Hiện trạng tài nguyên và môi trường vùng biển việt nam hiện nay là gì

Ngày nay, ô nhiễm môi trường biển đang là một vấn đề nghiêm trọng trên thế giới. Ô nhiễm biển cũng là một vấn đề lớn ở Việt Nam, nhưng điều gì gây ra nó.

            THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM HIỆN NAY NHƯ THẾ NÀO ?

Ngày nay, ô nhiễm môi trường biển đang là một vấn đề nghiêm trọng trên thế giới.  Ô nhiễm biển cũng là một vấn đề lớn ở Việt Nam, nhưng điều gì gây ra nó.

Trong bài viết này, tôi sẽ giải thích về ô nhiễm môi trường biển dựa trên tác động đến môi trường và hiện trạng.

  1. Thực trạng ô nhiễm môi trường biển hiện nay

Các nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường biển sẽ được mô tả sau, nhưng hầu hết chúng đều bị ô nhiễm bởi chất thải biển.

Lượng rác thải biển tiếp tục tăng qua từng năm và người ta cho rằng nếu không có biện pháp xử lý thì đến năm 2050 sẽ có nhiều rác thải hơn cá và các sinh vật khác sống trong đại dương. Trong số rác thải biển, nghiêm trọng nhất là rác thải nhựa biển, nhưng cũng có nhiều loại rác thải biển khác gây ô nhiễm biển, ảnh hưởng lớn đến sinh vật và môi trường, và đều được tạo ra từ cuộc sống hàng ngày của con người.

Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường biển được thể hiện ở nhiều nơi. Đáng chú ý nhất trong số này là sự suy giảm sinh vật biển và các sinh vật sống xung quanh nó. Nhiều sinh vật biển tạo ra một môi trường khó sống do ô nhiễm môi trường biển, và nhiều sinh vật trong số chúng chết hàng loạt do hấp thụ rác, dầu và các chất hóa học. Ngoài ra, nó cũng là một nguyên nhân làm giảm số lượng nơi đẻ trứng từ trước đến nay do ô nhiễm môi trường biển.

Nếu tình trạng này tiếp diễn sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta. Sự suy giảm sinh vật biển có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến ngành khai thác thủy sản. Sự mất cân bằng của hệ sinh thái sẽ làm giảm số lượng cá và động vật có vỏ được đánh bắt cho đến nay. Chúng ta không chỉ giảm số lượng cá và động vật có vỏ ăn vào trong chế độ ăn uống của mình mà còn giảm số lượng ngư dân. Họ cũng bảo vệ môi trường biển, vì vậy việc giảm số lượng ngư dân có thể làm cho môi trường biển trở nên tồi tệ hơn. Trên thực tế, một số ngư dân đã phải bỏ nghề do sản lượng khai thác giảm. Nếu bạn làm ô nhiễm đại dương, một vòng xoắn tiêu cực sẽ xảy ra, có thể dẫn đến ô nhiễm thêm.

Đó là lý do tại sao ô nhiễm môi trường biển đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng.

  • Hầu hết các nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường biển là ô nhiễm bởi chất thải biển
  • Trong tất cả các loại rác thải biển, rác thải nhựa biển đang ở trong tình trạng đặc biệt nghiêm trọng.
  • Môi trường biển có thể xấu đi khi số lượng ngư dân bảo vệ môi trường biển giảm.

  1. Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển ?

Ô nhiễm biển chủ yếu là do chất thải biển, nhưng nó không phải là duy nhất. Ví dụ như đổ rác bất hợp pháp, tràn dầu do tai nạn tàu, nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt .

Rác biển

Chất thải biển được coi là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường biển trên thế giới.
Trong số này, rác thải nhựa ở biển là một vấn đề đặc biệt. Rác chủ yếu làm bằng nhựa như chai PET, túi ni lông từ lòng đất chảy ra biển và gây ô nhiễm.

