời gian lịch sử. Đó là con sông như đã chảy từ ngàn xưa, đã
trầm tích vào trong mình chiều sâu của hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hoá,
và dường như đã chảy qua biết bao áng cổ thi: "Duy kiến Trường giang thiên tế lưu" [Lí
Bạch].
Con sông vì vậy trở nên dài hơn rộng hơn mênh mang hơn xa xôi hơn vĩnh viễn
hơn trong tâm trí người đọc. Nhan đề "Tràng giang" đã gợi lên một hình tượng độc đáo,
không gian lớn lao có tầm vũ trụ, vốn là niềm say mê của hồn thơ Huy Cận.
2. Lời đề từ của tác phẩm:
Ý nghĩa của nhan đề bài thơ càng được tô đậm hơn qua lời đề từ của tác phẩm:
"Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài". Đó là câu thơ được rút ra trong bài thơ "Nhớ hờ"
của tập "Lửa thiêng". Các hình ảnh "trời rộng", "sông dài" gợi những phạm vi không gian
khác nhau từ cao đến thấp; xa đến gần một không gian lớn lao, mênh mang có tầm vũ trụ.
Hình ảnh không gian này còn trở đo trở lại trong bài thơ "Sông dài, trời rộng, bến
cô liêu". Nếu "bâng khuâng" là cảm giác xao xuyến, trống trải của con người khi
đối diện trước không gian mênh mang rộng lớn, thì "nhớ" lại là hoài niệm của con người
về điều gì đó đã xa khuất trong thời gian, trong không gian. Cả dòng thơ đã bộc lộ thành
thực nỗi niềm tâm trạng con người khi đối diện trước thời gian, không gian; bộc lộ nối
khắc khoải không gian của hồn thơ Huy Cận:
"Huy Cận như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian" [Xuân Diệu],
"Người thấy lạc loài giữa cái mênh mông của không gian, cái xa vắng của thời gian, lời
thơ vì thế mà buồn rười rượi" [Hoài Thanh].
=> Nhan đề và lời đề từ của bài thơ được lựa chọn rất tinh tế, hàm súc, tài hoa đã
khái quát được cảm hứng tư tưởng trung tâm nổi bật của bài thơ, đồng thời in đậm dấu ấn
của hồn thơ Huy Cận, nhà thơ của "nói khắc khoải không gian", "nỗi sầu nhân thế". BÀI MẪU SỐ 3:
Sự rung động của thơ ca bao giờ cũng được đo bằng nhịp đập của con tim. Tràng
giang của HC đã tác động rất sâu sắc vào trong xúc cảm của bạn đọc. Hơn nữa, mỗi một
bài thơ hay thường tác động đầu tiên đến với độc giả bạn đọc là nhờ âm điệu. Khi ND ta
còn chưa biết rõ, âm điệu bài thơ đã xâm nhập hồn ta tự bao giờ. Cảm hứng chung của
độc giả bạn đọc khi tiếp cận Tràng Giang là giọng thơ buồn, rất hợp với nỗi lòng của thi
nhân, 1 nhà thơ chìm đắm trong cái tôi cô đơn siêu hình bản ngã
Bài thơ hấp dẫn độc giả bạn đọc đầu tiên là từ nhan đề. Có những người cả đời lặn
lội với VC mà chẳng để lại cho đời 1 ang văn hay, một bài thơ đẹp nào. Vì lẽ đó, khi sáng
tác một thi phẩm nghệ thuật, các bậc tao nhân thường băn khoăn trăn trở cho cách đặt tên
nhan đề. Nhan đề của 1 thi phẩm nghệ thuật thường chứa đựng, hé lộ toàn bộ ND của nó.
Không phải ngẫu nhiên trên thi đàn VC, ta bắt gặp những t/p được đổi tên nhan đề.
“CNTT” của Ng T ban đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng”; “Đôi mắt” của Nam Cao ban
đầu có tên là “Tiên sư anh Tào Tháo”; “Mảnh trăng cuối rừng” của Ng Minh Châu ban
đầu có tên là “Mảnh trăng”… Nhan đề Tràng Giang của HC vốn là 2 từ Hán Việt được
ghép lại với nhau nhằm MT 1 dòng sông dài đó chính là dòng sông Hồng bởi khi viết bài
thơ này, HC đang ngồi bên bến bờ Nam Chèm ngắm nhìn con sông Hồng mênh mông
sóng nước. Dòng sông ấy nó không chỉ dài về không gian địa lí, nó còn dài cả về TG lịch
sử. Nó vĩnh viễn thuộc về đất trời VN, nó có từ thủa khai thiên lập địa. Chẳng thế mà
CLV trong vài thơ “Người đi tìm hình của nước” có viêt:
“Sông Hồng chảy về đâu và lịch sử
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần phù đổng sẽ vươn mây”
Tuy nhiên, trong tiếng Hán Việt hiện hành có 2 từ để miêu tả chiều dài đó là chữ
“trường” và chữ “tràng”. Việc HC không viết là “Trường Giang” mà viết là “Tràng
Giang” cho thấy ông là 1 nhà văn rất tinh tế trong việc SD tiếng Việt bởi chữ “trường”
chỉ đơn thuần để chỉ chiều dài còn chữ “Tràng” với âm “ang” là âm mở không chỉ gợi
nên chiều dài của con sông mà còn gợi nên cả chiều rộng của con sông. Đó là dòng sông
đã được HC vẽ lên ở không gian 3 chiều: sâu chót vót, rông mênh mông, dài dằng dặc.
