Kinh tế Nhật Bản đã phát triển như thế nào sau chiến tranh thế giới thứ hai

Hướng dẫn giải các bài tập cuối bài học

Câu 1: Trang 98  - sgk lịch sử 8

Kinh tế Nhật Bản đã phát triển như thế nào sau chiến tranh thế giới thứ nhất?


Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ nhất:

  • Trong vòng 5 năm đầu, sản lượng công nghiệp của Nhật Bản tăng gấp 5 lần.
  • Nhiều công ty xuất hiện, mở rộng sản xuất và xuất khẩu hàng hóa ra các thị trường châu Á.
  • Nông nghiệp chưa có gì thay đổi, đời sống nhân dân còn thấp.

=>Kinh tế Nhật Bản tuy có phát triển vài năm đầu chiến tranh nhưng không ổn định, bấp bênh, nông nghiệp lạc hậu, trì trệ, mất cân đối.


Trắc nghiệm lịch sử 8 bài 19: Nhật Bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới [1918 - 1939] [P2]

Từ khóa tìm kiếm Google: Kinh tế Nhật Bản, nhật bản sau chiến tranh thế giới thứ nhất, kinh tế nhật bản phát triển sau chiến tranh, giải lích sử 8 câu 1 trang 98 sgk.

Như một đất nước bị đánh bại, sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã rơi vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, đặc biệt trong các điều kiện kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, Nhật Bản đã thực hiện cải cách đất đai, cải cách công ty và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động… Điều này đã mang đến sự phát triển ” phép màu ” của nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn này. Giai đoạn 1951 – 1973. Hãy cùng Luatvn.vn tìm hiểu thêm về vấn đề này thông qua bài viết sau.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản thế nào?

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nền kinh tế Nhật Bản rơi vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng ; thiếu năng lượng, lạm phát kinh tế, vấn đề thất nghiệp. Nhật Bản đã bị quân đội mỹ chiếm đóng.

Hầu hết các cơ sở sản xuất được chuyển đổi thành sản xuất chiến tranh, hầu hết đều bị phá hủy trong chiến tranh. Với 6 triệu người lính Nhật Bản và dân thường trở về từ mọi vùng chiến tranh ở thái bình dương, chính phủ Nhật Bản phải đối mặt với gánh nặng thất nghiệp.

  • Giải thể nhóm zaibatsu: mục tiêu này nhằm phá hủy quyền lực quân sự của Nhật Bản, xóa bỏ quyền kiểm soát một số công ty lớn trong nền kinh tế.
  • Đồng thời, thực hiện cơ cấu lại các công ty theo hướng của centralization. Giải pháp này đã tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ cho tất cả các ngành công nghiệp và cơ chế thị trường mạnh mẽ
  • Giải quyết vấn đề công việc: cải thiện điều kiện làm việc, tăng lương cho công nhân. Cụ thể, thực hiện dân chủ hóa lao động.
  • Trong thời gian từ năm 1945 – 1947, ba luật được ban hành: luật công đoàn, luật tiêu chuẩn lao động và luật quy định về quan hệ lao động.
  • Cải cách đất: nó được quy định rằng các nhà địa chủ chỉ có thể giữ một phần đất của họ, tối đa là 5 ha, giảm xuống còn 1 ha. Phần còn lại của nhà nước sẽ mua và chuyển sang nông dân không có đất.

Sự phát triển kỳ diệu của nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2

Với ” tinh thần của Nhật Bản ” và sự đồng thuận của toàn bộ người dân của ” đất nước Nhật Bản khoảng 20 năm sau chiến tranh – 1973], nền kinh tế Nhật Bản phát triển ở một tốc độ choáng váng chóng mặt. Nhiều nhà kinh tế thế giới coi đây là sự phát triển ” phép màu ” của nền kinh tế Nhật Bản.