Vì nhựa nhẹ nên dễ bị gió và nước cuốn trôi thành rác, trôi ra biển và trôi dạt vào bờ gây ô nhiễm môi trường biển. Chất thải biển có thể chảy đến các bờ biển của Việt Nam, và chúng được gọi là chất thải trôi dạt. Có thể suy ra rằng lượng rác thải biển trên thế giới còn lớn hơn vì lượng rác thải trôi dạt, bao gồm cả rác thải nhựa, trôi nổi ở vùng biển gần Việt Nam.

Tác động của rác thải biển là rất lớn, với hơn 3.260km đường biển, Việt Nam là quốc gia có sự đa dạng sinh vật biển. Việt Nam có gần 12.000 loại sinh vật biển, trong số này có khoảng trên 2.000 loài cá, gần 6.000 loài động vật đáy, 653 loài tảo, 5 loài rùa, 12 loài rắn biển...

Một loại rác thải nhựa biển nghiêm trọng khác là rác thải nhựa được gọi là vi nhựa có đường kính từ 5 mm trở xuống. Đây là nguyên liệu để làm chất tẩy rửa [được thêm vào với mục đích loại bỏ chất bẩn và chất sừng già ] có trong kem đánh răng,… và có thể có trong nước thải sinh hoạt, sẽ nói ở phần sau. Ngoài ra, có những trường hợp chai PET bị hư hỏng và trở thành vi nhựa do trở thành những mảnh nhựa mịn như vậy.

Khi đường kính là 5 mm, nó không thể nhìn thấy và trôi nổi trên biển dưới dạng các hạt, vì vậy nó phân bố rộng rãi. Theo cuộc khảo sát, nó được cho là đã được quan sát thấy ở vùng biển Bắc Cực và Nam Cực , và nó đang trôi nổi rộng rãi ở vùng biển gần Việt Nam . Vì các sinh vật biển hấp thụ nước biển nên chắc chắn chúng cũng hấp thụ vi nhựa.

Hiện tại chưa ảnh hưởng trực tiếp đến sinh vật sống, nhưng do liên quan mật thiết đên ô nhiễm môi trường nên đây cũng là vấn đề không thể coi thường.

Đổ rác bất hợp pháp

Chất thải biển trên không phải là thứ duy nhất phát sinh trong cuộc sống của chúng ta. Nó cũng bao gồm chất thải đã được đổ bất hợp pháp trên hoặc gần bờ biển. Chỉ nhìn vào nhựa phế thải, người ta nói rằng 58-62% trên thế giới được đổ bất hợp pháp hoặc đốt bất hợp pháp.

Ví dụ như các dụng cụ đánh cá như sợi chỉ và phao câu cá được người câu cá sử dụng. Tất nhiên, đổ nó trên bãi biển cũng là một hành vi đổ rác bất hợp pháp độc hại.

Việc đổ rác thải trái phép không chỉ làm mất mỹ quan mà còn gây ô nhiễm môi trường biển trầm trọng hơn như rác thải biển nên đây cũng được coi là một vấn đề nghiêm trọng.

Sự cố tràn dầu do tai nạn tàu, v.v.

Sự cố tràn dầu do tai nạn tàu cũng là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển. Một vụ tai nạn tàu chở dầu xảy ra nhưng lúc đó lượng dầu lớn đã tràn ra ngoài. Dầu mỏ không chỉ gây ra cái chết của sinh vật biển mà còn đe dọa chính môi trường biển.

Vụ tràn dầu này không chỉ do tai nạn.

Trong các trường hợp bị ô nhiễm bởi dầu, đa số các lượt phát thải dầu là từ tàu, tàu đánh cá, tiếp theo là tàu làm việc.

Nguyên nhân của các vụ xả thải này là các trường hợp do xử lý bất cẩn và do tai nạn hàng hải, và trên thực tế, việc xả nước do xử lý bất cẩn là phổ biến hơn. Nội dung của việc xử lý bất cẩn này bao gồm việc đóng mở van không được xác nhận và bể chứa không được đo lường.

Phát thải các chất hóa học từ các nhà máy, v.v.

