Vì sao triết học Mác - Lênin được xem là một triết học khoa học

Liệu triết học có phải là khoa học không?

08:27 SA @ Thứ Tư - 28 Tháng Tư, 2010
  • Xem thêm: Triết học - chiếc la bàn chỉ hướng cho Thế giới quan

“Có thực triết học là khoa học không?” gắn với sự nghi ngờ về tính chất của ngành này là một câu hỏi khoa học chân chính, một câu hỏi triết học đối với chúng ta. Triết gia và những người quan tâm đến triết học cần phải nhìn lại, nhận thức đúng về ngành Triết học để soi lại mình và định hướng để cho triết học phát triển tiếp.

Ở mỗi thời, mỗi trường phái triết học đều có những quan điểm khác nhau về triết học.

Khởi thuỷ triết học ở phương Tây có ý nghĩa là yêu thích sự thông thái. Philos [Greek] = theo đuổi, Sophos[Greek] = khôn ngoan. Triết học mang nghĩa là Theo đuổi sự khôn ngoan. Ở thời điểm triết học ra đời thì khoa học theo nghĩa là mộthình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan [bằng hệ thống chân lý về thế giới được diễn đạt bằng các khái niệm, giả thuyết, học thuyết, nguyên lý... thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học đặc thù] vẫn còn chưa xuất hiện.

Trong quá trình phát triển, triết học ngày một đa dạng, phức tạp hơn và thường xuyên biến đổi, có thâm nhập trao đổi qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác: khoa học, nghệ thuật, mỹ học, tôn giáo… Chúng ta có thể nói đến mối quan hệ qua lại giữa khoa học và triết học nhưng có nhiều sách báo, học giả quan điểm đồng nhất chúng với nhau, có nghĩa là: Triết học chính là Khoa học. Chúng ta thường gặp những phát biểu như sau về triết học:“triết học là ngành khoa học về tự nhiên, xã hội, tư duy... “

“Có thực triết học là khoa học không?” gắn với sự nghi ngờ về tính chất của ngành này là một câu hỏi khoa học chân chính, một câu hỏi triết học đối với chúng ta. Triết gia và những người quan tâm đến triết học cần phải nhìn lại, nhận thức đúng về ngành Triết học để soi lại mình và định hướng để cho triết học phát triển tiếp.

A. Quan điểm coi Triết học không phải là Khoa học cho rằng triết học chưa bao giờ và sẽ chẳng bao giờ là khoa học cả.

Việc đồng nhất Triết học là khoa học của khoa học hay là như một ngành khoa học nào đócũng cần phải xem xét lại. Quan điểm này dựa trên 7 đặc điểm khác biệt cơ bản giữa triết học và khoa học:

1. Ở mức độ này hay khác thì tất cả các kết luận của khoa học phải được chứng minh nhờ các sự kiện, quan sát và thực nghiệm. Nhưng triết học lại thờ ơ với việc xác nhận này.

2. Các khẳng định khoa học được kiểm tra một cách kinh nghiệm và có thể bác bỏ bởi thí nghiệm. Nhưng những khẳng định của triết học không được kiểm tra và không bị bác bỏ.

3. Trong mỗi khoa học thường tồn tại một lý luận cơ bản mà ở thời kỳ nhất định phần lớn các nhà khoa học đều ủng hộ lý luận ấy. Ngược lại triết học không có lý luận thống trị mà đa trường phái, đa trào lưu, đa xu hướng.

4. Khoa học sử dụng một cách rộng rãi sự quan sát, đo lường và thực nghiệm. Nó thường hướng đến quy nạp và dựa vào sự khái quát hoá. Nhà triết học thì không , làm quan sát/thí nghiệm, thu thập các sự kiện. Anh ta sử dụng phương pháp tiên đề kiểu toán học, tiên đề không cần những luận chứng thực tế như thực nghiệm.

5. Trong khoa học luôn tồn tại các vấn đề mọi người thừa nhận và cùng khám phá. Còn triết học không có những vấn đề được thừa nhận chung.

6. Mỗi khoa học cụ thể đều có ngôn ngữ đặc thù của ngành mình. Ngôn ngữ chung tạo khả năng trao đổi và thể hiện các kết quả giữa các khoa học gia. Thế còn ngôn ngữ triết học lại không xác định. Mỗi triết gia đều muốn đưa nội dung riêng, ý nghĩa riêng của những thuật ngữ quen thuộc vào khái niệm của mình.

7. Khoa học đem lại cho chúng ta chân lý nghĩa là phản ánh tương ứng hiện thực trong hình thức các khái niệm, định luật và lý luận khoa học. Triết học lại không chỉ phản ánh hiện thực mà còn mô tả việc cải tạo thực tiễn - nên làm thế nào để tốt đẹp hơn... Không thể đặt một mệnh đề triết học vào các sự kiện thực nghiệm với mục đích khẳng định hay bác bỏ nó.

Theo quan điểm này triết học không phải chỉ là khoa học mà nó là hệ thống hoàn chỉnh các quan điểm về thế giới, về vị trí của mình ở trong thế giới và xã hội. Nét đặc trưng của thế giới quan là ở chỗ cùng với một số khái niệm về thế giới, nó bao hàm cả trong mình mối quan hệ với thế giới, sự đánh giá thế giới từ luận điểm của các giá trị, lý tưởng nào đó...

Những mối quan hệ thế giới quan và sự đánh giá luôn luôn là chủ quan, chúng được xác định bởi những đặc điểm của người mang thế giới quan, bởi vị trí và quyền lợi của người đó trong xã hội... Vậy triết học luôn mang tính cá nhân.

Nếu theo cách nhìn như vậy thì triết gia phải thấy rõ điều quan trọng mô tả được thế giới quan của cá nhân mình. Chúng ta cũng nhìn triết học như lịch sử vận động thế giới quan của các cá nhân. Chúng ta không phải chỉ tìm kiếm những giá trị chung mà hình thành và thể hiện sự nhìn nhận riêng với thế giới, mối quan hệ cá nhân với thế giới...

Quan điểm này giải thích được vấn đề tại sao các quan điểm của cá nhân là khoa học gia hay những người không liên quan đến hoạt động khoa học lại vẫn được coi là quan điểm có “mang tính triết học”. Đó là bởi những quan điểm ấy đóng góp hình thành nên hệ thống hoàn chỉnh các quan điểm về thế giới cho một cá nhân hay cộng đồng.

Khi đã coi triết học không phải là khoa học, việc còn lại là chúng ta xem xét mối quan hệ giữa chúng với nhau. Có quan điểm cho rằng đó là loại quan hệ chủ thể - khách thể đối lập nhau. Các ngành khoa học như vật lý, hoá học… thể hiện nhân tố đối lập giữa chủ thể và khách thể, sự nhận thức của chúng tất yếu phải loại trừ cái chủ thể trong tri thức. Ngược lại, dù có những sự khác nhau, các học thuyết triết học đều thể hiện nhân tố đồng nhất chủ thể và khách thể.

“Thế giới nhập vào trong cấu trúc của tự ý thức với tư cách là khách thể của chính sự đồng nhất của ý thức”. Bởi thế trong sự nhìn nhận triết học, thế giới gắn bó bên trong với ý thức, cùng với nó tạo nên một chỉnh thể duy nhất thể hiện sự thống nhất bên trong của con người và tự nhiên. Chỉnh thể này tạo nên nội dung của khái niệm tồn tại. Với tư cách là nhân tố của chỉnh thể này, thế giới là đối tượng nhận thức của triết học.

B. Quan điểm ngược lại thì coi Triết học là khoa học, đã là Triết học thì phải mang tính khoa học

Chính Mác và Ăngen đã đặt cơ sở cho triết học khoa học bằng nhận thức duy vật lịch sử. “Nhận thức duy vật quá trình lịch sử làm cho triết học của chủ nghĩa Mác trở thành một khoa học chân chính”.

Triết học có mặt ở trong các tư tưởng bao trùm cả thời đại và sẽ là phi lý khi giả định nó bước qua thời đại ngày nay - thời đại mà tính duy lý khoa học được xem xét như chỉ số của tinh thần. Vậy thời đại của chúng ta phải có triết học mang tính khoa học.

Chúng ta có thói quen coi khoa học là những tri thức phổ biến, khách quan và không mang tính cá nhân. Nhưng đồng nhất tính khoa học với tính phổ biến, chúng ta cũng có thể phủ nhận tính khoa học với các khoa học về hệ thống đang phát triển chừng nào mỗi hệ thống như thể là đơn nhất và tuân theo những quy luật hoạt động và phát triển đặc thù của riêng mình. Chúng ta cũng không thể nào phủ nhận dấu ấn của cá nhân, người sáng tạo trong các hệ thống triết học.

Khi nói rằng thực tiễn lịch sử xã hội là tiêu chuẩn khách quan của tính chân lý trong khoa học và triết học thì cần hiểu thực tiễn trong tính chỉnh thể và sự phát triển của nó.

Tính chân lý là cần thiết nhưng vẫn là tiêu chuẩn chưa đầy đủ của tính khoa học. “Vật lý học hiện đại đã chỉ ra rằng khoa học luôn chứa đựng cả nhân tố chủ quan. Tri thức của khoa học tự nhiên cũng không thoát khỏi quan hệ đánh giá, dù rằng ở đây quan hệ này giữ vai trò nhỏ hơn trong các khoa học xã hội và triết học”

Vậy, triết học thuộc về kiểu khoa học khác mà chỉ bắt đầu được chúng ta suy nghĩ và cho đến nay chưa hiểu đến cùng. Khoa học kiểu này là khoa học về các khách thể mang tính cá biệt... Mục đích của triết học là mong muốn hài hoà thế giới tinh thần của cá nhân với thế giới bên ngoài, là sự tìm kiếm phương thức hài hoà này,,,

C. Quan điểm khác trung hoà quan điểm về quan hệ giữa triết học với khoa học và quan điểm coi triết học là khoa học như sau:“Triết học vừa là khoa học và vừa không là khoa học”.

Triết học là một sự hỗn tạp, nó cần thiết để cân bằng giữa khoa học và không khoa học, bởi nhiệm vụ của nó là gỡ bỏ cái ranh giới ấy!

Đã từ lâu, chúng ta đã xem xét triết học dưới cả 2 dạng tồn tại của nó: như một hình thái ý thức xã hội và như một khoa học.Vậy nên chúng ta chuyển sang tìm hiểu mối quan hệ giữa khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác nhau, trong đó có triết học.

Khoa học có thể lấy bất kỳ hiện tượng nào đó của hiện thực vật chất hay tinh thần thành đối tượng nghiên cứu của mình. Nó nghiên cứu những vấn đề đạo đức, thẩm mỹ và những vấn đề khác của xã hội thuộc về lĩnh vực tinh thần. Nó nghiên cứu cả chính quá trình sáng tạo khoa học nghĩa là nghiên cứu cả chính bản thân mình.

