Vì sao thành phố Hồ Chí Minh nước ta là nơi có sức hút dân cư

Mục lục

Tên gọi

Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor theo tiếng Khmer của người dân bản địa,[12] có nghĩa là "thành trong rừng". Vì sự sụp đổ của đế chế Khmer, vùng Nam Bộ trở thành đất vô chủ, về sau đã sáp nhập vào Đại Việt nhờ công cuộc khai phá miền Nam của chúa Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập huyện Tân Bình thuộc phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Phủ Gia Định khi đó bao gồm Sài Gòn và các tỉnh xung quanh hiện nay [Tây Ninh, Long An...], còn huyện Tân Bình là chỉ vùng đất Sài Gòn.[13]

Địa danh Sài Gòn có trên 300 năm và từng được dùng để chỉ một khu vực với diện tích khoảng 1km² [Chợ Lớn] có đông người Hoa sinh sống trong thế kỷ 18. Địa bàn đó gần tương ứng với khu Chợ Lớn ngày nay.[13] Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi chép "Rai Gon Thong" [Sài Gòn Thượng] và "Rai Gon Ha" [Sài Gòn Hạ]. Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674, Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ "Lũy Sài Gòn" [theo Hán Nho viết là "Sài Côn"].[12] Đây là lần đầu tiên chữ "Sài Gòn" xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán "Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo chữ Nôm là "Gòn", còn đọc theo chữ Hán thì là "Côn". Theo phiên âm Hán-Việt thì Sài Gòn còn được gọi là Tây Cống.[14] Sau đó, danh xưng Sài Gòn được dùng để chỉ các khu vực nằm trong "lũy Lão Cầm" [năm 1700], "lũy Hoa Phong" [năm 1731] và "lũy Bán Bích" [năm 1772], chỉ với diện tích 5km². Ngoài ra theo một số nhà nghiên cứu thì Thụ Nại cũng từng là tên gọi của vùng đất Sài Gòn xưa trước khi Nguyễn Hữu Cảnh đến khai phá.[13][15]

Khi Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam. Địa giới Sài Gòn lúc này bao gồm vùng đất Sài Gòn và Bến Nghé cũ. Sài Gòn cũng là thủ đô của Liên bang Đông Dương giai đoạn 1887–1901 [về sau, Pháp chuyển thủ đô Liên bang Đông Dương ra Hà Nội]. Năm 1931 Khu Sài Gòn - Chợ Lớn được thành lập, bao gồm Thành phố Sài Gòn và Thành phố Chợ Lớn. Năm 1941 Chợ Lớn được sáp nhập vào Sài Gòn. Năm 1949, Sài Gòn trở thành thủ đô của Quốc gia Việt Nam, một chế độ chống cộng liên minh với Pháp trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương, và sau này là thủ đô của Việt Nam Cộng hòa [chế độ kế tục Quốc gia Việt Nam]. Kể từ đó, Sài Gòn được xem là thủ đô và trở thành một trong những đô thị quan trọng nhất của miền Nam Việt Nam sau khi bị chia cắt vào năm 1954.

Sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản chính quyền và quyết định hợp nhất Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định thành Thành phố Sài Gòn – Gia Định. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Việt Nam tái thống nhất và Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên "Sài Gòn – Gia Định" thành "Hồ Chí Minh", theo tên Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hiện nay trong văn bản hành chính thì thành phố luôn được gọi đầy đủ là "Thành phố Hồ Chí Minh" [viết tắt là "Tp. HCM"] thay vì chỉ gọi "Hồ Chí Minh", để tránh nhầm lẫn với chủ tịch Hồ Chí Minh. Tương tự với tiếng Anh là "Ho Chi Minh City" [viết tắt là "HCMC"]. Tên "Sài Gòn" vẫn được người Việt Nam sử dụng thường xuyên vì sự ngắn gọn và lịch sử tồn tại lâu đời của cái tên này.

Lịch sử

Bài chi tiết: Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh

Thời kỳ hoang sơ

Con người xuất hiện ở Sài Gòn từ khá sớm. Các cuộc khai quật khảo cổ trên địa phận Sài Gòn và khu vực lân cận cho thấy, ở đây đã tồn tại nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho tới thời kim khí. Những cư dân cổ từ nhiều thiên niên kỷ về trước đã biết đến kỹ thuật canh tác nông nghiệp.