Nước thải và chất thải từ các nhà máy chứa rất nhiều chất hóa học như chất lỏng độc hại, và có nhiều trường hợp chúng gây ô nhiễm đại dương.

Thực tế, trong quá khứ, đã có những trường hợp mà con người chúng ta phải chịu tác động lớn. Đó là sự lây lan của bệnh Minamata. Đây là một sự cố trong đó một con cá đã uống metyl thủy ngân có trong nước thải của nhà máy, và do đánh bắt và ăn cá, nó đã ảnh hưởng đến cơ thể và gây ra bệnh Minamata. Methylmercury có độc tính cao và gây ra thiệt hại lớn cho cơ thể con người. Nó hiện đã được quy định và trong khi nước thải của nhà máy chứa các chất lỏng độc hại này đã được giảm thiểu đáng kể, chúng vẫn chưa được loại bỏ hoàn toàn.

Ngoài ra, nước thải của nhà máy chứa một lượng lớn các chất hữu cơ, là nguyên nhân gây ra thủy triều đỏ. Khi thủy triều đỏ xảy ra, lượng oxy cần thiết cho các sinh vật biển bị mất và nhiều sinh vật có thể chết vì thiếu oxy.

Nước thải sinh hoạt

Nước thải sinh hoạt cũng gây ô nhiễm môi trường biển. Hiện nay, nhiều nơi vẫn duy trì các công trình xử lý nước thải nhưng vẫn có trường hợp nước thải sinh hoạt đổ ra sông, ra biển.

Nước thải sinh hoạt là nước thải từ sinh hoạt như nhà bếp, nhà vệ sinh, nhà tắm, lựa chọn nhưng lại gây ra hiện tượng thủy triều đỏ vì chứa nhiều chất hữu cơ giống như nước thải nhà máy. Vì thủy triều đỏ là do sự phát triển của sinh vật phù du, như đã đề cập trước đó, nó cũng gây ra tình trạng thiếu oxy do sử dụng oxy trong nước biển. Không chỉ vậy, nó thường chứa các vi nhựa như mảnh vụn, chảy ra biển và làm tăng lượng rác thải nhựa ở biển.

Rác chủ yếu làm bằng nhựa như chai PET và túi ni lông từ lòng đất chảy ra biển và là nguyên nhân gây ô nhiễm. Trên thế giới, 58-62% được đổ bỏ hoặc đốt trái phép. Nước thải sinh hoạt cũng gây ô nhiễm môi trường biển.

 Xem thêm bài viết về ô nhiêm môi trường biển>>

GỌI NGAY 0907957895

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN 

CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN ĐẦU TƯ & THIẾT KẾ XÂY DỰNG MINH PHƯƠNG  Địa chỉ: 28 B Mai Thị Lựu, P. Đa Kao, Quận 1, TP.HCM  Hotline:  028 3514 6426 - 0903 649 782 

Email:  ,


Website: www.minhphuongcorp.com

Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường biển và ngày càng trở nên nghiêm trọng do hậu quả của sức ép dân số, tăng trưởng kinh tế, khả năng quản lý và sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài nguyên biển.

Do vậy, Việt Nam cần tìm ra những giải pháp phù hợp, đồng thời học hỏi kinh nghiệm quản lý của một số nước nhằm khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển theo hướng bền vững.

Việt Nam có tới trên 100 con sông, trong đó hơn 10 con sông đang ở mức độ ô nhiễm nặng, điển hình như sông Cầu, sông Đáy, sông Thị Vải…Tất cả các con sông đều đổ ra biển, kéo theo đó là nguồn ô nhiễm từ đất liền như chất thải công nghiệp, nông nghiệp, làng nghề, nước thải chưa xử lý, hóa chất, thuốc trừ sâu, rác, phế thải vật liệu xây dựng…, nên nguy cơ gây ô nhiễm và suy thoái môi trường biển không ngừng gia tăng, tính chất ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường sinh thái và nhiều mặt của đời sống xã hội.

