Dạ vương là ai


Triệu Quang Phục là người kế tục sự nghiệp của Lý Nam Đế. Ông là người huyện Chu Diên, là con của Triệu Túc, một thủ lĩnh địa phương có lòng yêu nước không chịu khuất phục nhà Lương. Triệu Quang Phục nổi tiếng giỏi võ nghệ. Sử chép ông là người "uy hùng sức mạnh".

Cha con ông là người đầu tiên đem quân tham gia cuộc khởi nghĩa Lý Bí. Triệu Túc là một danh tướng của nước Vạn Xuân, được phong làm Thái Phó trông coi việc binh, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương ở vùng ven biển. Triệu Quang Phục lúc đầu theo cha đi đánh giặc, có công. Là một tướng trẻ có tài nên được Lý Nam Đế tin dùng làm tả tướng quân.

Đầu năm 545, quân Lương xâm lược Vạn Xuân, cuộc kháng chiến của nhà Tiền Lý thất bại. Lý Nam Đế phải lẩn tránh ở động Khuất Lão thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay và giao binh quyền cho Triệu Quang Phục.

Vốn thông thuộc vùng sông nước Chu Diên, Triệu Quang Phục quyết định chuyển hướng chiến lược, thay đổi phương thức tác chiến cũ là phòng ngự, cố thủ hay tập trung lực lượng quyết chiến với địch. Ông đưa hơn một vạn quân từ miền núi về đồng bằng, lập căn cứ kháng chiến ở Dạ Trạch [bãi Màn Trò, Khoái Châu, Hưng Yên].

Dạ Trạch là một vùng đầm lầy ven sông Hồng, rộng mênh mông, lau sậy um tùm. ở giữa là một bãi phù sa rộng, có thể làm ăn sinh sống được. Đường vào bãi rất kín đáo, khó khăn. Chỉ có dùng thuyền độc mộc nhẹ lướt trên cỏ nước theo mấy con lạch nhỏ thì mới tới được...Triệu Quang Phục đóng quân ở bãi đất nổi ấy. Ngày ngày, quân sĩ thay phiên nhau vừa luyện tập, vừa phát bờ, cuốc ruộng, trồng lúa, trồng khoai để tự túc binh lương; ban ngày tắt hết khói lửa, im hơi lặng tiếng như không có người, đến đêm nghĩa quân mới kéo thuyền ra đánh úp các trại giặc, cướp được nhiều lương thực, "làm kế trì cửu" [cầm cự lâu dài] người trong nước gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương [vua Đầm Đêm]. Nghe tin Lý Nam Đế mất, ông xưng là Triệu Việt Vương.

Vùng đồng bằng này tuy không có thế đất hiểm như miền đồi núi nhưng có nhiều sông lạch chia cắt, nhiều đầm hồ lầy lội, không lợi cho việc hành binh của những đạo quân lớn. Địa thế như vậy buộc địch phải phân tán, chia quân đánh nhỏ, làm mất sở trường của chúng, đồng thời tạo điều kiện cho ta tiêu diệt gọn từng bộ phận nhỏ, tiêu hao sinh lực địch. Đồng bằng còn là nơi đông dân cư, nơi có nhiều sức người, sức của, cung cấp cho cuộc chiến đấu lâu dài của quân ta.

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, từ Lý Nam Đế qua Triệu Việt Vương đã có sự chuyển hướng chiến lược, thay đổi địa bàn và cách đánh. Lập căn cứ kháng chiến ở đồng bằng, đó là kế sách dụng binh hết sức mưu lược và sáng suốt của Triệu Quang Phục. Đưa quân xuống đồng bằng, Triệu Quang Phục không áp dụng phương thức tác chiến phòng ngự, cố thủ hay tập trung lực lượng quyết chiến với địch. Kế sách của ông nói theo ngôn ngữ quân sự hiện đại, là đánh lâu dài và đánh tiêu hao, đánh kỳ lập làm phương thức tác chiến chủ yếu.