Từ sự tàn phá sau chiến tranh, Nhật Bản trở thành sức mạnh kinh tế thứ hai trong thế giới tư bản sau khi Hoa Kỳ. Cụ thể:

Tăng trưởng kinh tế nhanh

Từ năm 1952 đến năm 1973, tốc độ tăng trưởng sản phẩm trong nước của Nhật Bản là cao nhất trong các nước tư bản. So với thời gian năm 1950, năm 1973 giá trị tổng sản phẩm quốc nội tăng hơn 20 lần, từ 20 tỷ usd đến 402 tỷ usd, vượt qua anh, pháp và đức.

Tỷ lệ phát triển công nghiệp vào năm 1950 – 1960 là 15, 9% ; từ 1960 – 1969 là 13, 5%. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ $4. 1 tỷ năm 1950 đến $56. 4 tỷ năm 1969.

Ngành công nghiệp phát triển và phát triển

Các ngành công nghiệp then chốt đã tăng trưởng nhanh chóng. Mặc dù Nhật Bản hầu như không có mỏ dầu, đó là nước tư bản hàng đầu trong việc nhập khẩu và xử lý dầu thô. Chỉ riêng năm 1971, nó nhập khẩu 186 triệu tấn dầu thô ; sản xuất thép năm 1950 là 4, 8 triệu tấn, vào năm 1973, nó có 117 triệu tấn.

Năm 1960, ngành công nghiệp ô tô của Nhật đứng thứ sáu trong thế giới tư bản và năm 1967 đã tăng lên đến vị trí thứ hai sau Hoa Kỳ.

Sự phát triển nhanh chóng của một số thành phần kinh tế lớn đã thay đổi nhanh chóng cấu trúc ngành sản xuất của Nhật Bản. Tỷ lệ ngành nông nghiệp – lâm nghiệp – thủy sản đã giảm đáng kể. Thay vào đó, có sự tăng trưởng trong ngành công nghiệp và dịch vụ.

Hiện tại, Nhật Bản là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng đầu ở châu á và thế giới, được so sánh với ” dragon dragon “. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, Nhật Bản đã thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động từ nhiều nước trong khu vực, trong đó, Việt Nam là một trong những thị trường chính.

” Yếu tố ” mang lại sự phát triển kỳ diệu của nền kinh tế Nhật Bản?

Thúc đẩy vai trò của nhân tố

Sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản trước tiên phải đến với nhân tố con người. Thừa kế giáo dục của giai đoạn trước, vì thế chiến thứ hai, Nhật Bản đã chiếm được hệ thống giáo dục trong 9 năm. Trên cơ sở đó, người Nhật tập trung vào việc đào tạo một nhóm công nhân có kỹ năng có khả năng nắm bắt và sử dụng kỹ thuật mới và công nghệ mới.

Ngoài ra, nhân viên khoa học và kỹ thuật của Nhật Bản khá lớn và có chất lượng cao, làm một đóng góp lớn cho sự phát triển kỹ thuật và công nghệ của đất nước.

Người quản lý kinh doanh cũng được coi là những người nhạy cảm biết cách nắm bắt thị trường và đổi mới các phương pháp kinh doanh, mang về chiến thắng của các công ty Nhật trong đấu trường quốc tế.

Duy trì tích lũy và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả

” Quốc gia của mặt trời mọc ” được coi là đất nước với tỷ lệ tích lũy vốn cao nhất trong các nước tư bản phát triển. Tỷ lệ tích lũy vốn thường xuyên trong kỳ 1052 – 1973 là khoảng 30 – 35% thu nhập quốc gia.

Đặc biệt, tỷ lệ đầu tư vào vốn cố định trong tổng sản phẩm xã hội của Nhật Bản là cao. Đây là một trong những yếu tố quyết định, đảm bảo nền kinh tế Nhật Bản phát triển ở tốc độ cao.

Về việc sử dụng vốn, Nhật Bản cũng là một cách sử dụng táo bạo và hiệu quả. ở Nhật Bản, nhiều ngân hàng thương mại chấp nhận các khoản vay đến 95% của tổng vốn. Một số biện pháp nguy hiểm này tạo điều kiện cho việc tăng số vốn chuyển sang sản xuất và kinh doanh.