Nhiều nguồn thải gây ô nhiễm

Theo tiến sỹ Dư Văn Toán, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo [Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam], dải ven biển hay đới bờ tại Việt Nam có nhiều nguồn tiềm ẩn gây ô nhiễm. Hầu hết những chất gây ô nhiễm đều từ đất liền đổ ra sông và theo dòng sông đổ ra biển; bao gồm nước thải sinh hoạt trực tiếp từ khu vực đô thị, thành phố ven biển, nước thải công nghiệp từ các khu công nghiệp ven biển trực tiếp hay qua cống thải ngầm dưới biển, nước thải, dầu thải, hóa chất của tầu thuyền trên biển; sự cố dầu tràn của dàn khoan khai thác, tầu vận tải chuyên chở dầu.

Báo cáo hiện trạng môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, hàng năm các con sông thải ra biển 880km3 nước và 270-300 triệu tấn phù sa, kéo theo nhiều chất có thể gây ô nhiễm biển như: các chất hữu cơ, dinh dưỡng, kim loại nặng và nhiều chất độc hại từ các khu dân cư tập trung, các khu công nghiệp và đô thị, các khu nuôi trồng thủy sản ven biển và các vùng sản xuất nông nghiệp. Những loại rác không phân hủy được trôi nổi ven biển, lắng xuống đáy biển, rác phân hủy được sẽ hòa tan và lan truyền trong toàn khối nước biển.

Báo cáo hiện trạng môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, hàng năm các con sông thải ra biển 880km3 nước và 270-300 triệu tấn phù sa, kéo theo nhiều chất có thể gây ô nhiễm biển.

Ngoài ra, các khu du lịch phát triển nhanh nhưng thiếu quy hoạch, hệ thống xử lý nước thải còn ít, chất thải…cộng với ô nhiễm từ nuôi trồng thủy sản một cách bừa bãi, nạn khai thác titan ồ ạt đã và đang tác động xấu đến môi trường biển. Các số liệu thống kê cho thấy, khoảng 70% ô nhiễm biển và đại dương có nguồn gốc từ đất liền, xuất phát từ những chất xả thải của các thành phố, thị xã, thị trấn, từ các ngành công nghiệp, xây dựng, y tế, hóa chất… Trong đó đáng kể và nguy hại nhất là chất thải từ các nhà máy thông qua hệ thống thoát nước xả thẳng ra biển và đại dương một lượng lớn các chất bồi lắng, hóa chất, kim loại, nhựa, cặn dầu và thậm chí cả các chất phóng xạ.

Đáng quan ngại là tình trạng ô nhiễm biển do dầu có xu hướng gia tăng, phức tạp hơn, số lượng tàu thuyền gắn máy loại nhỏ, công suất thấp, cũ kỹ và lạc hậu tăng nhanh nên khả năng thải dầu vào môi trường biển nhiều hơn. Các tàu nhỏ chạy bằng xăng dầu đã thải ra biển khoảng 70% lượng dầu thải. Hơn nữa, hoạt động của tàu thương mại trên tuyến hàng hải quốc tế cũng thải vào biển Việt Nam một lượng lớn dầu rò rỉ, dầu thải và chất thải sinh hoạt mà đến nay chưa thể thống kê đầy đủ.

Vì lợi nhuận, người dân tổ chức ương nuôi tôm hùm trái phép gần thắng cảnh quốc gia gành Đá Đĩa [huyện Tuy An], xả chất thải sinh hoạt trực tiếp xuống biển, ảnh hưởng đến môi trường biển và du lịch nơi đây. [Ảnh: Thế Lập/TTXVN]

Thách thức phát triển bền vững kinh tế biển

Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi, Chủ tịch Hội Thiên nhiên và Môi trường biển Việt Nam cho rằng, một trong những thách thức trong triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam hiện nay là thực trạng ô nhiễm rác thải trên các vùng biển Việt Nam. Điều này đe dọa đến hệ sinh thái biển, nguồn lợi hải sản từ đó tác động đến sinh kế của hàng triệu ngư dân Việt Nam.

