Hãy đánh giá đúng ý nghĩa của chiến dịch huế-đà nẵng

Chiến dịch Huế-Đà Nẵng [từ ngày 21 đến 29-3-1975] là một trong ba chiến dịch lớn của quân Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Thắng lợi của Chiến dịch tiến công Huế-Đà Nẵng có ý nghĩa chiến lược. Cùng với thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, nó đã làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh, tạo ra những điều kiện rất cơ bản, góp phần giải phóng Sài Gòn và hoàn toàn miền Nam một cách nhanh chóng. Sau khi mất Tây Nguyên, thế phòng thủ chiến lược của địch bị rung chuyển nghiêm trọng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch Huế-Đà Nẵng lấy tên là "Mặt trận 475". Chiến trường được phân thành hai khu vực: Trị Thiên-Huế và Quảng Nam-Đà Nẵng, trong đó mục tiêu chủ yếu là Huế-Đà Nẵng. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: ngoài lực lượng đã có, Quân khu Trị Thiên được tăng cường thêm Quân đoàn 2, có thêm Sư đoàn 325 [thiếu trung đoàn 95], Sư đoàn 304 và Sư đoàn 2 thuộc Quân khu 5.

Ngày 21-3-1975, từ các hướng Bắc, Tây, Nam, quân ta đồng loạt tiến công, hình thành nhiều mũi bao vây địch, mở màn cuộc tiến công Huế. Đến ngày 24-3, quân ta đã bao vây chặt toàn bộ tập đoàn phòng ngự của địch ở Huế; cũng trong ngày 24-3, quân ta đập tan tuyến phòng thủ của địch ở Tam Kỳ, xoá sổ Sư đoàn 2, Liên đoàn 12 biệt động quân nguỵ, giải phóng hoàn toàn thị xã Tam Kỳ [Quảng Nam]. Sáng ngày 25-3-1975, Trung đoàn 101 Sư đoàn 325, Trung đoàn 3 Sư đoàn 324, các đơn vị của quân khu Trị-Thiên và các cánh quân của Quân đoàn 2 từ các hướng tiến về Huế. Quân ta vây kín cả 4 phía và thần tốc tiến vào trung tâm thành phố Huế. Đến 10 giờ 30 phút ngày 25-3-1975, quân giải phóng cắm cờ chiến thắng trên đỉnh Phù Văn Lâu, thành phố Huế được giải phóng. Thắng lợi vang dội này là một đòn phủ đầu chí mạng giáng vào kế hoạch phòng ngự co cụm chiến lược mới của địch ở vùng đồng bằng ven biển miền Trung. Cùng ngày, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị, hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam trước mùa mưa [tháng 5-1975]. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cũng thông qua kế hoạch giải phóng Đà Nẵng và quyết định thành lập Bộ Tư lệnh mặt trận Đà Nẵng. Đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó Tổng tham mưu trưởng, được cử làm Tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân, Tư lệnh Quân khu 5, được cử làm Chính ủy. Đà Nẵng là một căn cứ quân sự liên hợp hải, lục, không quân hiện đại và mạnh vào bậc nhất ở miền Nam, mặc dù lực lượng còn rất lớn nhưng đã hoàn toàn bị cô lập. Sau khi mất Huế, lại mất Tam Kỳ [Quảng Ngãi], Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố "tử thủ" Đà Nẵng bằng mọi giá. Thiệu cho rằng sau giải phóng Huế, nếu ta muốn tiến công Đà Nẵng thì phải mất ít nhất một tháng chuẩn bị. Nhưng chúng đã nhầm, Bộ Tổng tư lệnh với phương châm "nhanh nhất, kịp thời nhất, táo bạo nhất, nhưng