Vậy thì cớ gì nó không nghiên cứu những vấn đề triết học trong đó có những vấn đề thuộc về thế giới quan. Ngay đến đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo có phải là khoa học đâu. Nhưng điều đó đâu có phủ nhận sự tồn tại của đạo đức học, mỹ học và thần học… Nhưng khác với các khoa học này, khoa học triết học không có một cái tên chuyên biệt để phân biệt nó với triết học như một hình thái ý thức xã hội và là đối tượng nghiên cứu của nó. Bởi lẽ sự hình thành triết học như một khoa học theo thời gian gần như trùng với sự hình thành triết học với tư cách một hình thái ý thức xã hội. Vì thế khoa học triết học không có tên riêng mà trộn với hình thái ý thức xã hội tương ứng. Nó cũng giải thích vì sao từ lâu người ta đồng nhất Khoa học với Triết học.

Sự khác biệt có thể phân biệt là hình thái triết học của ý thức xã hội [có thể gọi với một cái tên khác là triết lý] chính là sự hướng ra ngoài, là quá trình thấu hiểu của triết học về thế giới – thế giới quan. Còn khoa học triết học [vẫn thường dùng với cái tên truyền thống là triết học] - đó là sự phản tư triết học hướng đến bản thân mình [đến thế giới quan] hoàn thành vai trò phương pháp luận và là “sự tự nhận thức” của xã hội.

Vậy đấy, thế còn bạn nghĩ sao? Triết học có là khoa học chăng?

Nếu ta nhận thức được rằng,triết học có những yếu tố không mang tính khoa học thì nó sẽ giúp ta thoát khỏi tình trạng giáo điều trong suy tư triết học, tạo điều kiện cho sự phát triển tự do, sáng tạo tri thức triết học. Ngoài phương diện về nhận thức luận ra, triết học còn chứa đựng cả phương diện đánh giá mang tính cá nhân. Giá trị học thể hiện vai trò của tác giả trong việc biện minh, tiếp nhận các quan điểm, các hệ thống triết học khác nhau đối với cá nhân.

LinkedInPinterestCập nhật lúc:12:26 CH @ 28/04/2010

Về vấn đề tính khoa học của triết học, một hình thái ý thức xã hội

08/05/2020

HỒ SĨ QUÝ

GS.TS., Viện Thông tin Khoa học Xã hội,

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 3 [447] 2020

Tóm tắt

Từ khoảng giữa thế kỷ XX, triết học được tranh cãi liệu nó có phải là một khoa học hay không. Trước đó, vấn đề này gần như không được đặt ra. Bởi lẽ, từ trong lịch sử đến tận ngày nay, triết học luôn được thừa nhận là một hình thái ý thức xã hội và giá trị không thể thay thế của triết học là ở đó. Người ta không coi triết học là một khoa học ngang hàng [cùng loại] với các khoa học khác, điều đó không có nghĩa rằng triết học không luận giải một cách khoa học về thế giới. Triết học nào cũng cố gắng sử dụng những thành tựu khoa học để khái quát luận thuyết của mình thành một mô hình lý tưởng nhằm giải thích mọi hiện tượng trong thế giới và định hướng cho hành vi. Hàm lượng khoa học của một học thuyết triết học, ngoài việc nó sử dụng những thành tựu của các khoa học khác còn biểu hiện ở sức mạnh của thế giới quan và phương pháp luận mà nó sáng tạo ra để giải thích thế giới và định hướng cho hoạt động của con người.

Từ khóa: Hình thái ý thức xã hội; Khoa học; Triết học; Triết học Mác-Lênin,

1. Đặt vấn đề

Tại hầu khắp các trường đại học trên thế giới, triết học đều có mặt trong bảng phân loại các bộ môn tri thức cần được giảng dạy, nghiên cứu. Bắt đầu từ Aristotle, truyền thống văn hóa phương Tây đã dần coi triết học là một loại tri thức nền tảng không thể thiếu đối với mọi tư duy duy lý, đặc biệt là tư duy khoa học. Ở trình độ tiến sỹ khoa học [Doctor of Sciences, Doctor Habilitatus], nhà khoa học chuyên ngành còn được xem tương đương là nhà triết học, nhà tư tưởng. Nghĩa là vị thế của triết học trong đời sống trí tuệ nhân loại chưa bao giờ là cái phải nghi ngờ. Mặc dù vậy, cũng theo truyền thống văn hóa phương Tây, tuyệt nhiên không mấy ai coi triết học là khoa học, kiểu như toán học, vật lý học, kinh tế học hay xã hội học... Triết học trong quan niệm phương Tây, không phải là khoa học thực chứng [Positivist Science], mà là một loại hình thế giới quan và phương pháp luận giải thích nguyên nhân và dẫn đường. Sự kiểm chứng đối với triết học giống như sự kiểm chứng đối với các tiên đề [Axioms], nghĩa là gần như buộc phải thừa nhận trong khi rất khó chứng minh.

Những điều vừa nói có nghĩa rằng, ở phương Tây, từ thời cổ đại tới tận ngày nay triết học vẫn luôn được coi là một hình thái ý thức xã hội, tức là một loại hình tri thức đặc thù, dẫn dắt toàn bộ tư duy và hành động, thiết yếu và quan trọng như tôn giáo, chứa đựng vô vàn tri thức đã và chưa được kiểm chứng. Nhưng triết học không phải là khoa học để có thể lặp lại bằng các thí nghiệm.

Với Marx, Engels và Lênin, triết học cũng đương nhiên là một hình thái ý thức xã hội.

Ở Việt Nam, trước năm 2008 triết học được xếp vào các khoa học xã hội. Từ năm 2008 đến nay, theo bảng phân loại khoa học mà Bộ KH&CN ban hành năm 2008 và được khẳng định lại từ năm 2012, triết học được xếp vào các khoa học nhân văn [Humanities]. Tại bảng phân loại không mấy hợp lý này, khoa học xã hội cũng chỉ là một trong sáu ngành khoa học được công nhận ở Việt Nam, ngang bằng với nông nghiệp hay y dược[1].Vấn đề đặt ra là, do đương nhiên có mặt trong bảng phân loại các bộ môn tri thức cần được giảng dạy và nghiên cứu, từ khoảng giữa thế kỷ XX, triết học lại được tranh cãi liệu nó có phải là một khoa học hay không. Với triết học Mác – Lênin, một vài giáo trình trước đây cũng đã từng viết “Triết học là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy”[2].

2. Triết học trong quan niệm của Marx, Engels và Lênin

Để hiểu thêm về vấn đề, chúng tôi thấy cần thiết phải trở lại với những tư tưởng của chính các tác gia kinh điển, để xem các ông đã phát biểu những gì về triết học.

Hóa ra, K. Marx, F. Engels và V.I. Lênin không xác định triết học là gì với tính cách là một định nghĩa. Những phát biểu trực tiếp về triết học ở các ông [mà dưới đây chúng tôi sẽ trích lại để lý giải vấn đề] cũng rất ít. Còn triết học có phải là một khoa học tương tự các khoa học cụ thể hay không, thì ở thời K. Marx - F. Engels và ngay cả ở thời V.I. Lênin, vấn đề hầu như chưa được đặt ra. Nhiều khoa học chuyên ngành mới chỉ không lâu trước đó vẫn còn thuộc về triết học [mà F. Engels gọi là “siêu hình học” và “nền triết học tự nhiên cũ”]. Điều đó không làm cho triết học phải hoài nghi và tự vấn về tư cách khoa học của nó. Lúc bấy giờ khoa học xã hội cũng chỉ vừa mới được hình thành [cùng với quan niệm thực chứng của Auguste Comte, 1830[3].

Nghĩa là người ta quan tâm nhiều đến tính hữu ích của triết học khi nó đóng vai trò là một hình thái ý thức xã hội, luôn cung cấp kịp thời cho con người những chỉ dẫn thế giới quan và phương pháp luận; không nhất thiết phải biết nó phù hợp đến mức nào với các dữ liệu khoa học [mà khoa học thì thời nào cũng “bất khả tri” trước không ít vấn đề].

Dù không đưa ra định nghĩa, nhưng quan niệm của các tác gia kinh điển về triết học đã được các tác giả hậu thế giải thích trong các tài liệu giáo khoa. Theo chúng tôi, các giáo trình triết học Mác - Lênin về sau giải thích đều không có gì sai với quan niệm của Marx, Engels và Lênin, với những nội dung chủ yếu thường được trình bày, gồm: i]. Triết học là một hình thái ý thức xã hội. ii]. Triết học hướng đến một cái nhìn toàn vẹn về thế giới, về con người và vị trí của con người trong thế giới đó. iii]. Khách thể khám phá của triết học là thế giới [gồm cả thế giới bên trong và bên ngoài con người]. iv]. Triết học giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng, quá trình và quan hệ của thế giới, với mục đích tìm ra những quy luật phổ biến nhất chi phối, quy định và quyết định sự vận động của thế giới, của con người và của tư duy. v]. Với tính cách là loại hình nhận thức đặc thù, độc lập với khoa học và khác biệt với tôn giáo, tri thức triết học mang tính hệ thống, toàn diện, lôgíc và trừu tượng về thế giới, bao gồm những nguyên tắc cơ bản, những đặc trưng bản chất và những quan điểm nền tảng về mọi tồn tại. vi]. Triết học là hạt nhân của thế giới quan.

Không nên quên rằng, Karl Marx được nhắc đến trong lịch sử tư tưởng nhân loại nhiều nhất không phải là một nhà triết học mà là một nhà cách mạng. Được đào tạo bài bản để trở thành một triết gia, nhưng ngay sau khi tốt nghiệp Đại học Bonn, Marx lại hướng sự say mê của mình tới kinh tế và chính trị, trên cơ sở đó mà suy tư triết học.Ngoài những tác phẩm đầu tiên thời trẻ, từ sau những năm 50 thế kỷ XIX các tác phẩm của ông đều không trực tiếp bàn đến triết học. Mặc dù vậy, triết học Marx lại định hình chủ yếu sau thời Marx trẻ [Young Marx], đặc biệt là Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học thuyết Hình thái kinh tế xã hội. Chúng tôi đã trở lại tương đối kỹ với các tác phẩm kinh điển và có đủ cơ sở để thấy rằng, trực tiếp bàn về triết học các tác gia kinh điển viết không nhiều:

2.1. Triết học là tinh hoa về mặt tinh thần của mỗi thời đại

K. Marx viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất; họ là sản phẩm của thời đại của mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học”[4].

2.2. Triết học là linh hồn sống của văn hóa

K. Marx viết: “Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình… Triết học đã có ý nghĩa khiến cho nó trở thành linh hồn sống của văn hóa...” [5].