Môi trường biển tiếp tục biến đổi theo chiều hướng xấu và ngày càng có nhiều chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven biển đổ ra biển. Hơn nữa, do đặc điểm biển Việt Nam có dòng hải lưu thay đổi theo mùa, là khu vực có lưu lượng tàu bè tấp nập vào bậc nhất thế giới, vì vậy vùng biển Việt Nam thường xuyên bị rác thải, ô nhiễm…

Một trong những thách thức trong triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam hiện nay là thực trạng ô nhiễm rác thải trên các vùng biển Việt Nam. [Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi]

Một số khu biển ven bờ và cửa sông bị ô nhiễm dầu, chất hữu cơ liên quan tới chất thải sinh hoạt, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm rác thải nhựa. Có những khu vực rừng ngập mặn tràn ngập túi rác thải nilon, đây chính là sức ép lớn lên môi trường, hệ sinh thái và tài nguyên biển.

Hiện lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh của 28 tỉnh ven biển nước ta vào khoảng 14,03 triệu tấn/năm [khoảng 38.500 tấn/ngày]. Bên cạnh đó là lượng chất thải rắn tại các tỉnh kinh tế trọng điểm ven biển đang có xu hướng tăng dần, đặc biệt là các chất thải nguy hại ngành công nghiệp nhẹ, hóa chất, luyện kim.

Theo thống kê, trong 10 năm gần đây đã xảy ra trên 100 vụ tràn dầu do tai nạn tàu, dòng hải lưu di chuyển về phía bờ biển Việt Nam. Ngoài ra, ở vùng biển Việt Nam có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí, bên cạnh thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, hoạt động này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn chất thải rắn, trong đó có 20-30% là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa và nơi xử lý. Mức độ ô nhiễm trên đã ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển, từ đó tác động đến sinh kế của người dân vùng biển.

Cụ thể, diện tích rừng ngập mặn mất khoảng 15.000ha/năm, khoảng 80% rạn san hô trong vùng biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở mức cao, tình trạng trên cũng diễn ra tương tự với thảm cỏ biển và các hệ sinh thái biển, ven biển khác.

Tình trạng ô nhiễm dọc bờ biển xã Hải Hà, huyện Tĩnh Gia [Thanh Hóa] năm 2017 do nước thải, rác thải từ các khu dân cư, nhà máy, nhà hàng xả thường xuyên ra biển gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. [Ảnh; Trọng Đạt/TTXVN]

Trong vùng biển Việt Nam có khoảng 100 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau và trên 100 loài đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về trữ lượng, sản lượng và kích thước cá đánh bắt [trữ lượng hải sản giảm 16%].

Năng suất tôm nuôi quảng canh trong rừng ngập mặn bị giảm sút từ khoảng 200 kg/ha/vụ [năm 1980] đến nay chỉ còn 80kg/ha/vụ, và 1ha rừng ngập mặn trước đây có thể khai thác được khoảng 800kg thủy sản, nhưng hiện nay chỉ thu được 1/20 so với trước.

Diện tích rừng ngập mặn mất khoảng 15.000ha/năm, khoảng 80% rạn san hô trong vùng biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở mức cao

[Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN]

Việc bảo vệ môi trường biển, bảo vệ đa dạng sinh học là vấn đề cấp bách cần được chú trọng hiện nay. Do đó, để giải quyết vấn đề ô nhiễm biển có nguồn gốc từ biển và từ đất liền, phải ngăn chặn được tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng tại các điểm, khu vực, vùng bị ô nhiễm và suy thoái nặng ở các lưu vực sông, các khu, cụm công nghiệp ven biển…

Chính vì vậy thời gian tới, Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm từ một số nước phát triển nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế biển đi đôi với việc bảo vệ môi trường, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển.

Hoàn thiện pháp luật về biển

Hiện nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng, hoàn thiện hệ thống, công cụ pháp lý về khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển bền vững biển.

Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm từ một số nước phát triển nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế biển đi đôi với việc bảo vệ môi trường, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển.