Nhờ sự chuyển hướng chiến lược sáng suốt đó mà cục diện chiến tranh thay đổi ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Quân Lương cố sức đánh vào vùng Dạ Trạch, nhằm phá vỡ đầu não kháng chiến, nhưng âm mưu đó không thực hiện được. Quân của Triệu Quang Phục giữ vững căn cứ Dạ Trạch, liên tục tập kích các doanh trại và các cuộc hành binh của địch. Qua gần 4 năm chiến tranh [547-550] cuộc kháng chiến ngày càng lớn mạnh, địch càng đánh càng suy yếu.

Viên tướng giỏi của địch là Trần Bá Tiên đã trở về Châu Quảng từ năm 547, làm Thái thú Cao Yên. Năm 548, bên triều Lương xảy ra loạn Hầu Cảnh [548-552]. Viên hàng tướng này đã cướp kinh sư, số đông quý tộc nhà Lương bị giết chết, bọn cườnghào địa phương nổi dậy khắp nơi. ở phía bắc, triều Tây Ngụy, từ lưu vực sông Vị, tổ chức một loạt các cuộc tiến công đế chế của Lương, năm 553 chiếm Tứ Xuyên, cắt đứt quan hệ giữa Nam Kinh và Trung Á, chiếm Trương Dương [Hồ Bắc], xâm nhập tới Giang Lăng trung lưu Trường Giang, lập nên triều Hậu Lương bù nhìn [bị xóa năm 587]. Quan tướng các châu - trong đó có Trần Bá Tiên - kéo quân đổ về kinh sư với danh nghĩa "cứu viện kinh sư" dẹp loạn Hầu Cảnh, rồi nội chiến liên miên.

Chớp thời cơ đó. Triệu Quang Phục, từ căn cứ Dạ Trạch, đã tung quân ra mở một loạt cuộc tiến công lớn vào quân giặc giết tướng giặc là Dương Sàn thu lại châu thành Long Biên, đuổi giặc ngoại xâm, giành lại quyền tự chủ trên toàn đất nước.

Về sau, vì tin lời cầu hòa của Lý Phật Tử [vốn là tướng của Lý Nam Đế, từng nổi dậy chống ông], ông chia cho y một phần đất và kết mối thông gia: con trai Lý [Nhã Lang] lấy con gái Triệu [Cảo Nương]. Năm 571, Lý Phật Tử phản bội đem quân đánh úp, Việt Vương thua, chạy đến cửa bể Đại Nha, cùng đường gieo mình tự vẫn.

Theo Việt điện u linh, cuốn sách xưa nhất [1329] chép về Triệu Quang Phục thì sau khi ông mất, người đời thấy linh dị, lập miếu thờ ở cửa biển Đại Nha. Năm Trùng Hưng thứ nhất [1285, đời Trần Nhân Tông] sách phong là Minh Đạo Hoàng đế. Năm Trung Hưng thứ tư [1288, đời Trần Nhân Tông] ban thêm hai chữ "Khai cơ". Năm Hưng Long thứ 21 [1313, đời Trần Anh Tông] ban thêm bốn chữ "Thánh liệt thần vũ".

Giáo sư TRẦN QUỐC VƯỢNG

Huyện Khoái Châu ngày nay [xưa thuộc huyện Chu Diên] là quê hương của đấng anh hùng cứu nước, quét sạch quân Lương ra khỏi bờ cõi: Triệu Quang Phục [Triệu Việt Vương]. Ông đã ra đi hơn một nghìn năm nhưng danh thơm của ông thì còn mãi với non sông… 


Cuộc đời lẫm liệt của Triệu Quang Phục tiêu biểu cho khí phách quật cường, quyết đánh đuổi ngoại xâm, chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc ở giai đoạn lịch sử vô cùng đau thương và bi tráng của dân tộc: một nghìn năm đấu tranh giành độc lập. Tên tuổi của ông lưu danh sử sách cùng những bậc anh hùng hào kiệt thời kỳ này như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Đế, Phùng Hưng, Ngô Quyền…  

Đường Triệu Quang Phục ở thành phố Hưng Yên [Hưng Yên]


Bấy giờ vào giữa thế kỷ 6, nước ta đang ở ách đô hộ của nhà Lương. Người anh hùng Lý Bôn dấy binh khởi nghĩa, 3 lần đánh cho quân Lương thua tan tác. Cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống ách đô hộ của nhà Lương thắng lợi hoàn toàn. Lý Bôn lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Đế, đóng đô ở Long Biên. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lý Bôn là người Việt Nam đầu tiên tự xưng hoàng đế, đặt tên cho nước là Vạn Xuân với ý mong xã tắc được bền vững muôn đời. 