chắc thắng" quyết định tập trung lực lượng tiến công vào Đà Nẵng. Sáng 29-3, các cánh quân đồng loạt tiến đánh Đà Nẵng. Đến 15 giờ ngày 29-3, quân ta chiếm lĩnh toàn bộ căn cứ liên hợp Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà; 17 giờ giải phóng hoàn toàn thành phố Đà Nẵng. Chiến thắng Đà Nẵng đã kết thúc thắng lợi chiến dịch Huế-Đà Nẵng. Chiến dịch Huế-Đà Nẵng đã trực tiếp đập tan âm mưu co cụm chiến lược của địch, cùng với chiến dịch Tây Nguyên góp phần quyết định làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược, tạo ra sự nhảy vọt về cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho ta, đẩy nhanh tới chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ta đã tiêu diệt một lực lượng lớn quân địch trong một thời gian ngắn. Chỉ trong một thời gian ngắn ta đã tiêu diệt được nhiều sư đoàn chủ lực của địch, trong đó có nhiều sư đoàn tinh nhuệ như sư thuỷ quân lục chiến, sư 1 bộ binh, sư không quân, loại khỏi vòng chiến đấu 12 vạn tên địch, làm tan rã 137.000 phòng vệ dân sự; ta thu 129 máy bay, 179 tăng thiết giáp, 327 khẩu pháo, hơn 1.100 xe quân sự và tàu xuồng... Tạo thêm địa bàn chiến lược mới có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt. Các tỉnh mới được giải phóng trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, cùng một vùng mới giải phóng ở các tỉnh Tây Nguyên đã tạo nên vùng hậu phương chiến lược hoàn chỉnh có lợi cho việc bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, thuận tiện cho việc cơ động bằng đường bộ, đường biển, đường không nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương lớn của cả nước, đáp ứng kịp thời việc tăng cường lực lượng, bổ sung vật chất cho cuộc tiến công quy mô lớn vào Sài Gòn trong một thời gian ngắn nhất. Là một chiến dịch tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, diễn ra trong một thời gian ngắn, giành được thắng lợi lớn, cho ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, có những phát triển mới về nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch, đạt hiệu quả chiến đấu, chiến dịch, chiến lược đều rất cao, làm phong phú thêm về mặt lý luận và thực tiễn nghệ thuật quân sự nước ta... Về nghệ thuật quân sự, đòn tiến công Huế-Đà Nẵng là sự chuyển hướng tiến công sáng suốt, linh hoạt và rất kịp thời của ta, tạo sự sụp đổ dây chuyền nhanh chóng của địch. Trong quá trình tiến công, quân ta đã nhanh chóng cắt đường 1, chia cắt cô lập Huế và Đà Nẵng, hình thành thế bao vây, tiến công áp đảo bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng từ nhiều hướng, không cho địch kịp đối phó và rút chạy. Đòn tiến công Huế-Đà Nẵng còn là sự kết hợp hoạt động hết sức chặt chẽ, sự chủ động, táo bạo tiến công khi thời cơ đến của quân và dân Quân khu Trị-Thiên, Quân khu 5 cùng Quân đoàn 2 và các đơn vị bộ đội chủ lực đứng chân trên địa bàn, thực sự là đòn tiến công chiến lược có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt./.