Cụ thể với Luật Bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường, Australia đã áp dụng toàn diện đối với vùng biển của mình. Việc xây dựng và ban hành các bộ luật, văn bản quy phạm pháp luật về biển đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho việc thực hiện thành công tác quản lý tổng hợp, khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển ở nhiều quốc gia có biển.

Sau khi ban hành chính sách biển quốc gia, Australia đã đưa ra một loạt những điều chỉnh cơ cấu tổ chức, bao gồm việc thành lập một Ủy ban Bộ trưởng Biển quốc gia cùng với nhóm cố vấn Biển quốc gia, Văn phòng Biển quốc gia và một ban chỉ đạo quy hoạch biển.

Trong đó chức năng của Ủy ban Bộ trưởng Biển quốc gia tập trung vào việc điều phối chính sách biển, giám sát quá trình kế hoạch phân vùng biển, xây dựng các chương trình, kế họach thực thi chính sách Biển quốc gia, đề xuất ưu tiên nghiên cứu biển liên quan đến phát triển và thực thi chính sách biển Australia.

Bờ biển Australia. [Nguồn: trip101.com]

Cùng với việc hoàn thiện pháp luật về biển, hệ thống quản lý môi trường biển mới cũng được được xây dựng và phát triển tại nhiều quốc gia để đảm bảo tính thống nhất xuyên suốt, cắt giảm chi phí hành chính, thúc đẩy công tác trao đổi thông tin và dữ liệu, đạt được hiệu quả cao trong công tác quy họach phát triển bền vững biển…

Tại Nhật Bản, sau khi ban hành Luật Cơ bản về biển năm 2007, Nhật Bản đã thành lập một cơ quan đầu mối về chính sách biển tổng hợp do Thủ tướng đứng đầu, nhằm thúc đẩy biện pháp về biển một cách tập trung và tổng hợp.

Việc xây dựng và ban hành các bộ luật, văn bản quy phạm pháp luật về biển đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho việc thực hiện thành công tác quản lý tổng hợp, khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển

Quản lý tổng hợp đới bờ cũng được áp dụng rộng rãi tại nước này với mục đích duy trì tính nguyên vẹn của hệ sinh thái vùng bờ, thông qua công tác bảo tồn và bảo vệ, khuyến khích sử dụng bền vững các tài nguyên biển và ven bờ, đặc biệt liên quan đến các hoạt động đánh bắt, khai thác nguồn lợi tài nguyên sinh vật biển chủ yếu, ngăn chặn những thiệt hại lớn về vật chất do triều cường, sóng to, gió lớn, lũ lụt, động đất, sóng thần và xói lở bờ biển… Nhằm duy trì tính nguyên vẹn của hệ sinh thái vùng bờ thông qua công tác bảo tồn và bảo vệ, khuyến khích sử dụng bền vững các tài nguyên biển và ven bờ liên quan đến các họat động đánh bắt, khai thác nguồn lợi tài nguyên sinh vật biển chủ yếu, ngăn chặn những thiệt hại lớn về vật chất do triều cường, sóng to, gió lớn, lũ lụt, động đất, sóng thần và xói lở bờ biển.

Để giải quyết vấn đề ô nhiễm biển có nguồn gốc từ biển và từ đất liền, nhiều chương trình hành động khắc phục tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng với các điểm, khu vực, vùng bị ô nhiễm và suy thoái nặng đã được triển khai. Trong đó quản lý tổng hợp đới bờ đã được thừa nhận như là khung quản lý hiệu quả để đạt được phát triển bền vững vùng biển và đới bờ và được triển khai, áp dụng cho nhiều vùng bờ khác nhau trên thế giới với nhiều vấn đề khác nhau.

Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ làm nhiệm vụ trên biển. [Nguồn: bunkerist.com]

Tại Mỹ, Luật Quản lý đới bờ được thông qua năm 1972 đưa Mỹ trở thành quốc gia tiên phong trong việc áp dụng quản lý tổng hợp biển và đới bờ. Luật Quản lý đới bờ ra đời đã giúp thúc đẩy, tăng cường sự tham gia và phối hợp của các bên liên quan trong việc đưa ra các chương trình tác động đến vùng ven biển, cân bằng giữa các nhóm cạnh tranh về lợi ích ở vùng ven biển.