Văn hóa Sa Huỳnh từng tồn tại trên khu vực này với những nét rất riêng. Thời kỳ văn hóa Óc Eo, từ đầu Công Nguyên cho tới thế kỷ 7, khu vực miền Nam Đông Dương có nhiều tiểu quốc và Sài Gòn khi đó là miền đất có quan hệ với những vương quốc này.

Sau khi Đế quốc Khmer hình thành, lãnh thổ miền Nam Đông Dương thuộc quyền kiểm soát của đế chế này. Tuy nhiên, dân cư của Đế quốc Khmer sống ở vùng này rất thưa thớt, không có khu dân cư lớn nào hình thành tại đây. Cho đến trước thế kỷ 16, vị trí tiếp giáp với các quốc gia cổ cũng khiến Sài Gòn trở thành nơi gặp gỡ của nhiều cộng đồng dân cư như Khmer, Châu Ro, S’Tiêng. Sài Gòn – Gia Định vẫn là địa bàn của một vài nhóm dân cư cổ cho tới khi người Việt xuất hiện.[16]

Khai phá

Sơ đồ Thành Bát Quái, công trình được xây dựng năm 1790.

Những người Việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai phá vùng đất này hoàn toàn không có sự tổ chức của nhà Nguyễn. Nhờ cuộc hôn nhân giữa Công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II từ năm 1620, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống. Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư. Trước đó, người Khmer, người Chăm, người Man[17] cũng sinh sống rải rác ở đây từ xa xưa.[18]

Giai đoạn từ 1623 tới 1698 được xem như thời kỳ hình thành của Sài Gòn sau này.[19] Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu con rể là vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prey Nokor [Sài Gòn] và Kas Krobei [Bến Nghé]. Tuy đây là vùng rừng rậm hoang vắng, nhưng lại nằm trên đường giao thông của các thương nhân Việt Nam, Trung Quốc,... qua Campuchia và Xiêm. Hai sự kiện quan trọng tiếp theo của thời kỳ này là lập doanh trại và dinh thự của Phó vương Nặc Nộn và lập đồn dinh ở Tân Mỹ [gần ngã tư Cống Quỳnh – Nguyễn Trãi ngày nay]. Có thể nói Sài Gòn hình thành từ 3 cơ quan chính quyền này.[19]

Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một số nhóm người Hoa tị nạn triều Mãn Thanh tới Mỹ Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn[20]. Đến năm 1698, chúa Nguyễn sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam. Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tự phát tới khu vực này trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình. Vùng Đông Nam Bộ được sáp nhập vào cương vực Việt Nam.[21]

Thời điểm ban đầu này, khu vực Biên Hòa, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 khẩu. Công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới, mang lại hiệu quả hơn.

Cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, Mỹ Tho và Cù lao Phố là hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ. Tuy nhiên, cuối thế kỷ 18, sau các biến loạn và chiến tranh, thương nhân dần chuyển về vùng Chợ Lớn. Khu vực Sài Gòn dần trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất Nam Bộ.

Năm 1788, chúa Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn, lấy nơi đây làm cơ sở để chống lại Tây Sơn. Năm 1790, với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người Pháp là kỹ sư Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel [1768–1799], Chúa Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm trụ sở của chính quyền mới. "Gia Định thành" khi đó được đổi thành "Gia Định kinh".[22] Năm 1802, sau khi chiến thắng Tây Sơn, vua Gia Long lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền Nam. Miền Nam được chia thành 5 trấn, gọi là "Gia Định ngũ trấn". Các công trình kênh đào Rạch Giá – Hà Tiên, Vĩnh Tế... được thực hiện. Qua 300 năm, các trung tâm nông nghiệp phát triển bao quanh những đô thị sầm uất được hình thành.[23] Sáu năm sau, 1808, "Gia Định trấn" lại được đổi thành "Gia Định thành". Trong khoảng thời gian 1833 đến 1835, Lê Văn Khôi khởi binh chống lại nhà Nguyễn, Thành Bát Quái trở thành địa điểm căn cứ. Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy, năm 1835, vua Minh Mạng cho phá Thành Bát Quái, xây dựng Phụng Thành thay thế.[24]