Chẳng hạn, với triết học Cổ điển Đức, Chủ nghĩa duy vật Pháp, K. Marx và F. Engels xác nhận rằng, “ngay cả chủ nghĩa cộng sản phát triển cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật Pháp” [6]. Và, “nếu trước đó không có triết học Đức, đặc biệt là triết học Hegel, thì sẽ không bao giờ có chủ nghĩa xã hội khoa học Đức, chủ nghĩa xã hội duy nhất khoa học tồn tại từ trước đến nay” [7].

2.3. Triết học không treo lơ lửng bên ngoài thế giới

Marx viết: “Triết học không treo lơ lửng bên ngoài thế giới, cũng như bộ óc không tồn tại bên ngoài con người”[8]. Nhưng triết học cũng không ra đời trong một xã hội còn mông muội dã man. Nghĩa là, triết học chỉ có thể ra đời khi, nhà nước, công cụ trấn áp và điều hòa lợi ích giai cấp đủ trưởng thành, “từ chỗ là tôi tớ của xã hội [nhà nước] biến thành chủ nhân của xã hội” [9].

Đồng thời, triết học cũng chỉ xuất hiện khi kho tàng thức của loài người đã hình thành được một vốn hiểu biết nhất định mà trên cơ sở đó, tư duy con người đã đạt đến trình độ có khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ. Lao động trí óc đã tách khỏi lao động chân tay. Trí thức xuất hiện với tính cách là một tầng lớp xã hội, có vị thế xã hội xác định[10].

2.4. K. Marx và F. Engels hoàn thiện cấu trúc triết học của chủ nghĩa duy vật

Theo V.I. Lênin, “Bắt nguồn từ Feurbach và trưởng thành trong cuộc đấu tranh chống những tiểu tác gia nên lẽ tự nhiên là Marx và Engels chú ý nhiều nhất đến việc hoàn thiện cấu trúc triết học của chủ nghĩa duy vật, tức là chú ý nhiều nhất đến quan niệm duy vật lịch sử, chứ không phải đến nhận thức luận duy vật. Vì thế, trong những tác phẩm bàn về chủ nghĩa duy vật biện chứng, hai ông nhấn mạnh mặt biện chứng hơn là mặt duy vật; khi bàn về chủ nghĩa duy vật lịch sử, hai ông nhấn mạnh mặt lịch sử hơn là mặt duy vật” [11].

2.5. Chủ nghĩa duy vật hiện đại do Marx sáng lập ra, có nội dung vô cùng phong phú, có tính chất vô cùng triệt để, hơn tất cả mọi hình thức trước kia của chủ nghĩa duy vật

V.I. Lênin đánh giá: “Ngay từ 1843, lúc mà Marx chỉ mới đang trở thành Marx, nghĩa là trở thành người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội, với tính cách là một khoa học, trở thành người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật hiện đại, có nội dung vô cùng phong phú hơn và có tính chất vô cùng triệt để hơn tất cả mọi hình thức trước kia của chủ nghĩa duy vật, thì Marx đã vạch ra một cách hết sức rõ ràng những đường lối căn bản trong triết học… Thiên tài của Mác và Ăng-ghen chính là ở chỗ, trong một thời kỳ rất dài - gần một nửa thế kỷ - hai ông đã phát triển chủ nghĩa duy vật, đã đẩy một khuynh hướng cơ bản của triết học tiến lên phía trước; đã không quanh quẩn ở chỗ chỉ lặp lại những vấn đề nhận thức luận đã được giải quyết, mà đã triệt để áp dụng cũng chủ nghĩa duy vật ấy và chỉ vẽ cách áp dụng chủ nghĩa duy vật ấy vào lĩnh vực khoa học xã hội như thế nào”[12].

2.6. Cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng

V.I. Lênin viết: “Như Marx và Engels đã tuyên bố nhiều lần, cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng, một chủ nghĩa đã hoàn toàn hấp thụ những truyền thống lịch sử của chủ nghĩa duy vật của thế kỷ XVIII ở Pháp và của Feurbach ở Đức nửa đầu thế kỷ XIX” [13].

2.7. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học

Theo V.I.Lênin, “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và tuỳ tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị; lý luận đó chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức đời sống xã hội này, nảy ra và phát tiển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn” [14].

2.8. Giống như Darwin đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Marx đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người

F. Engels nhận định: “Giống như Darwin đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Marx đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người: cái sự thật giản đơn đã bị những tầng tầng lớp lớp những tư tưởng phủ kín cho đến ngày nay là: con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v. ; vì vậy, việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất tực tiếp và do đó, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại, tạo thành một cơ sở trên đó người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của những con người nhất định và vì vậy phải xuất phát từ cơ sở đó mà giải thích những cái này, chứ không phải ngược lại, như từ trước đến nay người ta đã làm” [15].

2.9. Việc phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử đã loại bỏ được hai khuyết điểm căn bản của những lý luận lịch sử trước kia

“Việc phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, hay nói cho đúng hơn, việc áp dụng, việc vận dụng triệt để chủ nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực những hiện tượng xã hội, đã loại bỏ được hai khuyết điểm căn bản của những lý luận lịch sử trước kia. Một là, những lý luận này cùng lắm thì cũng chỉ xem xét những động cơ tư tưởng của hoạt động lịch sử của con người, mà không nghiên cứu căn nguyên của những hiện tượng đó, không phát hiện ra tính quy luật khách quan trong sự phát triển của hệ thống quan hệ xã hội và không thấy rằng trình độ phát triển của sản xuất vật chất là nguồn gốc của những quan hệ ấy. Hai là, những lý luận trước kia đã không nói đến chính ngay hành động của quần chúng nhân dân, còn chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì lần đầu tiên, đã giúp ta nghiên cứu một cách chính xác như khoa học tự nhiên, những điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của những điều kiện ấy”[16].

3. Triết học là hình thái ý thức xã hội và tính khoa học của tri thức triết học

Như vậy, với tính cách là một loại hình tri thức lý luận đặc thù xuất hiện sớm, đảm nhận chức năng xã hội không thể thay thế trong lịch sử nhận thức và hoạt động thực tiễn, và ngay cả khi triết học còn chứa đựng trong nó tất cả mọi thành tựu của nhận thức, loại hình tri thức đặc biệt này đã tồn tại và được thừa nhận rộng rãi là một hình thái ý thức xã hội. Cả ở phương Đông và phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần bậc cao, có trình độ trừu tượng hóa và khái quát hóa đặc biệt phổ quát, giúp con người nhìn nhận và đánh giá đối tượng xuyên qua tất cả các dữ liệu cảm tính và lý tính, từ đó đưa ra mô hình [bức tranh toàn thể] giải thích và định hướng cho mọi đối tượng nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đến tận thế kỷ XVII, vị thế này của triết học vẫn bao trùm gần như toàn bộ nhận thức. Toán học, cơ học, thiên văn học… là những ngành tri thức đầu tiên tách ra từ triết học để dần xác lập vị thế của các bộ môn khoa học độc lập. Đến thế kỷ XVII, các Viện hàn lâm khoa học ở Đức, Pháp được thành lập. Từ giữa thế kỷ XIX, các khoa học xã hội và nhân văn mới xuất hiện.

Ngày nay, mỗi bộ môn tri thức được thừa nhận là khoa học khi nó có đối tượng riêng, có phương pháp nghiên cứu riêng; có hệ thống các khái niệm, phạm trù riêng và thỏa mãn được những điều kiện: Thực chứng hoặc Lý tính; Không mâu thuẫn; Thực tiễn - Kinh nghiệm; Độ tin cậy của các thực nghiệm; Có hiệu lực phổ biến [liên chủ thể]; Hệ thống [Evidence or Rationality; Consistency; Empirical [Experimental, Practical; The Credibility of Empirical material; General Validity [Intersubjectivity]; Systematicity [Integrity, Coherence][17].

Có nhiều học phái triết học tự nhận mình là khoa học và triết học nào cũng có tham vọng đạt tới lý luận khoa học về thế giới. Nhưng thực ra, tất cả các luận thuyết, quan điểm triết học đều là cái được lựa chọn để ứng dụng. Việc kiểm chứng [các luận thuyết, quan điểm triết học đó] thường vô cùng khó và chỉ được thực hiện trong các phạm vi rất hạn chế nên hầu như không đủ để đánh giá. Đây cũng là một đặc điểm của tư duy triết học. Với sức mạnh của chức năng định hướng và giải thích, các học thuyết triết học [một khi đã được con người thừa nhận là thế giới quan và phương pháp luận của mình] đều có đóng góp nhất định cho sự hình thành tri thức và là những “vòng khâu”, những “mắt khâu” trên “đường xoáy ốc” vô tận của lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Trình độ khoa học của một triết thuyết phụ thuộc vào lịch sử ứng dụng hiệu quả của nó trong thực tiễn với sự phát triển của hệ thống tri thức và hệ thống phương pháp nghiên cứu khám phá đối tượng nghiên cứu.

Trong đời sống xã hội, triết học trước hết và bao giờ cũng là một hình thái ý thức xã hội. Nghĩa là, việc sắp xếp triết học trong bảng phân loại khoa học không nhất thiết là thừa nhận tư cách khoa học của triết học. Là loại hình tri thức đặc biệt của con người, triết học nào cũng có tham vọng xây dựng nên bức tranh tổng quát nhất về thế giới và về con người. Nhưng khác với tông giáo, loại hình tri thức xây dựng thế giới quan dựa trên niềm tin và quan niệm tưởng tượng về thế giới, triết học sử dụng các công cụ lý tính, các tiêu chuẩn lôgíc và những kinh nghiệm mà con người đã khám phá thực tại, để diễn tả thế giới và khái quát thế giới quan bằng lý luận. Tính đặc thù của nhận thức triết học thể hiện ở đó[18].

Triết học khác với các khoa học cụ thể ở tính đặc thù của hệ thống tri thức và phương pháp nghiên cứu. Tri thức triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người. Tri thức này dựa vào 5 nguồn chính: i]. Tổng kết thực tiễn; ii]. Thừa nhận thành tựu khoa học; iii]. Cảm nhận cảm tính; iv]. Phán đoán lý tính; và v]. Sự linh cảm trực giác, “siêu phàm” của nhà triết học. Phương pháp nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi triết học dựa trên cơ sở tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân tư tưởng triết học.

Như đã trình bày ở trên, ngay từ khi xuất hiện trong đời sống tri thức nhân loại, triết học đã tồn tại với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, thay thế cho tư duy huyền thoại và tôn giáo thời kỳ trước đó đảm đương vai trò thế giới quan và phương pháp luận dẫn dắt con người nhận thức và chinh phục thế giới bí ẩn xung quanh.