Mọi chi tiết về xuất khẩu lao động và du học Nhật Bản, các bạn có thể liên hệ Luatvn.vn qua hotline/zalo: 076.338.7788.

Trong thế chiến thứ 2, Nhật Bản là một trong những bên tham chiến, “châm ngòi nổ” tại mặt trận Châu Á – Thái Bình Dương. Tuy nhiên, quốc gia này cũng chịu rất nhiều hậu quả nặng nề sau thất bại tại cuộc chiến này và phải đầu hàng không điều kiện. Với bài viết này, hãy cùng tìm hiểu chi tiết về Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ 2 – Cuộc chiến tàn khốc nhất lịch sử.

Nhật Bản là đất nước như thế nào trong thế chiến thứ 2?

Nhật Bản giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật Bản là nước thứ hai [sau Mỹ] thi được nhiều lợi nhuận từ cuộc chiến. Điều này đem đến nhiều lợi thế để phát triển kinh tế, công nghiệp.

Cụ thể, trong những năm đầu [1914- 1919], công nghiệp nước này tăng gấp 5 lần, sản xuất phát triển, hàng hóa cũng đang đẩy mạnh xuất khẩu ra các thị trường châu Á. Về nông nghiệp, nông nghiệp Nhật không có nhiều thay đổi, giá gạo tăng và đời sống nhân dân rất khó khăn. Những tàn dư của phong kiến vẫn tồn tại nặng nề ở nông thôn.

Đến năm 1927, Nhật Bản lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính, chấm dứt sự phục hồi kinh tế của nước này. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này là do dân số tăng quá nhanh, thiếu nguyên liệu sản xuất và thị trường tiêu thụ. Thêm đó, sự mất cân đối giữa sản xuất công nghiệp và nông nghiệp cũng ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Nhật thời điểm đó.

Đặc biệt, hậu quả nặng nề từ trận động đất Tokyo dẫn đến sự suy thoái kinh tế với những tổn thất nặng nề. Trận động đất đã làm cho khoảng 140.000 người chết và mất tích, thủ đô Tokyo gần như sụp đổ hoàn toàn.

Đi liền với những khó khăn về tài chính, đời sống xã hội Nhật Bản cũng rất khó khăn, dẫn đến sự bùng nổ của các cuộc đấu tranh. Năm 1928 diễn ra vụ “bạo động lúa gạo”, các phong trào đấu tranh của công nhân cũng diễn ra vô cùng sôi nổi.

Trước tình hình này, tháng 7/1922, Đảng cộng sản Nhật được thành lập để lãnh đạo phong trào công nhân trong nước.

Xem thêm: Điều kiện đi xuất khẩu lao động nhật bản

Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ 2

Trong những năm từ 1929-1939, nền kinh tế Nhật phải chịu những hậu quả nặng nề do cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Công nghiệp giảm 32%, ngoại thương giảm 80%, 3 triệu lao động thất nghiệp, những cuộc đấu tranh của nông dân diễn ra quyết liệt. Số người thất nghiệp lên tới 3 triệu người.

Để đưa nước Nhật ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, giải quyết khó khăn do thiếu nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ hàng hóa, giới cầm quyền Nhật đã tăng cường chính sách quân sự hóa đất nước, gây chiến tranh xâm lược bành trướng ra bên ngoài.

Khởi đầu của chính sách này là việc chiếm Trung Quốc, châm ngòi nổ cho chiến tranh thế giới thứ 2 tại mặt trận châu Á- Thái Bình Dương và sau đó là châu Á và toàn thế giới.

Cụ thể, tháng 9/1931, Nhật Bản tiến đánh vùng Đông Bắc Trung Quốc, mở đầu cuộc xâm lược nước này với quy mô rộng.