Thời kỳ thuộc Pháp

Tranh vẽ của Pháp về cuộc bao vây thành Gia Định năm 1859 bởi các lực lượng Pháp-Tây Ban Nha.
Biểu tượng Sài Gòn thời kỳ Liên bang Đông Dương

Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định vào năm 1859, thực dân Pháp gấp rút quy hoạch lại Sài Gòn thành một đô thị lớn nhằm phục vụ mục đích khai thác thuộc địa và làm nơi cư trú cho quan chức Pháp. Đồ án thiết kế được Phó Đô đốc Pháp là Page [về sau là Charner] cử trung tá công binh Pháp là Paul Florent Lucien Coffyn[25] [1810 – 1871], nguyên Lãnh sự Pháp ở Hoa Kỳ, thiết kế. Theo bản đồ của Coffyn được công bố vào ngày 13/5/1862, quy hoạch ban đầu của Sài Gòn bao gồm cả tỉnh Chợ Lớn với khoảng 500.000 dân [Saigon ville de 500.000 âmes], tức khoảng 20.000 dân/km²[26]. Quy hoạch này tương ứng với quy hoạch khu vực phòng thủ của tướng Nguyễn Cửu Đàm năm 1772, khi dân số Sài Gòn chỉ khoảng 20.000–30.000 người.[26] Nhưng đến 1864, nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khó bảo đảm về an ninh, Soái phủ Pháp ở Nam Kỳ [Gouverneur Amiral de la Cochinchine] lúc đó là Chuẩn đô đốc Pierre Rose quyết định tách Chợ Lớn khỏi Sài Gòn. Ngày 3 tháng 10 năm 1865, Pierre Rose ra lệnh quy hoạch lại Sài Gòn chỉ còn là khu vực nằm giữa rạch Thị Nghè, sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé và đường mới khu cầu Ông Lãnh hiện nay. Toàn bộ quy hoạch chỉ còn rộng khoảng 3km².[26]

Bản đồ Sài Gòn năm 1896, rộng khoảng 7km².

Rất nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố, như Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được Pháp thiết kế và huy động nhân công xây dựng. Sau 2 năm người Pháp xây dựng và cải tạo, khu quy hoạch rộng khoảng 3km² nói trên đã hoàn toàn thay đổi.[27]

Thành phố Sài Gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu Âu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám đốc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục,... Nam Kỳ Lục tỉnh là thuộc địa của Pháp và Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định. Vào năm 1861, địa phận Sài Gòn được giới hạn bởi một bên là rạch Thị Nghè và rạch Bến Nghé với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa.

Đến năm 1867, việc quản lý Sài Gòn được giao cho Ủy ban thành phố gồm một ủy viên và 12 hội viên; đứng đầu là viên Thị trưởng người Pháp tên là Charles Marie Louis Turc [1867–1871]. Cho tới nửa đầu thập niên 1870, thành phố Sài Gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh Gia Định.[27] Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn.[24] Đứng đầu là viên Thị trưởng người Pháp, đầu tiên là G. Vinson [1874 –1876]. Đến năm 1879 thì Pháp cho lập thêm Hội đồng thành phố Sài Gòn [hay đúng ra là Ủy hội thành phố – Commission municipale].[28]

Sau Cách mạng Tháng Tám, ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tái chiếm thành phố. Tháng 8 năm 1946, phòng Nam Bộ Trung ương đã tổ chức họp, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp đã đề nghị đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh, và 57 người phòng Nam Bộ Trung ương [đứng đầu danh sách là Trần Hữu Nghiệp, Trần Công Tường, Nguyễn Tấn Gi Trọng,...] đã ra quyết nghị, gửi lên Quốc hội và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề xuất này, tuy nhiên, do nhiều việc cấp bách phải giải quyết nên chưa được quyết định chính thức.

Về danh hiệu Hòn ngọc viễn Đông thời Pháp thuộc

Xưởng thuốc phiện [Manufacture d'Opium] ở Sài Gòn thời thuộc Pháp. Khu xưởng này cung ứng từ ⅓ đến ½ ngân sách toàn Đông Dương.
Chợ Bến Thành, Sài Gòn thời thuộc địa với những cột Morris đặc trưng của Pháp.

Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Sài Gòn trở thành trung tâm quan trọng, cả về hành chính lẫn kinh tế, văn hóa, giáo dục của Liên bang Đông Dương, được thực dân Pháp mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông ["la perle de l'Extrême-Orient"][29] hoặc một Paris nhỏ ở Viễn Đông ["le petit Paris de l'Extrême-Orient"] trong số các thuộc địa của Pháp.[30] Trước đó, thực dân Anh đã chiếm Ấn Độ và gọi nước này là "hòn ngọc trên vương miện của Nữ hoàng Anh", vì vậy Pháp đặt ra danh xưng này cho Sài Gòn để tỏ ý muốn cạnh tranh việc xâm chiếm thuộc địa với đối thủ Anh.

Tuy được Pháp gọi là "Hòn ngọc Viễn Đông", nhưng thực ra thời ấy Sài Gòn rất nhỏ, chỉ cần đi xa 20km là có thể săn thú rừng. Theo quy hoạch của Pháp, Sài Gòn khi đó chỉ rộng khoảng 3km²; gần bằng một nửa Quận 1 hiện nay [rộng khoảng 8km²],[31] bao bọc bởi sông Sài Gòn – Nguyễn Thái Học – Nguyễn Thị Minh Khai – rạch Bến Nghé. Chính quyền thuộc địa Pháp tập trung tất cả những gì sang trọng, giàu có nhất mà họ có được ở diện tích 3km² này, phần còn lại của Sài Gòn thì vẫn còn rất hoang sơ, đầm lầy ngổn ngang.[31] Theo Sơn Nam trong "Bến Nghé xưa" thì khi Chợ Bến Thành hoàn thành năm 1914, "trước mặt còn là ao vũng sình lầy. Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp […], còn ruộng lúa với người cày, ao nuôi vịt, ngọn rạch cạn. Giữa Sài Gòn và ở phần đất cao còn nhiều chòm tre, cây da, mồ mả to xen vào những đám rẫy trồng rau cải và bông hoa, những xóm nhà ổ chuột; bầy bò dê đi lang thang ăn cỏ". Khu Hòa Hưng [Quận 10 hiện nay] cho đến ngã tư Bảy Hiền hiện nay có vô số nghĩa trang, mồ mả. Khu Nguyễn Thiện Thuật, Lý Thái Tổ, Nguyễn Đình Chiểu [Quận 3 hiện nay] toàn nhà lá nền đất xây dựng tạm bợ không theo quy hoạch nào. Khu Quận 4, Quận 7, khu Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho,… sát cạnh chợ Bến Thành đa số là nhà tranh vách lá tạm bợ.[31]

Khu vực cầu Ông Lãnh và con rạch nhỏ chảy ra rạch Bến Nghé [nay là đường Nguyễn Thái Học, Quận 1] thời kỳ đầu thế kỷ 20 còn rất hoang sơ.
Quận 4 và Quận 7 hiện nay [phía xa trong ảnh] và khu Thủ Thiêm [nay thuộc thành phố Thủ Đức] đến năm 1954 vẫn còn là đầm lầy.

Sau Thế Chiến thứ nhất, kiến trúc sư He’brerd được mời sang Đông Dương chỉnh lý lại các dự án quy hoạch Sài Gòn. Ông đề ra hướng phát triển công nghiệp và xuất khẩu cho Sài Gòn, điều chỉnh hệ thống kỹ thuật hạ tầng, củng cố thêm phố thị Khánh Hội và Nhà Bè. Nhưng kế hoạch bất thành do thiếu ngân sách, đụng chạm quyền lợi của giới độc quyền kinh doanh địa ốc, cũng như xung đột nội bộ. Nó chứng minh rằng các mô hình lý thuyết về quy hoạch xây dựng thường vấp phải trở ngại từ giới cầm quyền thực dân, giới tư bản chỉ nhìn thấy quyền lợi trước mắt.