Nói đến các hình thái ý thức xã hội là nói đến loại hình tinh thần đương nhiên tồn tại trong đời sống xã hội, là cái không thể thiếu khi con người sống thành xã hội. Hình thái ý thức xã hội đảm nhận chức năng xã hội về nhận thức, về tư duy, về tình cảm và tâm lý… giúp cho đời sống con người diễn ra một cách bình thường theo quy luật. Ý thức xã hội chắc chắn là phong phú và đa dạng hơn cả tồn tại xã hội, do phản ánh tồn tại xã hội bằng các phương thức sáng tạo mà chỉ trong tư duy mới có. Tư duy phản ánh hiện thực nhưng tư duy lại có khả năng đẻ ra tư duy. Sản phẩm sáng tạo của tư duy, ý thức… do vậy, vô cùng phong phú và từ đó giới tự nhiên thứ hai là văn hóa đã xuất hiện.

Nói điều này chúng tôi muốn lưu ý rằng, trong khi bản thân ý thức xã hội vô cùng phong phú và đa dạng với nhiều trình độ khác nhau, thì các hình thái ý thức xã hội lại tồn tại hữu hạn với các hình thái rất xác định. Đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo, chính trị, pháp lý, khoa học và triết học…. là các hình thái ý thức xã hội được trí tuệ con người khái quát qua sự sàng lọc của thời gian. Và do vậy, chúng là những mặt cơ bản của đời sống tinh thần của con người.

Nếu tôn giáo là hình thái ý thức xã hội dựa trên niềm tin vào cái siêu nhiên, bao gồm niềm tin thiêng liêng, xúc cảm thăng hoa, hành động vượt ra ngoài sự kiềm chế của lý trí, thì hình thái ý thức triết học lại là cấp độ lý luận về thế giới quan, về phương pháp luận đảm nhận chức năng giải thích và định hướng cho con người sống, lao động và sáng tạo. Triết học và tôn giáo là hai hình thái ý thức giống nhau về đối tượng khái quát và chức năng định hướng đối với đời sống con người, nhưng khác nhau về cách thức và phương pháp chỉ dẫn nhận thức và hành vi. Tôn giáo trang bị cho con người thế giới quan tin tưởng để hoạt động. Trong khi đó triết học trang bị cho con người thế giới quan hoài nghi để tỉnh táo khám phá thế giới. Tính hiệu quả của hai loại thế giới quan này không dễ đánh giá trong thực tiễn đời sống. Bởi thế không có gì khó hiểu khi nhiều nhà khoa học trong khi tin ở Chúa lại vẫn có những sáng tạo có giá trị.

Theo chúng tôi, khi thừa nhận quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx về triết học, thì cũng hoàn toàn có thể đồng ý với Bertrand Russell khi ông khẳng định, triết học là cái trung gian giữa tôn giáo và khoa học. Nghĩa là, triết học là lý luận về các vấn đề mà tri ​​thức khoa học thì chưa đủ để chứng minh, còn tôn giáo thì lại quá tự tin để một chiều khẳng định. Những vấn đề triết học mà Bertrand Russell xác định, gồm: i]. thế giới tâm và vật [Mind and Matter]; ii]. sự thống nhất và vấn đề mục đích của vũ trụ [Universe unity or purpose]; iii]. quy luật của tự nhiên còn tồn tại thực hay không, hay con người tin vào sự tồn tại khách quan đó “chỉ vì tình yêu trật tự bẩm sinh của chúng ta” [Are there really laws of nature, or do we believe in them only because of our innate love of order]? – thực chất là vấn đề về tính khách quan của các quy luật; iv]. vấn đề nguồn gốc con người và loài người?; v]. vấn đề giá trị và ý nghĩa của đời sống và tiến bộ xã hội; vi]. vấn đề về sự tồn tại của Chúa[19]. Theo Russell, nghiên cứu những vấn đề này là “công việc của triết học” [The studying of these questions, is the business of philosophy]. Quan niệm của B. Russell một lần nữa khẳng định tư cách hình thái ý thức xã hội của triết học, khám phá những vấn đề vĩnh cửu của triết học, cho dù mai sau triết học có phát triển đến trình độ nào. Tại hầu khắp giảng đường các trường đại học Phương Tây, tư tưởng của B. Rusell về triết học được coi là điều không thể không biết.

Tính chất thế giới quan của ý thức triết học trong nghiên cứu 6 vấn đề mà Rusell phác họa là ở chỗ, trước hết chúng là những vấn đề mà chỉ triết học mới có thẩm quyền giải quyết. Các khoa học khác ở mỗi thời điểm nhiều lắm cũng chỉ giải quyết được một phần vấn đề đặt ra. Còn tôn giáo lại khẳng định hoặc phủ định chúng một cách thiếu căn cứ. Thứ hai, chúng là những vấn đề vĩnh cửu, vì thời nào những vấn đề này cũng đều mang tính thời sự, con người muốn tồn tại và phát triển đều không thể lảng tránh, nhưng tại mỗi thời kỳ, trí tuệ con người chỉ có thể góp thêm luận cứ, bằng chứng và kiến giải bằng trình độ khoa học của thời đại mình. Và cuối cùng, nếu khoa học giải quyết được triệt để một vấn đề nào đó trong số 6 vấn đề trên, thì vấn đề đó không còn là vấn đề triết học nữa.

Thực ra quan niệm về triết học là khoa học xuất hiện và gây tranh cãi nhiều hơn trong giới triết học Mácxít, khi ai đó đã mở rộng quan niệm về phép biện chứng sang toàn bộ triết học. Trong “Chống Duhrin” F. Engels viết: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”[20]. Theo chúng tôi, vấn đề là ở chỗ, triết học cũng nghiên cứu những quy luật phổ biến của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy, nhưng triết học là hệ thống những quan điểm chung nhất về thế giới, còn phép biện chứng lại là hệ thống các nguyên tắc chung nhất về vận động. Và đó là lý do tại sao Engels gọi nó “chẳng qua chỉ là khoa học…”.

Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, triết học hay phép biện chứng thì cũng đều là lý luận triết học. Khi Engels gọi phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học, thì thuật ngữ “khoa học” ở đây cũng không nên hiểu phép biện chứng như là vật lý học hoặc toán học. Nghĩa là trong quan niệm của chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx, tính chất khoa học của triết học không hề biến triết học thành một khoa học chuyên biệt ngang hàng và tương đương với các khoa học chuyên ngành cụ thể. Trong các tác phẩm của các ông, cho tới nay cũng chưa ai tìm thấy triết học được các ông gọi là “khoa học”.

Việc đề cao triết học Mác - Lênin bằng cách coi đó là triết học duy nhất khoa học [như đây đó đã từng diễn ra] trên thực tế lại đã vô tình hạ thấp vai trò của nó. Triết học Mác - Lênin cũng giống như tất cả các học phái triết học uy tín khác, trước hết thuộc về hình thái ý thức triết học. Không nhất thiết và không cần thiết phải đề cao triết học, dù là triết học Mác – Lênin, bằng cách coi nó là một trong các khoa học xã hội.

Cần thiết phải nói thêm rằng, nền khoa học hiện đại được coi là bắt đầu từ thế kỷ XVI, với thuyết nhật tâm của Nicolaus Copernicus, có cơ sở triết học của nó là Chủ nghĩa duy vật: tìm ra các quy luật của thế giới vật chất, lấy các quy luật đó làm cơ sở để giải thích tất cả những điều còn lại của thế giới, từ tự nhiên đến con người và tư duy. Dựa trên các bằng chứng có thể thực nghiệm được, khoa học đã khẳng định tính hợp lý của các quan điểm về thế giới. Hệ tư tưởng của chủ nghĩa duy vật khoa học, do vậy đã thống trị trong giới học thuật suốt từ đó đến nay. Mặc dù đã đạt được những thành tựu vô cùng lớn, khoa học duy vật hiện đại vẫn chưa thể giải thích được một cách thấu đáo những vấn đề về tinh thần, tâm linh - cái rất căn bản tạo nên cuộc sống đầy ý nghĩa nhưng vô cùng phức tạp của đời sống con người và của các dân tộc. Đó chính là lý do mà nhiều nhà khoa học trên thế giới từ ngày 7-9 tháng 2/2014, đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh quốc tế về khoa học hậu duy vật [Post-Materialist Science] tại Arizona, Mỹ. Mục đích của hội nghị là đánh giá tác động của hệ tư tưởng duy vật trong khoa học [Materialist Ideology on Science] và đề xuất mô hình hậu duy vật [Post-Materialist Paradigm] để mở đường cho khoa học về tâm linh và xã hội phát triển mạnh hơn trong tương lai. Kết thúc hội nghị, các nhà khoa học đã công bố “Tuyên ngôn về Khoa học hậu duy vật”. Đến nay [2020], ngoài 8 tác giả sáng lập, hơn 300 nhà khoa học có uy tín trên thế giới đã ký bản Tuyên ngôn này[21].

Kết luận

Triết học là một hình thái ý thức xã hội và giá trị của triết học là ở đó. Triết học không phải là một khoa học ngang hàng với các khoa học xã hội khác, điều đó không có nghĩa rằng triết học không luận giải một cách khoa học về thế giới. Hàm lượng khoa học của một học thuyết triết học, ngoài việc nó sử dụng những thành tựu của các khoa học cụ thể còn biểu hiện ở sức mạnh của thế giới quan và phương pháp luận mà nó sáng tạo ra để giải thích thế và giới định hướng cho hoạt động của con người.

Tài liệu trích dẫn

[1] Xem: QĐ số 12/2008/QĐ-BKHCN ngày 04/09/2008 của Bộ trưởng Bộ KH&CN về việc ban hành bảng phân loại thống kê KH&CN. //www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/361/bang-phan-loai-va-danh-muc-chuan.aspx.

[2] Xem: 1]. Russell, Bertrand [1945], A History of Western Philosophy and Its Connection with Political and Social Circumstances from the Earliest Times to the Present Day, Pub. Simon & Schuster, Allen & Unwin. 2]. Friedland, Julian [2012], Philosophy Is Not a Science, //www.academia.edu/8218744/Philosophy_is_Not_a_Science 3]. Покровская, Т. П. Научно-теоретическая конференция “Философия и наука” Вестник РФО. № 4; [Hội thảo “Triết học và Khoa học”. Bản tin Hội Triết học Nga] 4]. Марков, B. C. [2006], Философия как наука [Triết học với tính cách là Khoa học. Bản tin Hội Triết học Nga], Вестник РФО. № 1. 5]. Рута, В. Д. [2003], Наука или ненаука? [Khoa học hay không phải khoa học. Bản tin Hội Triết học Nga] Вестник РФО. № 4. 6]. Зорина, Е. В., Рахманкулова, Н. Ф. и др. [2004], Философия в вопросах и ответах: учеб. пособие / под ред. А. П. Алексеева, Л. Е. Яковлевой. М., [Triết học hỏi và đáp. Chủ biên: А. П. Алексеева, Л. Е. Яковлевой] 7]. Губанов, Н. И. [2008], Является ли философия наукой?, [Triết học có phải là khoa học] “Философия и общество” №1 [49] //www.socionauki.ru/journal/articles/130024/.