Mà không gian càng mênh mông vô tận bao nhiêu thì tâm hồn của HC lại càng cô liêu
bấy nhiêu. Như vậy, ngay từ nhan đề của t/p, HC đã bộc lộ được rõ phong cách, cá tính
VC và sở trường của mình – 1 nhà thơ luôn bị ám ảnh bởi không gian.
Bài thơ còn có lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Trong 1 số thi
phẩm NT ta bắt gặp lời đề từ. Lời đề từ có thể là 1 câu văn xuôi mà t/g mượn của người
khác. Ta nhớ tới lời đề từ của Nam Cao trong t/p “nước mắt” trước CM mà ông mượn lời
của nhà văn Pháp François Coppée: “Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ. Nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ.” Lời đề từ có thể là
câu văn vần của chính nhà thơ như trong “vội vàng” XD có viết:
“tôi muốn tắt nắng đi…
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Ta cũng không thể bỏ qua được khổ thơ đề từ của nhà thơ Tố Hữu trong tập “Việt
Bắc”
“Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên”
Lời đề từ khong phải là 1 thứ trang sức làm đẹp da cho 1 thi phẩm nghệ thuật. Trái
lại, nó là 1 dụng ý NT, 1 xuất phát điểm. Nó cung cấp cho người yêu thơ 1 chiếc chìa
khóa NT để khám phá ND của t/p. Lời đề từ định hướng từ thi liệu cho đến âm điệu của
bài thơ. “Bâng huâng trời rộng nhớ sông dài.” Lừi đề từ này có âm điệu buồn và đây cũng
chính là âm điệu của bài thơ Tràng Giang. Đọc kĩ lời đề từ, ngẫm nghĩ lại, ta thấy ở đó
HC đã đưa ra 2 thi liệu chính mà t/g đã dùng để XD lên Tràng Giang đá là “Trời rộng” và
“sông dài”. 2 thi liệu này kết tinh ở 2 câu thơ đẹp nhất trong bài Tràng Giang:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Và thế là trong 2 khổ thơ còn lại HC đã triển khai trên những thi liệu này. Khổ thơ
thứ 3 là dòng sông dài dằng dặc với những cánh bèo đang chảy trôi về nơi vô định. Khổ
thơ cuối cùng là bầu trời cao rộng với lớp lớp mây cao. Mà trong thi ca, nói về sông, trời
là nói về giang sơn; mà nói về giang sơn là nói về Tổ quốc. Như vậy, ta có thể thấy bài
thơ đã bộc lỗ rõ tình yêu quê hương đất nước thầm kín trong tâm hồn của HC nói riêng,
của 1 thời đại trong thi ca mà theo như Ng T là “Sống giữa quê hương nhưng vẫn thấy
mình thiếu quê hương” nói chung. Còn CLV lại viết
“ND ở quanh ta mà sao chẳng thấy
Tổ quốc ở quanh mình mà có cũng như không”
+ Nhan đề: tạo ấn tượng sâu sắc qua sáng tạo ngôn từ và hình ảnh. -Tràng Giang [tràng hay trường: dài, giang: sông]. Với hai âm Hán Việt và điệp
vần "ang" nhan đề bài thơ gợi âm điệu ngân vang, trầm hùng, lan tỏa, gợi hình ảnh một
con sông không chỉ dài mà còn rộng.
- Với cách diễn đạt vừa gợi hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ điển vừa gợi hình
ảnh dòng sông quê, gần gũi quen thuộc với tâm hồn người Việt Nam.
Nhan đề đem đến hình tượng trung tâm vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa xa xôi mơ
hồ vừa gần gũi quen thuộc.
+ Lời đề từ:
Câu thơ đề từ:" Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" thể hiện sâu sắc cảm xúc chủ
đạo của bài thơ Tràng Giang.
Các hình ảnh thiên nhiên: trời rộng - sông dài gợi những không gian khác nhau từ
cao đến thấp, từ xa đến gần, gợi bức tranh thiên nhiên mênh mông rộng lớn, mang tầm vũ
trụ.