Một trong 3 người làm quan đứng đầu triều đình Vạn Xuân là Triệu Túc, cha của Triệu Quang Phục. Khi Triệu Túc hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương, Triệu Quang Phục lúc đó là Tả Tướng quân tiếp tục được Lý Nam Đế trọng dụng. Vị tướng trẻ ấy vốn đã cùng cha tham gia cuộc khởi nghĩa Lý Bôn ngay từ buổi đầu và lập nhiều chiến công hiển hách, góp phần lập ra nhà nước Vạn Xuân năm 544.


Đất nước vừa hưởng thái bình ngắn ngủi thì năm 545, nhà Lương lại phái tên tướng khét tiếng giỏi trận mạc là Trần Bá Tiên [người sau này lập ra nhà Trần ở Trung Quốc] đem quân sang xâm chiếm nước Vạn Xuân non trẻ. Thế giặc rất mạnh, Lý Nam Đế đem quân đánh địch mấy lần không thắng, lại lâm bệnh. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lý Nam Đế đã tin tưởng phó thác việc nước, trao hết binh quyền cho Triệu Quang Phục rồi rút lui về động Khuất Lão [thuộc Phú Thọ ngày nay], đó là năm 546. 


Từ đây, Triệu Quang Phục đảm đương sứ mệnh cao cả lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc. 


Theo sử cũ, khi nhận binh quyền từ Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục đứng trước hai khó khăn rất lớn. Một là có đến hai phần ba tàn quân của triều đình đã theo Lý Thiên Bảo [anh vua] và Lý Phật Tử [viên tướng cùng họ] rút chạy về vùng Hà Tĩnh. Hai là những cuộc tấn công quyết liệt và liên tiếp của binh lính nhà Lương.    


Triệu Quang Phục lúc này phải đương đầu với muôn vàn thử thách trong tình trạng đất nước lâm cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Liên tiếp những trận huyết chiến bất phân thắng bại với quân thù vừa đông, vừa mạnh, khiến lực lượng nghĩa quân suy yếu. Vị chỉ huy trẻ tuổi mưu lược nhanh chóng nhận ra, cứ dàn trận để đánh địch trong khi lực lượng ta mòn mỏi mà địch còn sung sức thì không tránh khỏi nguy hiểm.


Và ông đã quyết định sáng suốt, thực hiện kế sách đánh địch lâu dài mà nói theo ngôn ngữ quân sự hiện đại là chiến tranh du kích, trường kỳ kháng chiến, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Am hiểu địa thế và đường đi lối lại của vùng đất quê hương lại được nhân dân hết lòng đùm bọc, Triệu Quang Phục bí mật lui quân về lập căn cứ mới ở Dạ Trạch [Khoái Châu, Hưng Yên].

Trường THPT Triệu Quang Phục, huyện Yên Mỹ [Hưng Yên]


Dạ Trạch được miêu tả trong sử sách là một vùng đầm lầy bát ngát, lau sậy rậm rạp, cỏ mọc như rừng. Giữa đầm Dạ Trạch là một bãi phù sa có thể làm ăn sinh sống được nhưng đường vào rất khó khăn nên cũng là nơi ẩn dấu vô cùng kín đáo. Phương tiện duy nhất đi vào bãi phù sa là dùng thuyền độc mộc nhẹ, rẽ lau sậy thì mới tới được. 


Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Triệu Quang Phục đem hơn 2 vạn quân vào đóng ở bãi đất giữa đầm, ngày ngày quân sĩ thay phiên nhau vừa luyện tập, vừa lao động để tự túc lương thực; ban ngày tắt hết khói lửa, im hơi lặng tiếng như không có người, đêm đến dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh quân giặc. Lối đánh chớp nhoáng “ngày ẩn tối ra” đã giúp quân đội của Triệu Quang Phục tiêu hao sinh lực địch, thu nhiều vũ khí, tích thêm lương thực. Người trong nước gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương [vua Đầm Đêm].