[3] Xem: Auguste Comte [2012], Cours de philosophie positive, Edition numérique : Pierre Hidalgo. La Gaya Scienza, © décembre 2012. //www.ac-grenoble.fr/PhiloSophie/old2/file/comte_khodoss.pdf.

[4] K. Marx, F. Engels [1995], Toàn tập, t. 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 156.

[5] K. Marx, F. Engels [1995], Toàn tập, t.1. Sđd. tr. 157.

[6] K. Marx, F. Engels [1995], Toàn tập, t.2. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 200.

[7] K. Marx, F. Engels [1995]. Toàn tập, t.18. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 698.

[8] K. Marx, F. Engels [1995], Toàn tập, tập 1, Sđd. tr. 156.

[9] K. Marx, F. Engels [1995], Toàn tập, tập 22, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 288.

[10] Vào thế kỷ VII - V TrCN, giáo dục và nhà trường đã hoạt động khá chuyên nghiệp. Tầng lớp quý tộc, tăng lữ, điền chủ, nhà buôn, binh lính… đã chú ý đến việc học hành. Tri thức toán học, địa lý, thiên văn, cơ học, pháp luật, y học… đã được giảng dạy. Xem: Michael Lahanas. Education in Ancient Greece. //www.hellenicaworld.com/Greece/Ancient/en/AncientGreeceEducation.html

[11] V.I. Lênin [1980], Toàn tập, t. 18, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. tr. 408.

[12] V.I. Lênin [1980], Toàn tập, t. 18, Sđd. tr. 417.

[13] V.I. Lênin [1979], Toàn tập, t. 17. Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. tr. 510.

[14] V.I. Lênin [1980], Toàn tập, t. 23, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. tr. 53.

[15] K. Marx, F. Engels, Toàn tập, t.19. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 499-450.

[16] V.I. Lênin [1980], Toàn tập, t. 23, Sđd. tr. 68.

[17] See: Machamer, Peter and Michael Silberstein [2002], The Blackwell Guide to the Philosophy of Science. Blackwell Publishers Ltd, First published. Massachusetts, USA. //pages.wustl.edu/files/pages/imce/cfcraver/struct_scientif_theories_0.pdf

[18] Xem: ИФ, РAH [2001]. Новая философская энциклопедия [Bách khoa thư Triết học mới]. c. 195.

[19] [Is there such a thing as wisdom, or is what seems such merely the ultimate refinement of folly?] Xem: Russell, Bertrand [1945], A History of Western Philosophy and Its Connection with Political and Social Circumstances from the Earliest Times to the Present Day, Pub. Simon & Schuster, Allen & Unwin. c. 9.

[20] K. Marx, F. Engels [1994], Toàn tập, t. 20, Sđd. tr. 201.

[21] Xem: Manifesto for a Post-Materialist Science. //opensciences.org/about/manifesto-for-a-post-materialist-science.

Nguồn:Tạp chíThông tin Khoa học xã hội,số 3 [447] 2020

In bài viết
Gửi Email
Các tin đã đưa ngày:

Mục lục

Tổng quanSửa đổi

Triết học Marx-Lenin là một trong ba bộ phận cấu thành của Chủ nghĩa Mác – Lenin; đầu tiên là Triết học Mác, do Mác và Enghen sáng lập ra, được Lenin và các nhà mácxít khác phát triển thêm. Triết học Mác ra đời vào những năm 40 thế kỉ 19 và được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra đời của Triết học Mác là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học. Nhưng cuộc cách mạng ấy bao hàm tính kế thừa, tiếp thu tất cả những nhân tố tiên tiến và tiến bộ mà lịch sử tư tưởng loài người đã để lại.

Triết học Mác là triết học duy vật. Nhưng các nhà sáng lập của triết học đó không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỉ 18 mà những thiếu sót chủ yếu nhất của nó là máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. Các ông đã khắc phục những thiếu sót ấy, đưa triết học tiến lên một bước phát triển mới bằng cách tiếp thu một cách có phê phán những thành quả của triết học cổ điển Đức, nhất là phép biện chứng trong hệ thống triết học của Hegel. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hegel là phép biện chứng duy tâm, vì vậy, các nhà sáng lập Triết học Mác đã cải tạo nó, đặt nó trên lập trường duy vật. Chính trong quá trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hegel và phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ, trên cơ sở khái quát hoá những thành tựu của khoa học tự nhiên và thực tiễn cho đến giữa thế kỉ 19, Mác và Enghen đã tạo ra triết học của mình.

Triết học ấy sau này đã được Lenin phát triển thêm và trở thành Triết học Mác - Lenin. Triết học Mác - Lenin là triết học duy vật biện chứng triệt để. Lenin hy vọng khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Trong Triết học Mác - Lenin, các quan điểm duy vật về tự nhiên và về xã hội, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau thành một hệ thống lý luận thống nhất.

Mục lục

BÀI 1: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM CHO HÀNH ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Thứ ba - 21/07/2020 08:31 742.429 0


1. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết khoa học và cách mạng trong thời đại ngày nay
1.1. Sự ra đời, phát triển và các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin
1.1.1. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác-Lênin

Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đang trên đà phát triển mạnh mẽ đã tạo ra những điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Đặc biệt, sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và cuộc đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp này là một trong những điều kiện chính trị - xã hội quan trọng nhất cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Trong thời kỳ này,nhiều phát minh khoa học mang tính vạch thời đại xuất hiện. Những phát minh khoa học này không chỉ làm bộc lộ rõ tính hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình mà còn tạo ra cơ sở khoa học để khắc phục phương pháp tư duy siêu hình này. Đồng thời, chúng cũng cung cấp những cơ sở khoa học cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác ra đời còn là kết quả của sự kế thừa có chọn lọc, tiếp thu có phê phán toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng của nhân loại từ cổ đại đến thời đại của C.Mác [1818-1883] và Ph.Ăngghen [1820-1895], nhưng trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác còn là kết quả của các yếu tố chủ quan của C.Mác và Ph.Ăngghen,như:tình yêu thương những người lao động, tinh thần hy sinh không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng họ, niềm tin sâu sắc vào lý tưởng cách mạng của giai cấp công nhân, cùng sự thông minh...

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác được V.I.Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khoa học về thế giới vi mô phát triển và chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng ở nước Nga Xô viết, mở ra giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng, bởi nó phản ánh đúng quy luật khách quan vận động của lịch sử và đấu tranh xóa bỏ mọi hình thức nô dịch người, xây dựng một xã hội mà ở đó không còn người bóc lột người, người đàn áp người, người nô dịch người và sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người.

1.1.2. Các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết khoa học gồm ba bộ phận thống nhất hữu cơ không thể tách rời nhau:
- Triết học Mác-Lênin là khoa học về những quy luật phổ biến chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; trang bị cho con người thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.

- Kinh tế chính trị học Mác-Lênin nghiên cứu quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất [tức là nghiên cứu quan hệ sản xuất] và trong trao đổi, tiêu dùng; nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với quy luật giá trị thặng dư, chỉ rõ bản chất, những quy luật kinh tế chủ yếu của sự hình thành, phát triển và đưa phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tới chỗ diệt vong; chỉ ra những quy luật phát triển của quan hệ sản xuất mới, con đường xây dựng một xã hội không có áp bức bất công, vì tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người - xã hộicộng sản chủ nghĩa, giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.

-Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa và phương hướng xây dựng xã hội mới; chứng minh rằng, chủ nghĩa tư bản càng phát triển càng tạo ra những tiền đề vật chất đầy đủ cho sự ra đời xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Lực lượng xã hội thực hiện sự chuyển biến đó chính là giai cấp vô sản và nhân dân lao động; chỉ ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là lật đổ chủ nghĩa tư bản xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa - không còn người áp bức người, không còn người nô dịch người; nghiên cứu những vấn đề chính trị - xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa như vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...

1.1.3. Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong các giai đoạn lịch sử

Thời kỳ trước “đổi mới, cải cách, cải tổ”

Các nhà lý luận của chủ nghĩa xã hội, đứng đầu là các nhà lý luận Xô Viết đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên tất cả ba bộ phận triết học; kinh tế - chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. Họ đã cụ thể hóa và làm giàu thêm những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin bằng thực tiễn đấu tranh giải phóng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, họ cũng đã kiên quyết đấu tranh bác bỏ những sự xuyên tạc, vu khống ác ý đối với chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy nhiên, sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Liên Xô nói riêng trước đổi mới, cải cách, cải tổ ít nhiều đã bị giáo điều. Chính vì vậy, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trước đổi mới, cải cách, cải tổ có những biểu hiện giáo điều, xơ cứng, bảo thủ, chậm đổi mới.

Thời kỳ “đổi mới, cải cách, mở cửa”

Trong thời kỳ đổi mới, cải cách, mở cửa,Đảng Cộng sản Việt Nam,Đảng Cộng sản Trung Quốc, cùng một số Đảng Cộng sản khác đã vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện thực tiễn mỗi nước. Trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam với 8 đặc trưng, trong đó đặc trưng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vừa là đặc trưng thứ nhất vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam.Trung Quốc đã xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục được xây dựng ở Cu Ba, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào...Vì vậy,chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn tồn tại và phát triển,vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học của hàng triệu triệu con người tiến bộ trên trái đất.

1.2.Những nội dung chủ yếu thể hiện bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin

1.2.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận khoa học

Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận khoa học thống nhất của ba bộ phận cấu thành không thể tách rời làTriết học Mác-Lênin;Kinh tế chính trị học Mác-Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học.

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Triết học Mác-Lênin chỉ ra rằng, lực lượng sản xuất theo quy luật khách quan tự thân luôn vận động phát triển và đến một giai đoạn nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có, mâu thuẫn này được giải quyết sẽ làm cho phương thức sản xuất mới ra đời, kéo theo nó là một xã hội mới, một hình thái kinh tế - xã hội mới được ra đời từ trong lòng xã hội cũ, hình thái kinh tế -xã hội cũ. Quá trình này diễn ra một cách lịch sử - tự nhiên. Từ trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa sẽ hình thành những điều kiện, tiền đề vật chất cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Học thuyết giá trị thặng dư của Kinh tế chính trị học Mác-Lênin chỉ rõ sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là mục đích và quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn với tính chất tư bản tư nhân chủ nghĩa của sự chiếm hữu tư liệu sản xuất là nguyên nhân của mọi mâu thuẫn trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân - giai cấp tiến bộ, đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ với giai cấp tư sản - giai cấp đại diện cho giai cấp bảo thủ, phản tiến bộ. Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua cách mạng xã hội do giai cấp công nhân thực hiện. Giai cấp công nhân có vai trò lôi cuốn các tầng lớp lao động khác vào cuộc đấu tranh đập tan xã hội cũ, xây dựng xã hội mới không còn người bóc lột người mà Chủ nghĩa xã hội khoa học đã phân tích chỉ ra.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận khoa học là còn bởi lẽ, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin đã kế thừa toàn bộ tinh hoa trong lịch sử tư duy của nhân loại.Chủ nghĩaMác - Lênin còn có căn cứ cơ sở, tiền đề khoa học; có giai cấp vô sản và thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp này và các phương pháp khoa học, khách quan trong nhận thức tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.

