Cơ sở của việc xử lý trách nhiệm
1. Thẩm quyền xử phạt VPHC của các chức danh trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) của các chức danh được quy định từ Điều 38 đến Điều 51 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Luật XLVPHC), trên cơ sở kế thừa các quy định về thẩm quyền xử phạt VPHC của các cơ quan, lực lượng chức năng quản lý nhà nước tại Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) và các quy định mới của Luật XLVPHC về các hình thức xử phạt,
biện pháp khắc phục hậu quả, mức xử phạt tiền trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Theo đó, chức danh có thẩm quyền xử phạt VPHC thuộc các lực lượng có vai trò, trách nhiệm vô cùng quan trọng trong tổ chức của bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong hoạt động của cơ quản lý hành chính nhà nước. Vai trò và trách nhiệm quan trọng đó thể hiện rõ nét nhất qua nhiệm vụ, công vụ, đó là áp dụng pháp luật về xử phạt VPHC để xử lý các vụ việc VPHC xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Theo
đó, đối tượng VPHC sẽ bị áp dụng hình thức xử phạt Luật định (cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ có thời hạn, tịch thu tang vật, phương tiện VPHC), áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả kèm theo hình thức phạt chính (buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép; buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch
bệnh; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện; buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại; buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm; buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có
được do thực hiện VPHC hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện VPHC đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật; các biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định). Bên cạnh đó, các chức danh có thẩm quyền xử phạt còn có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt VPHC[1] (tạm giữ người; áp giải người
vi phạm; tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC, giấy phép, chứng chỉ hành nghề; khám người; khám phương tiện vận tải, đồ vật; khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện VPHC; quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong khoảng thời gian làm thủ tục trục xuất), là những biện pháp tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của công dân, doanh nghiệp, bao gồm cả việc hạn chế tự do khi cho rằng các nhân, tổ chức VPHC, điển hình là biện pháp tạm giữ người. Các quy định pháp luật liệt kê sơ
bộ ở tên trên đã phác thảo một bức họa với những đường phác thảo cơ bản thể hiện tầm quan trọng của các chức danh có thẩm quyền xử phạt trong quản lý nhà nước cũng như đời sống xã hội khi họ thực thi, áp dụng pháp luật xử phạt VPHC. Nguyễn Thanh Hà, Phó Cục trưởng Cục QLXLVPHC&TDTHPL
[1] Điều 119 Luật XLVPHC [2] Điều 14 Luật XLVPHC [3] Điều 16 Luật XLVPHC [4] Điều 19 Luật XLVPHC [5] Điều 15 Luật XLVPHC [6] Trách nhiệm quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý VPHC [7] Các Điều 22,23, 24, 25, 26, 27, 28 và 29 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP [8] Điều 5 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP [9] Điều 6, Điều 7, Điều 8 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP [10] Điều 12, Điều 13, Điều 14 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP [11] Điều 8 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP [12] Điều 9 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP [13] Điều 10 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP [14] Điều 16 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP [15] Khoản 1, khoản 2 Điều 6 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP [16] Điều 15. Về kiểm tra, thanh tra 1. Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về
ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. [17] Xem Chỉ thị số 16/CTT-TTg ngày 5/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các câp. |