QPTD -Thứ Hai, 21/02/2022, 08:06 [GMT+7]

Nghệ thuật tạo và nắm thời cơ trong Chiến dịch Huế - Đà Nẵng năm 1975

Chiến dịch tiến công Huế - Đà Nẵng đã phá sản âm mưu co cụm chiến lược của quân ngụy tại khu vực Duyên hải miền Trung và làm thay đổi cục diện chiến tranh theo hướng có lợi cho ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Thắng lợi của Chiến dịch khẳng định, sự nhạy bén, tài tình của Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh trong chỉ đạo, điều hành tác chiến chiến dịch, nổi bật là nghệ thuật tạo và nắm thời cơ.

Sau Hiệp định Paris [1973], mặc dù rút hết quân khỏi Việt Nam, nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tay cho ngụy quyền tay sai, hòng phá Hiệp định Paris bằng chiến lược “lấn chiếm và bình định” - “tràn ngập lãnh thổ”. Tuy vẫn được Mỹ “hà hơi”, tiếp sức về nhiều mặt, nhưng quân ngụy không tránh khỏi sự suy yếu cả về quân sự, chính trị lẫn tâm lý, tinh thần. Chính vì vậy, từ giữa năm 1974 trở đi, chúng không thể tổ chức được một cuộc hành quân lấn chiếm nào, thay vào đó là các hoạt động mang tính phòng ngự tại những khu vực bị ta uy hiếp. Nhận định năm 1975, Quân Giải phóng có thể mở cuộc tiến công quy mô lớn đánh chiếm Quảng Trị, cô lập Huế, Đà Nẵng, lấy Kon Tum để gây áp lực với Pleiku, lấy Tây Ninh làm thủ đô, tháng 8/1974, chính quyền ngụy thông qua Kế hoạch Lý Thường Kiệt nhằm đối phó với Quân Giải phóng và tiếp tục xóa các “lõm”, điểm “da báo”, giữ vững những vùng đã chiếm. Chúng cũng cho rằng, phương án tốt nhất là tập trung giữ Đà Nẵng, nếu giữ được cả Huế thì càng tốt, không được thì lùi về Quảng Nam, lấy Chu Lai làm căn cứ tiền tiêu, không thì lui quân về phòng thủ ở Tuy Hòa. Theo đó, chúng điều chỉnh thế bố trí lực lượng, phương tiện theo chiến lược “cố thủ” mới.

Về phía ta, trước sự phát triển mạnh mẽ cả về thế và lực của chiến trường miền Nam trong năm 1974, Bộ Chính trị đã họp và hạ quyết tâm lịch sử: “giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976 và nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”1. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tư lệnh mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với một loạt các chiến dịch và hoạt động tác chiến, nổi dậy rộng khắp của nhân dân; trong đó, Chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh là những chiến dịch lớn, có ý nghĩa chiến lược - yếu tố quyết định thắng lợi, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Riêng Chiến dịch tiến công Huế - Đà Nẵng2 được hình thành bởi hai chiến dịch quy mô vừa của Quân khu Trị - Thiên, Quân đoàn 2 và của Quân khu 5. Chiến dịch làm tan rã tập đoàn phòng ngự mạnh của quân ngụy ở khu vực miền Trung, phá sản âm mưu co cụm chiến lược, thay đổi cục diện chiến trường theo hướng có lợi cho ta. Thắng lợi của Chiến dịch khẳng định tầm nhìn, sự nhạy bén của Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh trong chỉ đạo, điều hành tác chiến chiến dịch, nổi bật là:

1. Nghệ thuật tạo thời cơ

Trị - Thiên và Khu 5 là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng - nơi ta và địch đối đầu trực tiếp với nhau. Nếu làm chủ được Trị - Thiên và Khu 5 sẽ phá vỡ hệ thống phòng ngự, giam chân lực lượng cơ động chiến lược của quân ngụy, tạo chuyển biến về tương quan lực lượng trên chiến trường. Chính vì vậy, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định chọn khu vực này là hướng phối hợp quan trọng trong quyết tâm chiến lược năm 1975, với nhiệm vụ: “Đánh bại về cơ bản bình định của địch, tạo ra ở Trị - Thiên - Huế một tình thế mới có ý nghĩa quyết định để chuẩn bị giành thắng lợi năm 1976, giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế”3. Theo đó, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo Mặt trận Trị - Thiên4 mở chiến dịch tiến công tổng hợp Xuân - Hè và mùa Thu năm 1975. Với lực lượng 07 trung đoàn trên hướng Trị - Thiên và 04 trung đoàn trên hướng Đà Nẵng, Bộ Tư lệnh Mặt trận vạch ra mục tiêu trước mắt là đánh chiếm toàn bộ tỉnh Quảng Trị, bao vây cô lập Huế và nếu có điều kiện phát triển thì đánh chiếm toàn bộ Trị - Thiên - Huế. Ngay sau khi chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu, quân và dân Trị - Thiên cũng như đồng bằng Khu 5 đẩy mạnh các hoạt động tiến công quân sự ở cả vùng giáp ranh và đồng bằng. Việc cùng lúc tiến công trên hai mặt trận Tây Nguyên và Trị - Thiên - Huế khiến quân ngụy lúng túng và bộc lộ nhiều sơ hở. Bởi, khi Tây Nguyên thất thủ, chúng rút 01 sư đoàn dù ở miền Trung về Sài Gòn; đồng thời, co lực lượng tiền phương về giữ Huế, Đà Nẵng, khi Huế có nguy cơ thất thủ chúng lại rút quân về phòng thủ ở Đà Nẵng. Hành động đó của địch đã tạo thời cơ để ta giải phóng Huế và Đà Nẵng mà không cần phải đánh lớn nên về cơ bản đã bảo toàn được lực lượng. Có thể thấy, quyết định tiến công Trị - Thiên - Huế cùng lúc với hướng chủ yếu Tây Nguyên thể hiện tầm nhìn, tư duy nhạy bén, khả năng nắm bắt thời cơ của Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh trong chỉ đạo, điều hành tác chiến chiến dịch.

