Ví dụ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Một ví dụ đơn giản về sự cạnh tranh trong việc học hành, đó là khi trong một lớp có sự ganh đua, cạnh tranh trong môn học, ắt sẽ tìm ra những người học sinh giỏi, có năng lực. Nhưng trên trường kinh doanh thì không thể đơn giản được như thế, bởi còn có cả lợi ích trong đó thì việc bất chấp “thủ đoạn” để đạt được mục đích riêng, đạt được lợi nhuận cao nhất của các tổ chức, cá nhân kinh doanh không phải chuyện “xưa nay hiếm”. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế đã và đang là một nguồn động lực không thể thiếu để thúc đẩy kinh tế phát triển không ngừng. Và vai trò của nhà nước tại mỗi quốc gia trong việc điều tiết cạnh tranh là vô cùng quan trọng, nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo các doanh nghiệp không thao túng thị trường.

Thỏa thuận là khái niệm rộng và theo từ điển tiếng Việt thỏa thuận được hiểu là sự nhất trí chung [không bắt buộc phải được nhất trí hoàn toàn] được thể hiện ở chỗ không có một ý kiến đối lập của bất cứ một bộ phận nào trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện thông qua một quá trình mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phải được xem xét và dung hoà được tất cả các tranh chấp; là việc các bên [cá nhân hay tổ chức] có ý định chung tự nguyện cùng nhau thực hiện những nghĩa vụ mà họ đã cùng nhau chấp nhận vì lợi ích của các bên. Trong hoạt động cạnh tranh, có những thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh, có thỏa thuận khuyến khích cạnh tranh những cũng có những thỏa thuận trung tính, không khuyến khích cạnh tranh nhưng cũng không hạn chế cạnh tranh.

Trong kinh tế học, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận là sự thống nhất cùng hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh[1]. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thể hiện tình trạng độc quyền nhóm do các doanh nghiệp đạt được bằng cách liên kết với nhau để kiểm soát thị trường. Do vậy người tiêu dùng sẽ không được hưởng lợi từ sự cạnh tranh lành mạnh về giá cả trên thị trường mà đáng lẽ họ phải được hưởng nếu không có thỏa thuận ấn định giá giữa các doanh nghiệp.

Luật Cạnh tranh năm 2018 đã đưa ra định nghĩa về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Khoản 4 Điều 3 như sau: “Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi thỏa thuận giữa các bên dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh”. Luật này cũng liệt kê các thỏa thuận bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bao gồm các thỏa thuận đó là:

Điều 11. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

1. Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.

2. Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

3. Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

4. Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

5. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh.

6. Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận.

7. Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư.

8. Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.

9. Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận.

10. Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận.

11. Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.”

Có hai dạng thoả thuận hạn chế cạnh tranh là thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc và theo chiều ngang. Nếu thoả thuận hạn chế cạnh tranh “theo chiều ngang” là giữa các công ty cùng kinh doanh trong một lĩnh vực thì thoả thuận hạn chế cạnh tranh “theo chiều dọc” là giữa các công ty ở các giai đoạn sản xuất hoặc phân phối khác nhau. Luật Cạnh tranh năm 2018 đã mở rộng phạm vi các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị kiểm soát, bao gồm cả các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang và chiều dọc, bằng cách liệt kê các loại thỏa thuận trên. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Điều 12 Luật Cạnh tranh năm 2018 như sau:

Điều 12. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm

1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 11 của Luật này.

2. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 11 của Luật này.

3. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan quy định tại các khoản 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 của Luật này khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.

4. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định quy định tại các khoản 1, 2, 3, 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 của Luật này khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.”

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tại Điều 12 Luật này được bổ sung so với Luật Cạnh tranh năm 2004 đó là: thỏa thuận giữa các doanh nghiệp trên cùng một thị trường liên quan gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định.

Trước hết thị trường liên quan được pháp luật định nghĩa là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả trong khu vực địa lý cụ thể có các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận [căn cứ vào Khoản 7 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018]. Thị trường liên quan được xác định trên cơ sở thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Thoả thuận theo chiều ngang được hiểu là các thoả thuận giữa các doanh nghiệp cùng ngành hàng hoạt động trên cùng thị trường liên quan như thoả thuận giữa các nhà sản xuất hay giữa những nhà bán buôn hoặc giữa các nhà bán lẻ của những loại sản phẩm tương tự nhau. Thoả thuận theo chiều ngang được thực hiện giữa các đối thủ cạnh tranh với nhau và có thể trực tiếp tăng khả năng khống chế thị trường của các doanh nghiệp tham gia thoả thuận, điều đó làm tăng khả nằng của các doanh nghiệp trong việc tính giá sản phẩm, dịch vụ của họ cao hơn mức giá thị trường và gây thiệt hại tới quyền lợi người tiêu dùng.