- Cảm xúc: buâng khuâng - nhớ
+ Từ láy buâng khuâng: xao động tinh tế mơ hồ trong tâm trạng.
+ Nhớ: không gắn liền với đối tượng cụ thể nên chỉ là nỗi nhớ mơ hồ, đó là những
hoài niệm của con người về những điều đã xa khuất trong thời gian, không gian.
==> Cảm xúc buâng khuâng nhớ thương là cảm xúc chủ đạo chi phối toàn bài thơ.
Nhan đề và lời đề từ của bài thơ được lựa chọn rất tinh tế, hàm xúc, tài hoa đã khái
quát được cảm hứng tư tưởng trung tâm nổi bật của bài, đồng thời in đậm dấu ấn của hồn
thơ Huy Cận, nhà thơ của "nỗi khắc khoải không gian","nỗi sầu nhân thế". BÀI MẪU SỐ 4:
Huy Cận là nhà thơi tiêu biểu của phong trào Thơ mới với hai phong cách sáng tác
theo từng thời kì của lịch sử. Một giọng thơ u uất, sầu não trước cách mạng tháng Tám
đối lập với giọng thơ sôi nổi, hào hùng sau cách mạng tháng Tám. Bài thơ “Tràng giang”
tiêu biểu cho phong cách u uất, não nề của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám với
nhiều nỗi niềm, trăn trở. Đặc người người đọc ấn tượng với nhan đề và lời đề từ độc đáo.
Nhan đề chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc có thể lần mò theo đó
khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ “Tràng giang” cũng vậy, ý
nghĩa, nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn vẹn hai từ “Tràng giang”. Mỗi
nhan đề đều toát lên ý nghĩa riêng biệt làm nổi bật lên chủ đề, tư tưởng của tác phẩm đó.
Một số nhan đề có tính chất gợi mở, một số nhan đề khằng định nội dung. Tuy
nhiên, sáng tạo theo cách viết nào thì nó cũng bao hàm những dụng ý nghệ thuật riêng.
Nhan đề của bài thơ có tên “Tràng giang” với vần “ang’ chủ đạo vừa có ý nghĩa gợi mở,
vừa tạo nên sự u buồn dai dẳng và nặng nề, cứ triền miên trong tâm thức của tác giả.
“Tràng giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ hán việt ý chỉ con sông dài.
Nhưng tác giả lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”. Bởi vốn dĩ
“Trường giang” chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại
“Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của
chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng
trước con sông Hồng rộng lớn mênh mông này. Và hình ảnh cụ thể của dòng “tràng
giang” có lẽ là dòng sông Hồng. Sông Hồng là điểm nhấn khơi gợi cảm xúc của tác giả,
đồng thời chồng chất những bế tắc không lối thoát cho những con người muốn đổi mới
nhưng không tìm được con đường đi riêng cho chính mình. Như vậy nhan đề “Tràng
giang” đã được làm sáng rõ, với ý nghĩa sâu xa như vậy. BÀI MẪU SỐ 5:
Bài thơ “Tràng giang" được gợi tứ từ cảnh sông Hồng vào một buổi chiều thu
1939. Theo lời tâm sự của Huy Cận: Hồi đó ông theo học ở trường canh nông Hà Nội, lại
phải sống trong cảnh xa quê và sẵn mang trong lòng nỗi cô đơn. Cho nên vào một buổi
chiều thu khi tác giả đứng ở bờ Nam b n Chèm nhìn cảnh sông Hồng, mênh mang sông
nước, bốn bờ vắng lặng bao la nghĩ về kiếp người nổi trôi nhỏ bé, nhà thơ cảm thấy nỗi
buồn của mình cũng như đang được trải ra như những lớp sóng và Huy Cận đã viết
“Tràng giang”.
Lúc đầu bài thơ có tựa đề “Chiều thu trên sông” và được phác thảo dưới dạng thơ
lục bát sau 17 lần trăn trở, lao động nghệ thuật miệt mài “Tràng giang mới có nhan đề và
hình thức như hôm nay. Nó được in trong tập “Lửa thiêng” năm 1940 và trở thành thi
phẩm xuất sắc của Thơ mới.
Không phải ngẫu nhiên Huy Cận đặt tên cho bài thơ là “Tràng giang” mà đây vốn
là từ Hán Việt được biến âm từ hai chữ “Trường giang” [sông dài], Huy Cận không có ý
miêu tả một con sông với chiều dài theo dòng thuỷ triều mà muốn gợi lên một dòng sông
mênh mang, vô tận, một dòng song mang ý vị cổ kính như từ thời tiền sử chảy về - con
sông của lịch sử - thi ca – văn hoá. Mặt khác, sự lựa chọn này còn tạo lên sự giao thao
đồng điệu với tâm hồn cô đơn của thi sĩ trước cảnh trời nước mênh mang bởi sự lặp lại
của âm “ang” gợi cảm giác dòng sông không chỉ dài mà còn mênh mông bát ngát. Như
vậy, nhan đề của thi phẩm đã bộc lộ cảm hứng chủ đạo của tác giả.