Quản lý dựa vào hệ sinh thái là một cách tiếp cận quản lý thống nhất chú trọng xem xét toàn bộ hệ sinh thái, các mối liên hệ xuyên suốt trong toàn hệ thống và các ảnh hưởng, tác động tích tụ do các hoạt động của con người tạo ra. Trên thực tế, ngay từ rất sớm trong quá trình hình thành và phát triển của khái niệm này, quản lý dựa vào hệ sinh thái đã được áp dụng vào rất nhiều lĩnh vực phục vụ các mục đích khác nhau.

Trong bối cảnh nhu cầu quản lý và phát triển bền vững môi trường biển ngày càng trở nên cấp thiết, cách tiếp cận quản lý sinh thái được xem là nguyên tắc cơ bản của chính sách biển quốc gia các nước như Australia, Mỹ… được áp dụng triển khai thành công trong thực tiễn trong quản lý biển tại khu bảo tồn Great Barrier Reef Marine Park của Australia, vùng biển Bering của Mỹ…

Cách tiếp cận quản lý sinh thái được xem là nguyên tắc cơ bản của chính sách biển quốc gia các nước như Australia, Mỹ

Quản lý biển trên cơ sở quy hoạch, phân vùng không gian biển và đới bờ hiện là xu thế quản lý biển hiện đại được triển khai ở nhiều quốc gia.

Tại Mỹ, việc xây dựng quy họach, phân vùng không gian biển và đới bờ chính là một trong những ưu tiên cần triển khai trong chính sách biển dưới thời Tổng thống Obama.

Nhóm đặc nhiệm về chính sách biển của Tổng thống đã đề xuất một khung quy hoạch, phân vùng không gian biển và đới bờ quốc gia tạo ra một cách tiếp cận mới, tổng hợp, toàn diện, theo khu vực để hỗ trợ sử dụng bền vững, an toàn, hiệu quả biển, đại dương và các hồ lớn; bảo vệ, duy trì và khôi phục biển, đới bờ đảm bảo các hệ sinh thái có khả năng phục hồi cao, cung cấp bền vững các dịch vụ hệ sinh thái; đảm bảo, duy trì khả năng tiếp cận biển, đới bờ của công chúng; thúc đẩy sự hỗ trợ trong sử dụng, giảm thiểu xung đột và tác động môi trường.

Hoạt động cộng đồng dọn sạch bãi biển ở California, Mỹ. [Nguồn: longbeachlocalnews.com]

Cách quản lý này còn tạo ra sự tăng cường tính nhất quán, thống nhất trong quá trình ra quyết định, giảm thiểu các xung đột lợi ích, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả qui hoạch…nâng cao tính chắc chắn và khả năng dự báo trong qui hoạch để đầu tư khai thác, sử dụng biển, đới bờ; tăng cường sự phối hợp liên bộ, ngành, các bên liên quan trong nước và quốc tế trong quá trình lập quy hoạch, xây dựng kế hoạch.

Quản lý thống nhất thông tin dữ liệu biển

Phương thức quản lý nguồn lợi biển dựa trên cơ sở cộng đồng đã được áp dụng tại nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước phát triển và được thừa nhận là phương thức hiệu quả, ít tốn kém để duy trì và quản lý nguồn lợi thủy sản, bảo vệ đa dạng sinh học và đáp ứng các mục tiêu bảo tồn khác cũng như nhu cầu sinh kế của con người..

Điều tra cơ bản biển được xác định là nhiệm vụ quan trọng, nền tảng và được tăng cường đầu tư triển khai hết sức mạnh mẽ.

Điều này đã tăng cường sự chủ động, thúc đẩy sự tham gia tích cực hơn của cộng đồng trong việc cùng chia sẻ trách nhiệm với nhà nước trong việc quản lý và bảo tồn hiệu quả các nguồn lợi biển.