1.2.2. Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan khoa học và phương pháp luận mácxít

Trước khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng khoa học luôn tách rời nhau. Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại cũng có một số nhà tư tưởng có sự thống nhất giữa thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng khoa học. Tuy nhiên, sự thống nhất này còn ở trình độ thấp. Hơn nữa, cả thế giới quan khoa học, cả phương pháp luận biện chứng khoa học đều còn ở trình độ thô sơ.

Trong chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa duy vật thống nhất hữu cơ với phép biện chứng. Đồng thời, chủ nghĩa duy vậtvàphép biện chứng đều được C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển lên một trình độ mới về chất hơn hẳn so với trước đó. Do đó, sự thống nhất thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng khoa học mácxít là một đặc trưng không thể thiếu của chủ nghĩa Mác-Lênin.

1.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người vớiviệc xác định rõcon đường, lực lượng, phương thứcđểđạt mục tiêu đó

Chủ nghĩa Mác-Lênin xuất phát từ con người hiện thực và cũng nhằm mục đích giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác-Lênin không có mục tiêu nào khác là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột. Nhưng để giải phóng con người, trước hết phải giải phóng giai cấp công nhân rồi tiến tới giải phóng nhân loại, giải phóng xã hội. Con đường giải phóng này là con đường đấu tranh cách mạng đập tan nhà nước tư sản bóc lột, xây dựng một nhà nước mới - nhà nước xã hội chủ nghĩa và sau này là cộng sản chủ nghĩa - mà ở đó không còn bất kỳ sự nô dịch, áp bức, bóc lột con người nào. Muốn vậy, giai cấp công nhân phải đoàn kết, tập hợp giai cấp nông dân và những người lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để thực hiện cuộc đấu tranh cách mạng này.

Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng tỏ ý nghĩa nhân văn to lớn của mục tiêugiải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người của chủ nghĩa Mác-Lênin.Cả về phương diện lý luận, cả về phương diện thực tiễn đều chứng tỏ, chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa nhân đạo nhất.

1.2.4. Chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết mở, không ngừng được đổi mới, được phát triển trong dòng trí tuệ của nhân loại

Về bản chất, chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết phát triển, là hệ thống mở, luôn được bổ sung, phát triển. Ngay từ năm 1887, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Lý luận của chúng tôi không phải là một giáo điều, mà là sự giải thích quá trình phát triển, quá trình này bao hàm trong bản thân nó một loạt những giai đoạn kế tiếp nhau”[1]. V.I.Lênin sau này cũng đã không ít lần nhắc lại lời Ph.Ăngghen và khẳng định lại luận điểm kinh điển ấy của chủ nghĩa Mác[2].

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin không bao giờ tự coi lý luận của các ông là “bất khả xâm phạm”, là hệ thống khép kín, là chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các ông luôn đòi hỏi những người cộng sản phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa...của mỗi nước. Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh của cách mạng Việt Nam bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như cácĐảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế cũng cho thấy bản chất vốn có của chủ nghĩa Mác-Lênin là sáng tạo và phát triển. Chính nhờ có sáng tạo mà chủ nghĩa Mác-Lênin được phát triển, chính phát triển lại là điều kiện cho những người mác-xít vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh - hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam

2.1.Khái niệm và nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

2.1.1. Khái niệm

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của Nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân…”[3].

Đến Đại hội XI, Đảng ta khẳng định“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và của dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi”[4].

Nội dung củatư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống quan điểm, tư tưởng bao gồm những nội dung cốt lõi:

Thứ nhất,về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóngxã hội vàcon người.Thứ hai,về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.Thứ ba,về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.Thứ tư,về sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc.Thứ năm,về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.Thứ sáu,về quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.Thứ bảy,về xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.Thứ tám,về đạo đức cách mạng.Thứ chín,về chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.Thứ mười,về xây dựng Đảngtrong sạch, vững mạnh.

Đảng ta coitư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng củaNhân dân ta giành thắng lợi.

2.1.2. Nguồn gốc hình thành

Thứ nhất,tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin ở nhiều vấn đề lý luận quan trọng, nhất là lý luận về giai cấp - dân tộc và lý luận về chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai,tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hồ Chí Minh là một trong những người con ưu tú của dân tộc. Người đã kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong đó giá trị tiêu biểu là chủ nghĩa yêu nước; ý chí tự lực, tự cường; tinh thần nhân nghĩa; truyền thống đoàn kết tương thân tương ái, truyền thống cần cù, dũng cảm ,thông minh, sáng tạo...

Thứ ba,tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Đông, nhất là những tư tưởng tiến bộ trong Nho giáo, Phật giáo và tư tưởng tiến bộ của Tôn Trung Sơn. Ở đó,Người tìm thấy những yếu tố phù hợp với điều kiện của cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái và cách mạng phương Tây. Từ đó, Người hướng cách mạng Việt Nam theo những giá trị của nền văn hóa ấy.

Thứ tư,tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu thươngNhân dân vô hạn, một nhân cách lớn. Hồ Chí Minh cũng là người có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, không ngừng học tập để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào giải phóng dân tộc.

Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã giúp Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu được các giá trị văn hóa nhân loại và vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, là tiền đề cho những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.

2.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh

2.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóngxã hội vàcon người

Hồ Chí Minh cho rằng, con đường của cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóngxã hội vàcon người. Trong đó, giải phóng dân tộc để dân tộc ta thoát khỏi cảnh lầm than, nô lệ, áp bức,nô dịchbởi thực dân, đế quốc; giải phóng giai cấp để xóa bỏ áp bức giai cấp, bóc lột giai cấp, đem lại hạnh phúc choNhân dân. Giải phóngxã hội để thực hiện công bằng xã hội. Giải phóngcon người để mỗi người ai cũng có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được phát triển toàn diện. Tư tưởng xuyên suốt của Hồ Chủ tịch làdân tộc thì độc lập, dân quyền thì tự do, dân sinh thì hạnh phúc. Chính vì vậy, với Người không có gì quý hơn độc lập, tự do. Nhưnggiành được độc lập, tự do rồi mà dân vẫn đói, vẫn rét thì độc lập, tự do cũng vô nghĩa.

Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc,giải phóng giai cấp, giải phóngxã hội vàcon ngườigắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi lẽ, giải phóng dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để giải phóng giai cấp, giải phóngxã hội vàcon người. Tuy nhiên, giải phóng giai cấp và giải phóngxã hội vàcon người sẽ củng cố, khẳng định, bảo vệ giải phóng dân tộc. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, các nước thuộc địa và phụ thuộc phải tiến hành chủ động, sáng tạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Trong các cuộc cách mạng giải phóng ấy thì giải phóng con người là mục tiêu cao nhất của cách mạng, thúc đẩy cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.

2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắnliềnvới chủ nghĩa xã hội

Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới vững bền. Nói khác đi, chỉ có lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa mới là con đường bảo vệ và phát triển vững chắc nhất thành quả của độc lập dân tộc, mới bảo đảm choNhân dân thực sự được hạnh phúc, đồng bào ta thực sự được ấm no. Tất nhiên, độc lập dân tộc cũng là điều kiện, tiền đề, cơ sở để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ phát triển lên chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển đúng đắn và hợp quy luật khách quan của Việt Nam. Điều này có các luận cứ:

Thứ nhất,đây là quy luật phát triển khách quan của lịch sử không ai có thể ngăn cản được. Người khẳng định: “Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa...Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được”[5].

Thứ hai,Hồ Chí Minh không nói nhiều về khái niệm chủ nghĩa xã hội, nhưng chủ nghĩa xã hội mà Người hiểu là mô hình xã hội duy nhất thực hiện được ham muốn của Người là dân tộc được độc lập,Nhân dân được hạnh phúc, đồng bào được tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh chính là “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”[6]. “Chủ nghĩa xã hội là làm sao choNhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ”[7]. “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa củaNhân dân và doNhân dân tự xây dựng lấy”[8].

Có thể nói, chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người ai cũng có việc làm, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành; các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Chủ nghĩa xã hội có quan hệ hòa bình, hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Rõ ràng, chủ nghĩa xã hội như vậy sẽ không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả của độc lập dân tộc mà còn làm choNhân dân được hạnh phúc, đồng bào được ấm no, tạo điều kiện phát triển mới cho dân tộc, cho mọi người dân. Do vậy, mà Hồ Chí Minh đã gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội và đây là một giá trị bền vững trong tư tưởng của Người.

2.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Sức mạnh dân tộc theo Hồ Chí Minh,đó là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do, ý thức tự lực, tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết. Sức mạnh của thời đại được Hồ Chí Minh đúc kết từ chính thực tiễn hoạt động cách mạng của Người. Trải qua nhiều nước trên thế giới, Người hiểu rằng, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”[9]. Hơn nữa, các nước đế quốc đã không đơn độc trong hành động áp bức, bóc lột ở các nước thuộc địa, chúng còn tuyển những người lính ở các nước thuộc địa sang đàn áp ở chính quốc. Chính vì thế,Nhân dân và các nước thuộc địa bị áp bức cần đoàn kết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.

Hồ Chí Minh cho rằng sức mạnh thời đại bao gồm sức mạnh của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc; phong trào cách mạng của công nhân vàNhân dân lao động các nước chính quốc và tư bản chủ nghĩa nói chung; phong trào xã hội chủ nghĩa; phong trào vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; phong trào cách mạng củaNhân dân Đông Dương...Biết tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của cách mạng. Đồng thời, Việt Nam luôn gắn kết cuộc đấu tranh của mình với phong trào giải phóng dân tộc, vớiNhân dân các nước mới giành độc lập hoặc đang đấu tranh vì nền độc lập, tự do.