Đề từ trong bài thơ này không phải là thứ trang sức nghệ thuật mà nó thường là
điểm tựa cho cảm hứng cho ý tưởng của tác giả trong tác phẩm. Bài thơ có lời đề từ
“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, câu đề từ như thêm lần nữa vén bức rèm bước qua
hành lang mở thông vào cõi vô biên. Với câu đề từ tác giả như muốn mách bảo: con
người bâng khuâng, nhung nhớ trước trời rộng, sông dài và cũng là trời rộng bâng khuâng
nhớ sông dài. Cái độc đáo của câu thơ này chính là sự giao thoa giữa hai nghĩa ấy. Nói
như lời của tác giả: “Bài thơ tưởng là cảnh nhưng thực sự là tả tâm hồn”, ở đó tình cảm
giao hoà vì một từ dòng sông cụ thể, Huy Cận suy nghĩ về dòng sông “Tràng giang’ của
cuộc đời, từ nỗi buồn riêng của mình nhà thơ suy nghĩ về thân phận bơ vơ của kiếp
người. BÀI MẪU SỐ 6:
Lời đề từ tựa như phần trích dẫn ngắn gọn được đặt vào đầu tác phẩm nhằm thâu
tóm và gợi mở cho nội dung của toàn bài. Câu đề thường thể hiện những điều tâm đắc
của người viết, đồng thời dẫn dắt bạn đọc đi vào thế giới của những dòng thơ một cách
nhẹ nhàng hơn. Hơn thế, lời đề từ còn bổ sung thêm cho nội dung và cảm xúc của tác
phẩm, góp phần làm sinh động hơn hồn thơ và mạch thơ. Đối với bài thơ “Tràng giang”
cũng vậy, nhờ có lời đề từ mà ta hiểu sâu hơn những suy nghĩ của Huy Cận khi sáng tác
tác phẩm này.
Bài thơ “Tràng giang” được viết vào mùa thu năm 1939, lấy cảm xúc từ cảnh sông
Hồng mênh mang sóng nước. Khi đất nước vẫn đang chìm trong những khổ đau mà thực
dân Pháp gây nên, hình ảnh dòng sông trong tiết trời thu càng làm con người thêm sầu
não. Một lời đề từ tưởng như nhãn tự cho cả tập “Lửa thiêng”: “Bâng khuâng trời rộng
nhớ sông dài” đã tạo nên những giá trị, ấn tượng khó phai trong lòng bạn đọc.
Dẫn người đọc vào một thế giới mênh mang sóng nước, lời đề từ trong bài thơ
“Tràng giang” gợi lên toàn bộ chủ đề của tác phẩm – viết về cảnh dòng sông Hồng bao
la. “Bâng khuâng”, ấy chính là nỗi lòng tác giả khi bắt đầu đặt bút, là thi hứng của một
nhà thơ. Người xưa vẫn nói, điều quan trọng nhất của văn chương chính là tâm hồn nghệ
sĩ. Hay Lê Quý Đôn cũng từng nhắc “thơ phát ngôn từ lòng người ta”. Thứ cảm giác bâng
khuâng ấy liệu chỉ có còn là lòng tác giả hay đã được Huy Cận phóng bút tạo nên những
điều mới lạ? Từ “bâng khuâng” được đặt đầu câu có lẽ chính là nỗi lòng của “trời rộng” –
lòng của một nam nhi trong công cuộc kháng chiến. “Trời rộng” nhớ “sông dài”, phải
chăng đó chỉ là một nỗi buồn man mác trong tiết trời thu? Tiếng lòng của Huy Cận được
toát lên chỉ qua một lời đề từ, thứ tiếng mà chẳng ai nghe, chẳng ai thấu, cũng khó lòng
mà giãi bày cùng ai được. Gửi tâm sự cho trời rộng để rồi nhớ đến sông dài, tác giả mở ra
trong mắt bạn đọc không chỉ là một thế giới nước mênh mông.
Trước những áp bức mà thực dân Pháp gây nên, lòng nhà thơ như có nhiều ngã rẽ.
Ông muốn tìm cho mình một con đường đúng đắn nhưng vẫn chưa biết nên chọn ra sao.
Sông mênh mang mở ra trước mắt, dòng sông của quê hương, dòng sông của dân tộc, con
sông Hồng thắm vị phù sa. Kiếp người quá bé nhỏ khi đứng trước trời đất bao la như thế,
lòng Huy Cận đầy ắp những sầu lo.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Video liên quan