Giữa lúc đó, vào năm 548, Lý Nam Đế mất ở động Khuất Lão. Tướng sĩ tôn Triệu Quang Phục lên thay nhưng ông chỉ xưng Vương, lấy hiệu là Triệu Việt Vương.  


Từ căn cứ Dạ Trạch, cuộc chiến giữa ta và địch kéo dài chừng 4 năm. Năm 550, thời cơ đã đến. Lúc này tình hình của nhà Lương rối loạn, một bộ phận quân địch phải rút về nước, để lại đội quân xâm lược do tướng Dương Sàn chỉ huy. Triệu Việt Vương chớp thời cơ mở một loạt cuộc tấn công vào quân Lương, giết chết tướng chỉ huy giặc, thế giặc tan vỡ, tàn quân tháo chạy về nước. Đất nước Vạn Xuân trở lại yên bình. Triệu Việt Vương vào đóng trong thành Long Biên, kế tục sự nghiệp của Lý Nam Đế cùng nhân dân xây dựng nền độc lập.


Đại Nam quốc sử diễn ca có thơ về ông:

Bốn phương phẳng lặng can qua
Theo nề nếp cũ lại ra Long Thành


Đến năm 557, Lý Phật Tử, vốn là viên tướng cùng họ với Lý Nam Đế, khi trước đã rút chạy xuống phía nam lúc Lý Nam Đế thua trận, nay đem quân đánh Triệu Việt Vương để giành ngôi. Sau mấy lần giao chiến biết không thể thắng được nên Lý Phật Tử xin giảng hòa.


Về sự kiện này, Đại Việt sử ký toàn thư chép “Lý Phật Tử ngờ là Triệu Việt Vương có phép lạ bèn xin được giảng hòa và xin ăn thề. Triệu Việt Vương nghĩ rằng Lý Phật Tử là người cùng họ với Lý Nam Đế nên không nỡ cự tuyệt”.


Âm mưu tiêu diệt bằng được Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử còn xin hỏi con gái Triệu Việt Vương làm vợ cho con trai và được ở rể trong thành. Thế rồi kịch bản hiểm độc của Triệu Đà với An Dương Vương hơn 700 năm trước đã được Lý Phật Tử cho tái diễn gần như nguyên vẹn.


Theo Việt Nam sử lược, năm 571, lợi dụng lúc Triệu Việt Vương sơ hở, Lý Phật Tử đem quân đánh úp, vì không phòng bị nhà vua thua trận, rút chạy, cùng đường gieo mình xuống cửa biển [nay thuộc tỉnh Nam Định] tự vẫn. Ông đã trị vì nước Vạn Xuân 23 năm. Câu chuyện bi thảm này đồng thời cũng là một bài học cảnh giác cho hậu thế… 


Thương tiếc và nhớ ơn người anh hùng cứu nước, nhân dân các vùng, miền tưởng nhớ ơn đức của ông. Trên quê hương Hưng Yên, ông được thờ phụng ở nhiều nơi.  Hiện nay trong đền Hóa, xã Dạ Trạch [Khoái Châu] ngoài thờ Chử Đồng Tử -Tiên Dung, còn  phối thờ danh nhân Triệu Quang Phục. Cách đền Hóa khoảng 2km, có ngôi đền thờ Triệu Việt Vương tại xã An Vĩ [Khoái Châu]. Hằng năm, ngày 12.8 âm lịch, tương truyền là ngày Triệu Quang Phục tế cờ ra quân đánh giặc, người dân lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ ngài.


Năm 2017, Hưng Yên đã phê duyệt Dự án Đầu tư xây dựng công trình tu bổ, tôn tạo Đền thờ Triệu Việt Vương. Công trình được xây dựng trên khu đất có diện tích khoảng hơn 13,7 nghìn m2 thuộc xã Dạ Trạch, với tổng kinh phí gần 45 tỷ đồng, hiện đang khẩn trương hoàn thiện. Công trình có giá trị văn hóa tâm linh đặc biệt, tri ân công đức người anh hùng có công giữ nước và sẽ là điểm đến hấp dẫn trong hành trình du lịch văn hóa tâm linh xứ Nhãn.

Minh Huệ
 

Video liên quan

Chủ Đề