Chính vì vậy, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng; là xây dựng được khối liên minh đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp vô sản vàNhân dân thuộc địa với giai cấp vô sản vàNhân dân lao động ở các nước chính quốc; là phát huy sức mạnh của các dòng thác cách mạng trên thế giới phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

2.2.4.Tư tưởng Hồ Chí Minhvề sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Hồ chí Minh có quan điểm đúng đắn về quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân là những người lao động,“Lực lượng dân chúng nhiều vô cùng...dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[10]. Quần chúng nhân dân có vai trò hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng. Chính quần chúng nhân dân là chủ thể của lịch sử, chủ thể của mọi sáng tạo, chủ thể của mọi phong trào cách mạng. Trong một quốc gia, quần chúng nhân dân là gốc của nước. Với Hồ Chí Minh“nước lấy dân làm gốc”[11], cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân và Người khẳng định:

“Gốc có vững cây mới bền

Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”[12].

Với Hồ Chí Minh, quần chúng nhân dân còn là người quyết định lịch sử. Người thường hay trích dẫn câu ca của người dân vùng Quảng Bình, Vĩnh Linh“Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”để nói lên vai trò to lớn của quần chúng nhân dân. Vai trò của Nhân dân còn được Người khẳng định rõ:“Ở đâu có dân là có núi, có sông, có biển. Dân có sức mạnh hơn cả sông núi. Nếu ta biết dựa vào dân thì sẽ thành công”[13].

Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống còn, quyết định thành công của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc, của nhân dân. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành công.

Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả các lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách đến hoạt động thực tiễn.

Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Vì, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, không phải là việc một hai người có thể làm được. Đại đoàn kết toàn dân có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.Nguyên tắc cơ bản để xây dựng khối đại đoàn kết là bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.

2.2.5.Tư tưởng Hồ Chí Minh vềquyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân

Theo Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa “dân là chủ”. Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà doNhân dân làm chủ”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức làNhân dân là người chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.Theo Người:

“Nước ta là nước dân chủ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”

... Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[14].Hồ Chí Minh coi dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Dân chủ không dừng lại với tư cách như là một thiết chế xã hội của một quốc gia, mà còn có ý nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế, hòa bình giữa các dân tộc. Đó là dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế. Vì vậy, Ngườiyêu cầu phải thực hiện được một nền dân chủ chân chính. Không cho phép ai lợi dụng và lạm quyền “dân chủ” để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và Nhân dân.

Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh là khẳng định cội nguồn quyền lực nhà nước ta là ởNhân dân. “Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ của Nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”[15]. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta và bản chất này được thể hiện ở chỗ:trước hết,nhà nước ấy do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.Hai là,nhà nước này bảo vệ, chăm lo lợi ích cho nhân dân lao động.Ba là,nhà nước này có nhiệm vụ điều hành,“phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”[16].Bốn là,nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước này là nguyên tắc tập trung dân chủ.

Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nhà nước thực hiện quyền lực củaNhân dân, dựa vào sức mạnh củaNhân dân, trước hết làNhân dân lao động.

Nhà nước của dân là: tất cả quyền bính đều thuộc vềNhân dân, những vấn đề quan hệ đến vận mệnh quốc gia doNhân dân phán quyết; tức làNhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu của mình “Chính quyền từ xã đến chính phủtrung ương do dân cử ra. Đoàn thể từtrung ương đến xã do dân tổ chức nên”.

Nhà nước do dânvì “lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết”. Nhà nước muốn điều hành quản lý xã hội có hiệu quả thì phải dựa vào dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “dân như nước mình như cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân…Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động”. Vì vậy,Đảng ta luôn chủ trương dựa vào dân, tạo điều kiện để nhân dân phát huy cao nhất quyền làm chủ, tham gia tích cực vào việc quản lýnhà nước.

Nhà nước vì dân nghĩa là mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát và vì lợi ích củaNhân dân; việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được; việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh.

2.2.6.Tưtưởng Hồ Chí Minhvề quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân

Hồ Chí Minh sớm nhận ra rằng, muốn giải phóng dân tộc thì phải có lực lượng quân sự và lực lượng này phải có tổ chức, phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng[17]. Xây dựng lực lượng vũ trang phải nắm vững quan điểm: sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; bạo lực vũ trang khởi nghĩa chủ yếu cũng là bạo lực của quần chúng; chiến tranh nhân dân; quốc phòng toàn dân; an ninh nhân dân. Lực lượng vũ trang cách mạng từNhân dân mà ra, vìNhân dân mà chiến đấu và phục vụ, đượcNhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, che chở. Người luôn căn dặn các cán bộ, chiến sỹ quân đội nhân dân “Mình đánh giặc là vì dân. Nhưng mình không phải là “cứu tinh” củaNhân dân. Tất cả quân nhân phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Phải làm thế nào để khi mình chưa đến, thì dân trông mong, khi mình đến thì dân giúp đỡ, khi mình đi nơi khác thì dân luyến tiếc. Muốn vậy, bộ đội phải giúp đỡ dân, thương yêu dân. Mỗi quân nhân phải là một cán bộ tuyên truyền bằng việc làm của quân đội... Dân như nước, quân như cá. Phải làm cho dân hết sức giúp đỡ mình thì mình mới đánh thắng giặc”[18].

Để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng cần kết hợp giáo dục quân sự với chính trị. Bởi lẽ, “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”[19]. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng phải toàn diện về các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và quân sự. Hồ Chí Minh có quan điểm rất đúng về quan hệ giữa con người và vũ khí, theo Người “con người là quyết định, vũ khí là quan trọng”, “người trước, súng sau”.

Đồng thời,Người đề ra tư tưởng tổ chức lực lượng vũ trang ba thứ quân-bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Đó là cách tổ chức độc đáo, hiệu quả trong tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh. Phương châm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Hồ Chí Minh là tự lực cánh sinh.

2.2.7.Tư tưởng Hồ Chí Minhvề xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân

Hồ Chí Minh luôn luôn đặt những vấn đề kinh tế trong mối quan hệ chặt chẽ với những vấn đề chính trị - xã hội: “Chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[20]. Do vậy, ngay sau khi giành chính quyền về tay nhân dân, Người đã kêu gọi nhân dân cả nước tích cực tăng gia sản xuất, quyết tâm diệt giặc dốt và chỉ rõ trách nhiệm “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi”.Với một nước nông nghiệp, Người đưa ra cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp; xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đảm bảo an ninh lương thực để công nghiệp hoá và là hậu phương vững chắc cho sự nghiệp cách mạng. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải được tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữucông cộng về tư liệu sản xuất.Hồ Chí Minh là người sớm đưa ra chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất. Người coi trọng vấn đề quản lý, hạch toán kinh tế, cho đó là chìa khoá phát triển kinh tế quốc dân. Người đề xuất chính sách mở cửa và hợp tác với các nước để thu hút ngoại lực và phát huy nội lực. Người cũng đã bước đầu đề cập đến vấn đề khoán trong sản xuất.

Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hoá với nghĩa rộng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,loài người mới sáng tạo và phát triển ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đótức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[21]. Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có nhiệm vụ chủ yếu là bồi dưỡng con người có tư tưởng đúng và tình cảm cao đẹp; nâng cao dân trí, nghĩa là đề cập tới chức năng giáo dục của văn hoá; bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người tới chân, thiện, mỹ đểkhông ngừng hoàn thiện bản thân. Hồ Chí Minh xác định rõ văn hoá là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp các mạng. Văn hoá là một mặt trận, nghệ sĩ là người chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng. Văn hoá phải phục vụ quần chúng nhân dân, đó là quan điểm xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.Hồ Chí Minh rất chú ý đến xây dựng đời sống văn hoá và nếp sống văn hoá.

Hồ Chí Minh yêu cầu“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”[22].Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nghĩa là phải nâng cao ý thức giác ngộ cáchmạng, độc lập dân tộc, kiên trì phấn đấu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc, ý thức tự lực tự cường, không có gì quý hơn độc lập tự do của nhân dân. Phải thực hiện công bằng xã hội. Phải phát triển dân trí, coi giáo dục là quốc sách.

2.2.8.Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng

Đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên theo Hồ Chí Minh có tầm quan trọng đặc biệt - là gốc, là nền tảng cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đượcNhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”[23].

Về bản chất, đạo đức cách mạng “không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,của loài người”[24]. Đạo đức cách mạng là đạo đức mới, trong đạo đức này có sự thống nhất lợi ích của Đảng với lợi ích của dân tộc và lợi ích của nhân loại tiến bộ. Đạo đức cách mạng không đối lập với đạo đức chân chính của dân tộc và đạo đức của nhân loại tiến bộ. Nó chỉ đối lập, xa lạ với đạo đức cũ, đạo đức thủ cựu của giai cấp bóc lột, thống trị.“Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”[25].

2.2.9. Tư tưởng Hồ Chí Minhvề chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau

Hồ Chí Minhluônđánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ - những người mang trong mình bầu nhiệt huyết, sức sống tràn trề, năng lực sáng tạo…đối với sự trường tồn của đất nước. Theo Người, “Một năm khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùaxuân của xã hội”, vận mệnh của quốc gia, dân tộc thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên.“Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do thanh niên”[26].Vì vậy, xuyên suốt, nhất quán trong tư tưởng và hành động, Hồ Chí Minh luôn kêu gọi, đánh thức, giác ngộ và cổ vũ họ tham gia cách mạng; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, sẵn sàng giao nhiệm vụ và tạo điều kiện để họ được học tập, lao động, cống hiến…

Để hoàn thành sứ mệnh đó, thế hệ trẻ luôn phải tự giác rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải tích cực làm việc để chuẩn bị cho tương lai. Đó là, phải ra sức học tập, trau dồi tri thức, đặc biệt là rèn luyện đạo đức cách mạng. Thế hệ trẻ phải xung phong trong công tác, đi trước, làm trước, phải có tinh thần sẵn sàng dấn thân “đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm.Việc giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội, nhằm giúp họ tránh những cái độc hại, tiêu cực và tiếp thu, học hỏi những cái hay, tiến bộ trong cuộc sống.Nói về những yêu cầu đạo đứccách mạngcủa thanh niên, của thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Thanh niên cần phải chống tâm lý tự tư, tự lợi, chỉ lolợi íchriêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt uỷ mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”[27].Những yêu cầu về phẩm chất đạo đức đó cũng là biểu hiện khác của cần,kiệm, liêm, chính, chí công vô tư - những phẩm chất đạo đức chân chính trong mỗicon người.

Hồ Chí Minh cho rằng cần phải tin tưởng ở thế hệ trẻ, phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong xây dựng và kiến thiết đất nước. Muốn phát huy được thế hệ trẻ phải thực sự hiểu thế hệ trẻ; phải quan tâm tới những nguyện vọng, những lợi ích chính đáng của thế hệ trẻ; xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh; nâng cao trách nhiệm của các tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội đối với việc bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ.