Thoả thuận theo chiều ngang phổ biến là thoả thuận liên quan đến ấn định giá mua bán hàng hoá, dịch vụ, phân chia thị trường, ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia thị trường, thông đồng trong đấu thầu, hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ như các quy định tại Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2018.

Thoả thuận theo chiều dọc là các thoả thuận liên quan đến việc bán lại những sản phẩm từ nhà sản xuất hay nhà cung cấp do đó nó diễn ra giữa các doanh nghiệp ở các công đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm như thoả thuận giữa nhà sản xuất với nhà phân phối. Thoả thuận theo chiều dọc diễn ra giữa các doanh nghiệp không phải là đối thủ của nhau mà là giữa các doanh nghiệp bổ trợ lẫn nhau và có thể là khách hàng của nhau. Vì thế, các thoả thuận theo chiều dọc thường không tạo ra khả năng khống chế thị trường.

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Khoản 1, 2, 3 Điều 11 Luật này dẫn đến hậu quả là làm giảm sức ép cạnh tranh trên thị trường vì vậy pháp luật cạnh tranh các nước trên thế giới đều mặc nhiên cấm mà không cần đánh giá tác động hay khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. Nhưng những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này vẫn có thể hưởng miễn trừ nếu có lợi cho người tiêu dùng và đạt được điều kiện theo luật định.

Các hành vi quy định tại Khoản 4, 5, 6 Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2018 là những hành vi bị cấm tuyệt đối, không kể doanh nghiệp thực hiện hành vi có cùng thị trường liên quan hay không. Sở dĩ những hành vi này bị cấm tuyệt đối là do hậu quả bất lợi của hành vi gây ra đối với môi trường cạnh tranh. Luật Cạnh tranh 2018 không tiếp cận kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ dựa vào tiêu chí thị phần như Luật cũ, mà kiểm soát hành vi trên cơ sở bản chất, tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của hành vi.

Ngoài những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh còn lại chỉ bị cấm khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường, lúc này pháp luật cạnh tranh mới cần phải can thiệp. Tác động hạn chế cạnh tranh là tác động loại trừ, làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Cách đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định cụ thể tại Điều 13 của Luật Cạnh tranh năm 2018 và được hướng dẫn bởi Chương 3 Nghị định số 35/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Luật Cạnh tranh năm 2018

Luật Hoàng Anh

[1] Giáo trình luật cạnh tranh, Trường đại học Kinh tế-Luật, Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh.

Hành vi hạn chế cạnh tranh là gì? Đặc điểm của hành vi hạn chế chế cạnh tranh là gì? Bài viết sau đây công ty FBLAW chúng tôi sẽ giúp bạn đọc giải quyết những thắc mắc trên.

1.Khái niệm Hành vi hạn chế cạnh tranh

Theo khoản 2 điều 3 Luật cạnh tranh 2018 thì:

Là hành vi gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền.

2. Đặc điểm của Hành vi hạn chế cạnh tranh

a. Về chủ thể 

– Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận cùng trên thị trường liên quan;

– Các doanh nghiệp phải hoạt động độc lập với nhau, không phải là những người liên quan của nhau theo pháp luật doanh nghiệp; không cùng trong một tập đoàn kinh doanh, không cùng là thành viên của tổng công ty. Những hành động thống nhất của tổng công ty, của một tập đoàn kinh tế hoặc của các công ty mẹ, con, không được pháp luật cạnh tranh coi là thỏa thuận bởi thực chất các tập đoàn kinh tế nói trên cho dù bao gồm nhiều thành viên cũng chỉ là một chủ thể thống nhất.

b. Hình thức của thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp có thể công khai hoặc không công khai