Tại các quốc gia biển, điều tra cơ bản biển được xác định là nhiệm vụ quan trọng, nền tảng và được tăng cường đầu tư triển khai hết sức mạnh mẽ.

Các số liệu điều tra cơ bản này đã cung cấp những thông tin quan trọng, giúp công tác họach định chính sách biển có hiệu quả cao đồng thời cung cấp cơ sở thông tin khoa học để bố trí không gian và phát triển các vùng biển phù hợp với sinh thái của từng vùng, hướng tới mục tiêu sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển.

Hoạt động đo đạc, khảo sát môi trường biển. [Nguồn: zsl.org]

Cùng với đó, thời đại Internet phát triển nên việc lưu giữ số liệu, quản lý và cung cấp thông tin cũng thuận lợi và hệ thống thông tin GIS ứng dụng với web cũng đã phát triển mạnh. Việc thu thập, xây dựng, quản lý thông tin liên quan đến biển rất được chú trọng tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Australia…

Tại Australia đã có nhiều nỗ lực tăng cường khả năng tiếp cận, truy cập thông tin và dữ liệu về biển, có thể kể đến là việc vận hành hệ thống “Blue Page 2000.” Đây là một trang thông tin có thể truy cập được các dữ liệu biển, đặc biệt là dữ liệu khu vực đới bờ vốn được quản lý rải rác ở nhiều cơ quan trong nước.

Bên cạnh các công cụ tra cứu thông tin và dữ liệu, Australia còn chú trọng đến việc xây dựng dữ liệu bản đồ, tạo thuận lợi trong công tác hoạch định chính sách, thông qua ứng dụng kỹ thuật WebGIS.

Việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về chính sách, pháp luật liên quan đến khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển cũng được các nước quan tâm, chú ý đẩy mạnh.

Tại Mỹ, Cục Khí tượng Hải dương và một số cơ quan áp dụng hệ thống Danh bạ biển đa mục đích với các ứng dụng về GIS để hiển thị các thông tin về biển. Liên quan đến việc quản lý tổng hợp, thống nhất thông tin tự nhiên biển và viễn thám biển, Mỹ còn xây dựng hệ thống “Liên lạc và Quản lý dữ liệu.” Đây là một hệ thống con của hệ thống quan trắc biển tổng hợp giúp quản lý thống nhất thông tin dữ liệu biển thu được từ các cơ quan liên quan.

Để cộng đồng hiểu rõ và quan tâm hơn đến biển, việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về chính sách, pháp luật liên quan đến khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển cũng được các nước quan tâm, chú ý đẩy mạnh.

Tại Nhật Bản, nhằm tăng mối quan tâm và sự hiểu biết sâu rộng hơn về biển trong toàn dân, Chính phủ Nhật Bản đã tích cực phổ biến tuyên truyền, thúc đẩy giáo dục xã hội và học đường về biển, tuyên truyền phổ biến rộng rãi thông tin liên quan về Luật Biển, chú trọng phổ cập hóa thông qua các hoạt động vui chơi giải trí biển.

Tại Mỹ, trong chính sách biển quốc gia cũng đã xác định giáo dục, đào tạo để nâng cao hiểu biết, cải thiện tình trạng thiếu hiểu biết về khoa học và môi trường, thông qua con đường giáo dục chính qui và phi chính qui, cần được tăng cường với các dự án có mục tiêu, liên tục đánh giá và cải tiến chính là nền tảng quan trọng của quốc gia biển trong tương lai…

Bên cạnh đó, trong những năm qua, các quốc gia trên thế giới cũng không ngừng thúc đẩy hợp tác quốc tế song phương và đa phương về biển, các lĩnh vực chủ yếu liên quan đó là thúc đẩy khoa học kĩ thuật biển, điều tra biển, cứu nạn trên biển, phòng tránh thảm họa, kiểm soát tội phạm trên biển, đào tạo nguồn nhân lực cho các lĩnh vực liên quan đến biển./.

Video liên quan

Chủ Đề