2.2.10.Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảngtrong sạch, vững mạnh

Đảng Cộng sản Việt Nam theo Hồ Chí Minh là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Nhưng Đảng không phải là “quan nhân dân”, mà là “công bộc”, “đầy tớ thật trung thành củaNhân dân”. Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần,kiệm,liêm,chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch. Phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành củaNhân dân”[28]. Theo Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, Đảng củaNhân dân lao động và của dân tộc.

Đảng chân chính cách mạng phải là Đảng tiên phong về lý luận, khoa học, lại còn phải tiêu biểu cho đạo đức cách mạng trong sáng, chí công vô tư, toàn tâm toàn ý vìNhân dân và dân tộc.

-Nội dung công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh:

Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức nhằmxây dựng đường lối chính trị, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ.

Xây dựng Đảng về đạo đứcđể mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng vàNhân dân giao phó, đặc biệt là giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Đảng hoạt động trên nguyên tắctập trung dân chủ;tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách;tự phê bình và phê bình;kỷ luật nghiêm minh, tự giác;đoànkết thống nhất trong Ðảng.

3. Giá trị, ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác -Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở vạch ra được các quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người giúp chúng ta lựa chọn đúng đắn con đường phát triển của dân tộc -độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa Mác-Lênin đã giải thích được quy luật phát triển của xã hội loài người một cách khoa học, khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chứng minh một cách khoa học rằng, từ trong lòng của chủ nghĩa tư bản sẽ ra đời phương thức sản xuất mới, một xã hội mới, một hình thái kinh tế - xã hội mới là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Quá trình này diễn ra một cách lịch sử - tự nhiên. Do vậy, sự ra đời cũng như diệt vong của chủ nghĩa tư bản là một tất yếu khách quan như nhau và đều do tất yếu kinh tế quy định. Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho Đảng ta, dân tộc ta: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” - là sự lựa chọn đúng đắn con đường phát triển của Việt Nam. Bởi lẽ, độc lập dân tộc là cơ sở, điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho độc lập dân tộc thực sự trọn vẹn, bền vững.

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với việc nhận thức chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật chỉ ra rằng, chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bởi chủ nghĩa xã hội. Chính chủ nghĩa tư bản tạo ra những điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội ra đời. Mặc dù hiện nay, chủ nghĩa tư bản đã đạt được những thành tựu nhất định về một số lĩnh vực: kinh tế, khoa học, công nghệ...Nhưng chính chủ nghĩa tư bản cũng là kẻ đã gây ra không ít tai họa cho con người như chiến tranh, nghèo đói, bất công xã hội, sự nô dịch áp bức...Những mục tiêu phục vụ con người, về hình thức và so với trước đây, có vẻ được quan tâm, nhưng thực chất ngày càng bị xa rời. Tiền lương thực tế của phần lớn công nhân Mỹ hầu như không tăng trong nhiều thập kỷ[29]. Chủ nghĩa tư bản về bản chất không thể giải quyết được vấn đề công bằng xã hội nhất là trong lĩnh vực phân phối nguồn của cải xã hội. Xu hướng giàu nghèo và phân tầng xã hội ngày càng diễn ra trầm trọng. Về bản chất, chủ nghĩa tư bản không tương thích với dân chủ[30]. Đúng như Đảng ta đã nhận định: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không được giải quyết mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra”[31]. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh chủ nghĩa tư bản đến giới hạn cuối cùng của nó. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng quá trình toàn cầu hóa kinh tế cũng là quá trình làm cho mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa mang tính toàn cầu. Quá trình này nhất định sẽ làm sâu sắc hơn mâu thuẫn cơ bản nội tại của chủ nghĩa tư bản,đẩy nhanh chủ nghĩa tư bản đến giới hạn cuối cùng của nó.

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với việc giải quyết quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù đi lên chủ nghĩa xã hội.Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho chúng ta phương pháp nhận thức khoa học, đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là mang tính phổ biến. Nhưng, mỗi dân tộc, quốc gia căn cứ vào tình hình thực tiễn của dân tộc, quốc gia mình mà lựa chọn hình thức quá độ trực tiếp hay gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Đó là tính đặc thù và quan trọng là, không được vận dụng giáo điều những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời phải chống việc tuyệt đối hóa những điều kiện cụ thể của dân tộc, quốc gia và hạ thấp những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác-Lênin, của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, khi ấy sẽ rơi vào dân tộc cực đoan, xét lại.

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho chúng ta phương pháp nhận thức điều kiện cụ thể để thực hiện công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta có cơ sở lý luận để thực hiện đổi mới kinh tế - xã hội là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt,xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên[32]. Chủ nghĩaMác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn cung cấp cho chúng ta cơ sở lý luận để tổng kết rút kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, trên cơ sở đó đưa ra được tám đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội; tám phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội và chín mối quan hệ lớn cần giải quyết[33]. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng cung cấp cho chúng ta phương pháp luận để giải quyết tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển kinh tế thị trường với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập quốc tế... Nói tóm lại, chính chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là thế giới quan, phương pháp luận cho chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới thành công.

Tất cả những điểm trên cho thấy, tại sao Đảng ta lại lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng thế giới quan, kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
PHẦN II. ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM
1. Đi lên chủ nghĩa xã hội - sự lựa chọn phù hợp với khát vọng của nhân dân, yêu cầu giải phóng dân tộc của Việt Nam và quy luật, xu thế khách quan của lịch sử

1.1. Đi lên chủ nghĩa xã hội đáp ứng khát vọng củaNhân dân và yêu cầu giải phóng dân tộc của Việt Nam


Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ khi ra đời cho tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta,Nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là đáp ứng khát vọng củaNhân dân và yêu cầu giải phóng dân tộc. Trong Cương lĩnh đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam [ngày03-02-1930] Đảng ta đã chủ trương: tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011], Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng củaNhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[1].

Thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam cho thấy, phong trào CầnVương - đại diện cho giai cấp phong kiến; phong trào ĐôngDu - đại diện cho nho sỹ, trí thức; phong trào của Đội Cấn - đại diện cho binh sỹ; phong trào của Hoàng Hoa Thám - đại diện cho nông dân Việt Nam; phong trào của Nguyễn Thái Học - đại diện cho tầng lớp doanh nhân, tư sản dân tộc đều thất bại. Chỉ đến Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam với chủ nghĩa Mác-Lênin mới lãnh đạoNhân dân giải phóng được dân tộc khỏi ách nô dịch, áp bức ngoại xâm đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó chứng tỏ chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được dân tộc.

1.2. Đi lên chủ nghĩa xã hội- sự lựa chọn phù hợp với quy luật và xu thế khách quan của lịch sử

Thời đại ngày nay đang có nhiều biến động sâu sắc, song vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh củaNhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”[2].Do vậy, sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử và phù hợp với xu thế khách quan của lịch sử.
Lịch sử đã cho chúng ta thấy, chế độ chiếm hữu nô lệ đã từng tồn tại đến giữa thế kỷ XIX ở châu Mỹ La tinh nhưng rồi cũng bị thay thế. Chế độ phong kiến cũng tồn tại hơn nghìn năm nhưng rồi cũng bị thay thế bởi chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã trải qua hơn 300 năm thì chưa phải là nhiều so với lịch sử của nhân loại. Hơn nữa, chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có những thay đổi so với chính chủ nghĩa tư bản nguyên thủy. Trong lòng của chủ nghĩa tư bản hiện đại đang có những điều kiện, tiền đề cho triển vọng của chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể. Đó là chủ nghĩa xã hội giáo điều, cứng nhắc, ít đổi mới.
Sự tồn tại chủ nghĩa xã hội cả với tư cách là một lý tưởng, cả với tư cách là một phong trào hiện thực, cả với tư cách là một chế độ chính trị ở Cu Ba, Lào, Trung Quốc, Việt Nam vẫn chứng tỏ lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội là phù hợp xu thế khách quan của lịch sử.

2. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc lựa chọn mô hình chủ nghĩa xã hội màNhân dân ta xây dựng trong giai đoạn hiện nay

2.1. Về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


Vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, tổng kết hơn 25 năm đổi mới, tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã đưa ra một quan niệm mới về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam: “Xã hội xã hội chủ nghĩa màNhân dân ta xây dựng là xã hội:dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; doNhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa củaNhân dân, doNhân dân, vìNhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác vớiNhân dân các nước trên thế giới”[3].

Tám đặc trưng trên đây đã phản ánh một cách toàn diện, bao quát những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội mà Đảng vàNhân dân ta xây dựng. Trong đó, đặc trưng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vừa là đặc trưng vừa là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.Đây là mô hình tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

2.2. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết25 năm đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lênchủ nghĩa xã hội[bổ sung, phát triển 2011] đã đưa ra08 phương hướng lớn xây dựngchủ nghĩa xã hội:

“Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.

Hai là,phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời
sốngNhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.

Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa củaNhân dân, doNhân dân, vìNhân dân.
Tám là,xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”[4].

Trong tám phương hướng trên thì hai phương hướng đầu là nhằm xây dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Phương hướng ba, bốn, năm là nhằm xây dựng cơ sở văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Phương hướng sáu là xây dựng và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Phương hướng bảy, tám là xây dựng Đảng và Nhà nước như là những chủ thể lãnh đạo, quản lý sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Các phương hướng này quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau và cùng nhau góp phần thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Những phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam này đã thể hiện việc vận dụng hết sức sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Ðảng ta vào điều kiện đổi mới.

2.3. Về các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Đồng thời với thực hiện08 phương hướng mà Cương lĩnh 2011 đề ra, Đại hội XI của Đảng yêu cầu giải quyết tốt08 quan hệ lớn:“quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ…”[5].

Tổng kết05 năm thực hiện nghị quyết Đại hội XI, Đại hội XII đề ra nhiệm vụ tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn. Đồng thời, Đại hội XII đã hoàn thiện quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa “thành quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa” và nêu ra thêm quan hệ thứ chín là quan hệ giữa “Nhà nước và thị trường”. Cụ thể là chín quan hệ sau: “Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”[6].

Những thành tựu mà chúng ta đạt được từ việc nhận thức và giải quyết chín mối quan hệ trên không phải biệt lập, mà luôn nằm trong mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Kết quả giải quyết của mối quan hệ này cũng chính là cơ sở, nền tảng, tiền đề cho việc giải quyết có hiệu quả các mối quan hệ khác. Ngược lại, giải quyết tốt các mối quan hệ khác sẽ góp phần giải quyết tốt quan hệ này. Tính tổng thể trong việc giải quyết các mối quan hệ đó đã tạo dựng toàn bộ diện mạo những vấn đề lớn cơ bản cần giải quyết trong suốt quá trình đổi mới vì chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, chín mối quan hệ lớn mà Đảng nêu ra được nhận thức và giải quyết trong mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ giữa những đặc trưng và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Một số hình ảnh

Video liên quan

Chủ Đề