Thực tiễn, một ngày sau khi Chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu, Chiến dịch Xuân - Hè cũng được tiến hành [06/3/1975]. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng Tư lệnh, Quân đoàn 2đã bí mật chuyển lực lượng từ phía Tây và Bắc Quảng Trị vào phía Tây và Tây Nam Huế. Cùng với đó, các cuộc liên lạc, diễn tập của Quân khu Trị - Thiên vẫn được tiến hành ở Cửa Việt, Thanh Hội, Ái Tử, đã gây lúng túng và nhầm lẫn cho quân ngụy trong phán đoán hướng tiến công chủ yếu củata. Ngày 08/3/1975, Sư đoàn 324 bắt đầu tiến công căn cứ Mỏ Tàu, các điểm cao ở Tây Nam Huế; từ ngày 13 đến 15/3/1975, Quân khu Trị - Thiên mở một loạt trận đánh vào các cứ điểm, điểm cao ở phía Tây Huế. Khi chiến sự đang diễn ra ác liệt, chính quyền ngụy lại rút 01 sư đoàn dù về bảo vệ Biệt khu Thủ đô; đồng thời co lực lượng về phòng thủ vùng Duyên hải miền Trung với trung tâm là Huế và Đà Nẵng. Hành động đó khiến quân ngụy ở Trị - Thiên - Huế lúng túng, hỗn loạn. Thấy địch co về phòng thủ Huế và Đà Nẵng, Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ đạo Mặt trận Trị - Thiên, Quân đoàn 2 nhanh chóng cắt Đường 1 ở Bắc và Nam Huế; vô hiệu hóa sân bay Phú Bài; cô lập Huế với Đà Nẵng; đánh chiếm quận lỵ Phú Lộc. Sau khi tỉnh Quảng Trị được giải phóng [19/3/1975], thời cơ giải phóng Huế đã xuất hiện và khi Huế được giải phóng, quân địch rút về Đà Nẵng nhưng bị chặn lại đã tạo thời cơ giải phóng Đà Nẵng.

2. Nghệ thuật nắm thời cơ

Nhận thấy tình hình chiến trường miền Trung đang có chuyển biến tích cực và dự đoán quân ngụy có khả năng bỏ Huế, rút về Đà Nẵng phòng thủ, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo Mặt trận Trị - Thiên nắm thời cơ tiến công giải phóng Huế và toàn bộ Trị - Thiên; đồng thời, tổ chức chặn cắt không cho địch lui quân về Đà Nẵng. Được sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, Quân đoàn 2 cùng với Quân khu Trị - Thiên tổ chức tiến công quân sự kết hợp với nổi dậy của nhân dân, tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn phòng ngự Thừa - Thiên - Huế, giải phóng thành phố Huế. Thắng lợi đó là minh chứng khẳng định sự nhạy bén, linh hoạt và quyết đoán của Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh trong nắm thời cơ chiến dịch. Đặc biệt, sự nhạy bén còn được thể hiện rõ nét trong Chiến dịch tiến công Đà Nẵng. Mặc dù thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch - Mặt trận 475 để chỉ huy Chiến dịch Đà Nẵng, Tư lệnh và Chính ủy Mặt trận thường xuyên trao đổi ý kiến qua thông tin liên lạc [do chưa kịp gặp nhau], nhưng tình hình chiến trường chuyển biến quá mau lẹ, không để lỡ thời cơ, nên Bộ Tổng Tư lệnh đã trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy Chiến dịch có tầm quan trọng trong cuộc tiến công chiến lược này.