Như vậy, từ lúc đánh chiếm Gia Định năm 1859 cho đến khi rời Sài Gòn [năm 1954], người Pháp chỉ tập trung "trauchuốt" khu vực rộng 3km²,nơi mà kiều dân Pháp sinh sống [Quận một hiện nay]. Dù nhiều lần điều chỉnh địa giới mở rộng, nhưng những khu mở rộng này không được Pháp đầu tư nên khá là tạm bợ. Đến năm 1954, những phần Sài Gòn mở rộng này [rộng khoảng 50km²] vẫn hoang sơ, thậm chí đầm lầy ngổn ngang.[31]

Phê phán quy hoạch thành phố Sài Gòn thời kỳ Pháp thuộc, nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng: người Pháp nặng về việc phô trương quyền lực thực dân với một số trục đường hoành tráng, cửa nhà khang trang, nhưng lại chưa xây dựng được cơ sở hạ tầng đô thị, và nhất là đẩy người bản xứ vào các khu ở chật chội, lầy lội, thiếu vệ sinh. Nhà nghiên cứu Mỹ Gwendolyn Wright khi nghiên cứu về các đô thị thuộc địa Pháp cho rằng kiểu làm đó là lối "quy hoạch giả tạo" không giải quyết được các vấn đề cơ bản của đô thị và mang tính phân biệt đối xử giữa người Pháp và dân thuộc địa.[32] Theo cụ Vương Hồng Sển ghi chép thì danh xưng "Hòn ngọc Viễn Đông" do quan chức thực dân Pháp đặt ra để chỉ nơi ăn chơi của họ, người Việt chẳng được thụ hưởng gì mà còn phải chịu sự bóc lột để người Pháp duy trì sự xa xỉ đó, và rằng "Nó hoàn toàn không phải là "hòn ngọc" với thợ thuyền người Việt ở xưởng đóng tàu Ba Son, cu li bốc vác ở cảng Sài Gòn, phu xe kéo và đông đảo người dân bản xứ mang trên mình bản án kiếp nô lệ, kẻ mất nước. Để phục vụ cho hòn ngọc ấy, cả một xã hội Sài Gòn trở thành thuộc địa, phải cung phụng cho Pháp mà nhiều địa danh còn được giữ đến tận bây giờ: Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Dầu, Xóm Bàu Sen [gần đồn Cây Mai], Xóm Giá [làm giá đậu xanh gần cầu Cây Gõ], xóm Lò Bún [gần giếng Hộ Tùng], Xóm Ụ Ghe, Xóm Rẫy Cái, Xóm Cây Cui..."[33]

Nhà sử học Henry Kamn nhận xét về sự tương phản giữa đời sống của giới thượng lưu Pháp với người dân Sài Gòn địa phương[34]:

Sài Gòn không phải chỉ có sự lãng mạn như cái tên "Hòn ngọc Viễn Đông" mà người Pháp đặt cho nó; đại đa số người Việt Nam và người Hoa sống tại đây phải lao động cực nhọc vượt xa đồng lương rẻ mạt họ được nhận để tạo nên sự lãng mạn của thành phố. Sự phô trương chỉ tập trung vào đời sống của giới thượng lưu: Thực dân Pháp, người ngoại quốc, giới quý tộc Việt Nam. Không có số liệu cụ thể, nhưng không có nhiều hơn 250 ngàn cư dân sống tại đây vào thập niên 1930

So với các thuộc địa của Nhật Bản hoặc một số nước thực dân khác [Anh, Mỹ, Hà Lan,...], các thuộc địa của Thực dân Pháp ở Đông Dương chỉ có một trạng thái mong manh yếu ớt. Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam kiếm lợi nhuận chủ yếu thông qua việc bóc lột tài nguyên thuộc địa, nên Pháp không cần thành lập một bộ máy hành chính hiệu quả nhằm tăng năng suất, cũng không cần thực hiện công nghiệp hóa ở quy mô lớn. Quy mô nền công nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam quá nhỏ, kinh tế Việt Nam khi đó vẫn chủ yếu là nông nghiệp[35]. Điều này dẫn tới quy mô các đô thị do Pháp xây dựng ở thuộc địa Đông Dương [tiêu biểu là Sài Gòn] cũng khá nhỏ bé, ngay cả khi so sánh với các thành phố thuộc địa của Anh, Mỹ và Hà Lan.

Xét về quy mô dân số, các phương pháp thống kê khác nhau từ những nguồn khác nhau cho ra những số liệu khác nhau. Năm 1940, theo điều tra dân số, khu vực đô thị Sài Gòn và tỉnh Chợ Lớn có tổng cộng 256.000 dân[36]. So với các thành phố lớn trong khu vực thì khá nhỏ, như Singapore năm 1940 có 755.000 dân[37], Hồng Kông năm 1941 có 1,6 triệu dân[38], Manila hay Jakarta cũng có khoảng gần một triệu dân[39].