Để xác định các hành động của một nhóm doanh nghiệp độc lập là thỏa thuận, cơ quan có thẩm quyền phải có đủ bằng chứng kết luận rằng giữa họ đã tồn tại một hợp đồng, bản ghi nhớ, các cuộc gặp mặt cho thấy đã có một thoả thuận công khai hoặc ngầm đồng ý về giá, về hạn chế sản lượng, phân chia thị trường. Một khi chưa có sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia thì chưa thể kết luận có sự tồn tại của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải được hình thành từ sự thống nhất ý chí của các doanh nghiệp tham gia về việc thực hiện một hành vi hạn chế cạnh tranh. Hình thức pháp lý của sự thống nhất ý chí không ảnh hưởng đến việc định danh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Do đó, chỉ cần hội đủ hai điều kiện là có sự thống nhất ý chí và các doanh nghiệp đã cùng thống nhất thực hiện một hành vi hạn chế cạnh tranh là có thể kết luận đã có thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cho dù thỏa thuận đó bằng băn bản hay lời nói, thỏa thuận công khai hay thỏa thuận ngầm. Một thỏa thuận thậm chí không cần phải có hình thức pháp lý, ví dụ trong trường hợp các doanh nghiệp thỏa thuận ngầm hoặc cùng hành động phối hợp đã không tồn tại hình thức pháp lý nào.

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm cả các quyết định tập thể của các doanh nghiệp nên các quyết định của Hiệp hội ngành nghề, của các tổ chức nghề nghiệp để các tổ chức, cá nhân kinh doanh thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Cần phân biệt sự thống nhất ý chí và thống nhất về mục đích. Việc xác định một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, chỉ cần chứng minh rằng các doanh nghiệp tham gia đã có sự thống nhất ý chí mà không nhất thiết cần phải có cùng mục đích. Khi thống nhất thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể cùng hoặc không cùng theo đuổi một mục đích. Các doanh nghiệp có thể có những mục đích khác nhau khi cùng thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh nào đó.

Vì vậy, nếu dùng mục đích để chứng minh về thỏa thuận có thể làm giảm khả năng điều chỉnh của pháp luật.Với nhiệm vụ bảo vệ cạnh tranh, pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ cấm đoán các thỏa thuận gây ra hoặc có khả năng gây ra hậu quả phản cạnh tranh trên thị trường. Do đó, nếu có sự thống nhất ý chí và sự thống nhất ý chí đó gây ra hậu quả phản cạnh tranh là có thể xử lý những người tham gia thỏa thuận cho dù mục đích tham gia của họ khác nhau.

Trong việc định danh một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cơ quan có thẩm quyền không chỉ kiểm tra có sự tồn tại thực sự của một thỏa thuận hay sự thống nhất ý chí, mà còn phải khẳng định được rằng thỏa thuận đó chắc chắn xuất phát từ ý chí độc lập của các bên và không chịu sự ràng buộc từ bên ngoài. Việc tồn tại các yếu tố khách quan hoặc chủ quan làm cho các doanh nghiệp không còn độc lập về ý chí cho dù đã hoặc đang cùng thực hiện một hành vi phản cạnh tranh cũng không tạo nên một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong trường hợp này, pháp luật cạnh tranh đã sử dụng khái niệm khiếm khuyết của sự thỏa thuận ý chí trong pháp luật hợp đồng để kết luận về sự tồn tại của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thông thường, các doanh nghiệp không độc lập về ý chí nếu thuộc một trong những trường hợp: các bên đang chịu sự ràng buộc của một văn bản luật, dưới luật nên đã thực hiện hành vi gây ra hậu quả làm hạn chế cạnh tranh, ví dụ: có quyết định của Chính phủ buộc các doanh nghiệp kinh doanh phân bón phải giảm giá bán nhằm ổn định thị trường. Trong trường hợp này, cho dù mức giá bán được đặt ra đã tạo nên rào cản cho việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp tiềm năng thì các doanh nghiệp tham gia vào việc ấn định giá không vi phạm Luật Cạnh tranh; các doanh nghiệp trong cùng một tập đoàn hoặc có quan hệ kiểm soát lẫn nhau. quan hệ trong nội bộ tập đoàn hoặc quyền kiểm soát của một doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp khác có thể làm cho các doanh nghiệp thành viên hoặc các doanh nghiệp bị kiểm soát không thực sự độc lập về ý chí. Vì thế, pháp luật cạnh tranh của các nước đều ghi nhận nguyên tắc “không thể có thỏa thuận phản cạnh tranh giữa hai doanh nghiệp trong đó doanh nghiệp này kiểm soát doanh nghiệp kia hoặc giữa những doanh nghiệp cùng đặt dưới sự kiểm soát chung của một doanh nghiệp thứ ba, hoặc giữa các doanh nghiệp hợp thành một thực thể kinh tế. Tuy nhiên, nguyên tắc này không được áp dụng một cách cứng nhắc mà cần có những phân tích và đánh giá thực tế trong từng vụ việc cụ thể. Nếu có một văn bản luật hoặc dưới luật hoặc quan hệ kiểm soát, quan hệ tập đoàn đã buộc các doanh nghiệp phải thực hiện một hành vi gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh thì hành vi tập thể của các doanh nghiệp đó không cấu thành nên thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Cơ quan có thẩm quyền dễ dàng tìm ra được những bằng chứng về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đối với các thỏa thuận công khai, song tìm kiếm bằng chứng không đơn giản đối với các thỏa thuận ngầm. Trong thực tế, để đối phó với pháp luật cạnh tranh, các doanh nghiệp thường ngầm thiếp lập nên các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tẩu tán bằng chứng về thỏa thuận.  Tuy nhiên, để kết luận hành động phối hợp là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh còn cần thêm những bằng chứng về sự thống nhất ý chí.