Thực tiễn, sau khi tỉnh Quảng Trị được giải phóng, nhận thấy thời cơ đã đến, chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng Tư lệnh, ngày 20/3/1975, Quân đoàn 2 cùng quân và dân Trị - Thiên đồng loạt vượt qua các tuyến phòng thủ của địch, hình thành nhiều mũi hướng, bao vây thành phố Huế. Các cánh quân của ta từ các hướng gấp rút thắt chặt vòng vây, bịt chặt đường lui quân của địch ra cửa biển Thuận An, Tư Hiền, chia cắt Huế với Đà Nẵng. Xác định tình hình ở Huế đã chuyển từ mức “xấu” sang mức “tồi tệ”, đêm 22/3/1975, quân ngụy đã tổ chức rút phần lớn lực lượng, phương tiện về Đà Nẵng. Nắm chắc tình hình địch, Quân đoàn 2 cùng các đơn vị chủ lực của Quân khu Trị - Thiên phối hợp với quần chúng nhân dân đẩy mạnh hoạt động tiến công quân sự, nhanh chóng giải phóng Huế. Việc giải phóng thành phố Huế trong thời gian ngắn [21 - 25/3/1975] khiến quân ngụy ở Đà Nẵng rối loạn, kinh hoàng và suy sụp cả về tinh thần lẫn tổ chức.

Cùng với chỉ đạo chiến trường Trị - Thiên, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh còn chỉ đạo Quân khu 5 làm tốt công tác chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy đánh chiếm căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng. Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình địch, ta trên chiến trường, không bỏ lỡ thời cơ, ngày 24/3/1975, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở Chiến dịch tiến công Đà Nẵng với phương châm: “kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng”5. Theo đó, Quân đoàn 2 phối hợp chặt chẽ với Quân khu 5 triển khai đội hình, chuẩn bị tiến công Đà Nẵng. Giữa lúc quân và dân ta đang triển khai đội hình chiến đấu, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho Quân đoàn 2 và Quân khu 5 “cần có những biện pháp đặc biệt nhanh chóng tiến công địch, bỏ qua những mục tiêu ở dọc đường, tiến thẳng vào Đà Nẵng”6. Thực hiện Chỉ thị của Bộ Tổng Tư lệnh, Quân đoàn 2 cùng quân và dân Khu 5 vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, địa hình, thời tiết, tiến công mạnh mẽ, nhanh chóng tiến thẳng vào Đà Nẵng. Nhờ nắm chắc thời cơ, bằng cuộc tiến công thần tốc, chỉ trong thời gian ngắn [26 - 29/3/1975], quân và dân ta đã làm chủ Đà Nẵng mà không phải đánh lớn, kết thúc thắng lợi vẻ vang Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, phá sản ý định co cụm chiến lược của quân ngụy tại khu vực Duyên hải miền Trung.

Chiến dịch tiến công Huế - Đà Nẵng làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta nhanh chóng đi đến thắng lợi cuối cùng. Thắng lợi của Chiến dịch khẳng định sự nhạy bén, tài tình của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh trong chỉ đạo, điều hành tác chiến chiến dịch, nổi bật là nghệ thuật tạo và nắm thời cơ. Ngoài ra, còn để lại nhiều bài học quý cần nghiên cứu, vận dụng, phát triển trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Đại tá, TS. NGUYỄN HỒNG TRƯỜNG, Trường Sĩ quan Lục quân 1
________________

1 - Bộ Chính trị họp từ ngày 18/12/1974 đến ngày 08/01/1975 để quyết định việc giải phóng miền Nam.

2 - Được tiến hành từ ngày 20/3/1975 đến ngày 29/3/1975.

3 - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam – Lịch sử chiến dịch Trị - Thiên và chiến dịch Đà Nẵng Xuân 1975, Nxb QĐND, H. 2006, tr. 34.

4 - Gồm các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2.

5 - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam – Lịch sử Nghệ thuật chiến dịch Việt Nam 1945 - 1975, Nxb QĐND, H. 1995, tr. 493.

6 - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam – Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, Tập VIII, Nxb CTQG, H. 2013, tr. 372.

Video liên quan

Chủ Đề