Đô thành Sài Gòn

Bến thuyền Chợ Lớn, Sài Gòn năm 1956.

Từ năm 1946, Sài Gòn đã là thủ đô của Cộng hòa tự trị Nam Kỳ rồi năm 1949 là thủ đô của Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1955, Việt Nam Cộng hòa được thành lập, Sài Gòn khi đó là thành phố lớn nhất tại miền Nam Việt Nam đã được chọn làm thủ đô với tên gọi chính thức "Đô thành Sài Gòn"[40] [lưu ý, cách viết thông dụng thời đó là "Saigon" hoặc "Sài-gòn"]. Sau năm 1955, tên đường phố Sài Gòn vốn trước kia toàn là tên Pháp nay đồng loạt đổi tên tiếng Việt [trừ một số ngoại lệ]. Việc này do Phòng Họa đồ thuộc Ty Kỹ thuật do Ngô Văn Phát điều hành; ông sắp xếp và chọn lựa tên các danh nhân dựa trên tầm vóc lịch sử và quy tụ gần nhau những nhân vật cùng thời kỳ có liên quan với nhau, như đường Cô Giang và Cô Bắc thì phải gần đường Nguyễn Thái Học; đường Lê Lai thì nhỏ, gần Đại lộ Lê Lợi lớn hơn. Những ý tưởng như Công lý, Tự do, Cộng hòa cũng được dùng đặt tên, tạo cho thành phố những đặc trưng mới.[41]

Khi Chiến tranh Đông Dương lan rộng thì di dân từ nông thôn lên thành thị tăng nhanh. Vào thời điểm 1948, vùng Sài Gòn dân số đã lên đến 1,179 triệu người[42], đến năm 1949 thì dân số khu vực đã tăng lên 1.200.000, và sang năm 1954 với hàng trăm nghìn người di cư mới [phần đông là người Công giáo, còn gọi là dân Bắc Kỳ Công giáo] từ phía bắc vĩ tuyến 17 thì dân số Sài Gòn leo cao, đạt 2.000.000.[43] Dân di cư tập trung tại các khu vực như Xóm Mới – Gò Vấp, Bình An – Quận 8, và rải rác tại các quận khác. Với Nghị định số 110-NV ngày 27 tháng 3 năm 1959 của Tổng thống Ngô Đình Diệm, từ 6 quận, Sài Gòn được chia lại thành 8 quận với tổng cộng 41 phường.

Vào nửa cuối thập niên 1950, nhờ viện trợ đáng kể của Chính phủ Hoa Kỳ, Sài Gòn trở thành một trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa, giải trí tại miền Nam Việt Nam, là thành phố lớn nhất của kinh tế Việt Nam Cộng hòa[44][45] Từ giữa thập niên 1960 đến những năm đầu thập niên 1970, việc Quân đội Hoa Kỳ vào tham chiến tại miền Nam Việt Nam cũng gây nên những xáo trộn đối với thành phố. Nhiều cao ốc, công trình quân sự mọc lên.[46] Lối sống của giới trẻ Sài Gòn cũng chịu ảnh hưởng bởi văn hóa phương Tây được du nhập từ binh lính và sách báo Mỹ.

Trung tâm thành phố có một số công trình, khu phố được xây dựng to đẹp và sang trọng, tuy nhiên, các công trình này chủ yếu do Pháp xây dựng từ thập niên 1940, các khu nhà mới rất ít được xây dựng kể từ sau năm 1950, trong khi đó dân cư nông thôn đổ về thành thị tìm việc và tránh chiến sự khiến một số khu vực ở Sài Gòn dần trở thành những khu ổ chuột khổng lồ[47]. Khảo sát cho thấy khoảng 40% dân số khu vực Sài Gòn khi đó [tức khoảng 1,2 triệu người] phải sống tại khu ổ chuột với những điều kiện về y tế, vệ sinh rất kém[48]

Tòa đô chánh Sài Gòn năm 1968.
Ngập lụt ở Sài Gòn, cuối thập niên 1950.
Khu ổ chuột cạnh một con kênh ô nhiễm ở Sài Gòn năm 1956. Những khu ổ chuột như thế này lan rộng khắp Sài Gòn trong thập niên 1960 do người tị nạn [hầu hết là tỵ nạn cộng sản] trong cuộc Chiến tranh Việt Nam đổ về thành phố.