c. Nội dung của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường tập trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh nhau như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng và nội dung của hợp đồng.

Khi những nội dung của thỏa thuận được hình thành và thực hiện, thì các yếu tố nói trên sẽ trở thành tiêu chuẩn thống nhất không có cạnh tranh trên thị trường giữa những người tham gia thoả thuận. Nói cách khác, nội dung của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp thống nhất thực hiện cùng một hành vi hạn chế cạnh tranh. Dựa vào hành vi, Điều 8 Luật Cạnh tranh đã liệt kê thành những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cụ thể. Chỉ khi thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 8, thỏa thuận của các doanh nghiệp mới bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được xác định khi chúng đã hoặc chưa được thực hiện. Nói cách khác, việc các doanh nghiệp tham gia đã thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh đã thỏa thuận hay chưa không quan trọng trong việc định danh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Có những trường hợp cơ quan có thẩm quyền phát hiện ra thỏa thuận sau khi các doanh nghiệp thực hiện hành vi và gây hậu quả cho thị trường, song cũng có trường hợp các doanh nghiệp chỉ vừa thống nhất sẽ thực hiện một hành vi hạn chế cạnh tranh và bị phát hiện. Tất cả những trường hợp trên đều cấu thành nên thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Như vậy, chỉ cần có đủ hai điều kiện sau đây:

Thứ nhất, có bằng chứng về sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp;

Thứ hai, các doanh nghiệp thỏa thuận cùng nhau thực hiện hành vi là có thể kết luận về sự tồn tại của một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

d. Hậu quả của dấu hiệu chung cho cả ba loại hành vi hạn chế cạnh tranh, là làm giảm, sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị trường

Sự thống nhất ý chí đã liên kết các doanh nghiệp độc lập với nhau nhằm tạo nên sức mạnh chung trong quan hệ với khách hàng hoặc trong quan hệ cạnh tranh với những doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận. Thế nên hậu qủa đầu của thỏa thuận gây ra cho thị trường là xoá bỏ cạnh tranh giữa những doanh nghiệp tham gia. Khi nội dung thỏa thuận được hình thành, tạo ra những tiêu chuẩn chung về giá, về kỹ thuật, về công nghệ, về điều kiện giao kết hợp đồng… các doanh nghiệp đang từ đối thủ cạnh tranh của nhau sẽ không còn cạnh tranh với nhau nữa. Bằng sức mạnh chung [nếu sự liên kết tạo nên sức mạnh thị trường] và bằng việc thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp tham gia có thể gây thiệt hại cho khách hàng khi đặt ra các điều kiện giao dịch bất lợi cho họ.

Cảm ơn quý khách đã đọc bài viết, trong trường hợp cần trao đổi chi tiết thêm hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ của Công Ty Luật FBLAW chúng tôi, hãy liên hệ qua email  hoặc Hotline 038.595.3737 – 0973.098.987 để được hỗ trợ kịp thời!

Video liên quan

Chủ Đề