Đến khoảng đầu thập niên 1930, Nhật Bản diễn ra quá trình thiết lập chế độ phát xít với việc sử dụng rộng rãi bộ máy quân sự và cảnh sát của chế độ quân chủ Nhật Bản.

Trong lúc này, hạt nhân Đảng cộng sản đã tổ chức nhiều hình thức chống phát xít hóa, lôi kéo nhân dân, sĩ quan và binh lính. Tuy các cuộc đấu tranh đều thất bại, xong cũng góp phần làm chậm quá trình phát xít hóa tại Nhật Bản.

Xem thêm: Thủ tục đi xuất khẩu lao động nhật

Tình hình Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2

Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản là nước bại trận, bị quân đội nước ngoài chiếm đóng, mất hết thuộc địa và nền kinh tế bị tàn phá nặng nề. Nhiều khó khăn bao trùm quốc gia này như thất nghiệp, thiếu thốn lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, lạm phát nặng nề.

Sản xuất công nghiệp năm 1946 chỉ bằng ¼ so với trước chiến tranh. Nhật Bản phải dựa vào sự “viện trợ” kinh tế của Mỹ dưới hình thức vay nợ để phục hồi kinh tế.

Dưới chế độ quân quản của Mỹ, một loạt các chính sách dân chủ được tiến hành như ban hành hiến pháp mới, thực hiện cải cách ruộng đất, xóa bỏ chủ nghĩa quân phiệt và trừng phạt tội phạm chiến tranh, giải giáp các lực lượng vũ trang, ban hành các quyền tự do dân chủ. Những chính sách này đã đem đến không khí mới với các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy sự phát triển đất nước.

Từ năm 1945-1950, nước Nhật bước vào thời kỳ phục hồi kinh tế, nền kinh tế phát triển chậm chạp và phụ thuộc vào kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, chỉ từ những năm 70 trở đi, kinh tế nước này phát triển mạnh mẽ. Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế- tài chính lớn của thế giới.

Xem thêm: Hồ sơ đi xuất khẩu lao động nhật bản

Vì sao Nhật Bản lại có bước phát triển vượt bậc như vậy? Hãy tham khảo bài viết: Tìm hiểu về đất nước Nhật Bản – Viên Ngọc từ đống đổ nát

Nước Nhật cũng rất coi trọng việc phát triển kinh tế, xã hội với hàng trăm viện khoa học- kỹ thuật, phát triển các cơ sở nghiên cứu trong nước và mua các phát minh nước ngoài. Tình hình chính sách đối nội, đối ngoại cũng được cải thiện và phát triển. Sau năm 1951, Nhật Bản trở thành đồng minh của Mỹ nhằm chống lại các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc ở Viễn Đông.

Hiện nay thị trường lao động Nhật Bản đang mở ra nhiều cơ hội cho những lao động muốn kiếm thêm thu nhập cũng như học hỏi và trau dồi kỹ năng chuyên môn. Nếu bạn muốn đi xuất khẩu lao động Nhật Bản thì cần tìm hiểu kỹ thông tin cũng như lựa chọn ngành nghề phù hợp với năng lực bản thân nhé!

Xem thêm: Chi phí xuất khẩu lao động nhật bản

Với những thông tin trên, bài viết hi vọng đã đem đến chia sẻ hữu ích, giúp bạn hiểu rõ hơn về tình hình Nhật Bản trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2.

TƯ VẤN XKLĐ NHẬT BẢN 24/7

HỖ TRỢ TƯ VẤN TRỰC TUYẾN VÀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ THAM GIA

HOTLINE: 091.858.2233 [Hỗ trợ tư vấn 24/7 qua: Call, Message, Zalo, SMS]

Nếu không tiện nói chuyện qua điện thoại hoặc nhắn tin ngay lúc này, bạn có thể YÊU CẦU GỌI LẠI bằng việc nhập số điện thoại vào form bên dưới để được cán bộ tư vấn của công ty liên lạc hỗ trợ.

Video liên quan

Chủ Đề