Trên tạp chí Xây dựng tháng 9/1967, tác giả Phạm Hoàng Thanh viết: "Mỗi ngày dân chúng ở quê lũ lượt kéo lên thành phố khiến dân số nơi đây gia tăng một cách kinh khủng, có nơi mật độ lên tới 28.000 người một cây số vuông. Người ta chen lấn giành giựt nhau từng tấc đất để xây cất. Hiện giờ ở Sài Gòn, sau những cao ốc đẹp đẽ, có ai ngờ là hàng ngàn hàng vạn ngôi nhà ván lợp tôn chèn ép nhau, tối tăm bẩn thỉu, bên cạnh những ao tù nước đọng, những đống rác thối tha ghê tởm". Để giải quyết nạn khan hiếm nhà hết sức trầm trọng ở Sài Gòn lúc đó, theo tính toán, thành phố cần xây mới 50.000 căn hộ và giải tỏa 110.000 nhà ổ chuột. Thế nhưng, trong suốt 10 năm, chỉ có 15.700 căn hộ được xây dựng[49].

Trong thời kỳ chiến tranh leo thang, viện trợ kinh tế dồi dào từ Mỹ đã tạo ra một khuynh hướng tiêu thụ xa xỉ "quá trớn" trong dân chúng [nhất là việc người giàu đua nhau mua xe máy, ô tô]. Trong giai đoạn 1964–1969, số xe du lịch nhập khẩu đã bằng 80% số xe nhập khẩu trong suốt 10 năm trước, năm 1966, số xe gắn máy được nhập khẩu cao gấp 5 lần so với năm 1963. Nhiều người ngoại quốc tới Sài Gòn lúc đó đã đặt cho thành phố cái tên là "thành phố Honda", do có nhiều xe máy hiệu Honda được nhập khẩu. Nhìn bề ngoài thì nền kinh tế Sài Gòn đang "phát triển phồn vinh", nhưng thực ra đó chỉ là bề ngoài mang tính tạm thời và bất ổn, bởi đó là do yếu tố bên ngoài đem lại [viện trợ của Mỹ] chứ không phải nhờ khả năng sản xuất nội tại của nền kinh tế. Quan chức kinh tế chính phủ Sài Gòn cũng cảm thấy lo ngại về tình trạng này, khi nguồn ngoại tệ bị phung phí vào những mặt hàng xa xỉ chứ không được dùng để mua phương tiện sản xuất[50].

Tuy số lượng xe máy, xe ô tô tăng nhanh nhờ viện trợ của Mỹ từ năm 1963, nhưng nhìn chung vẫn còn khá ít xét theo tỷ lệ dân số. Đầu thập niên 1970, toàn thành phố Sài Gòn có khoảng 250.000 xe gắn máy, 800 xe buýt và khoảng 20.000 xe ô tô [trên tổng dân số 2,5 triệu], trung bình cứ 10 người dân thì mới có một xe máy. Phần lớn người dân không có phương tiện di chuyển nào khác hơn là đi bộ hoặc đi xe đạp, người nghèo từ các khu ổ chuột ngoại ô thường phải đi bộ 2 giờ để tới làm việc ở trung tâm thành phố. Khi Mỹ dần rút quân thì các phương tiện giao thông cũng xuống dốc do thiếu tiền. Đến cuối năm 1969, do Mỹ ngừng thuê lao động người Việt và giảm viện trợ, nên kinh tế Việt Nam Cộng hòa bị suy thoái, lạm phát trở nên nghiêm trọng, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải ban lệnh cấm nhập khẩu xe hơi từ nước ngoài. Cuộc Khủng hoảng dầu mỏ 1973 tiếp tục giáng một đòn mạnh vào hệ thống giao thông Sài Gòn. Do giá dầu nhập khẩu tăng cao trong khi Mỹ giảm viện trợ kinh tế, xăng dầu trở nên khan hiếm, nhiều loại xe cộ phải xếp xó do chủ nhân không có đủ tiền mua xăng. Ngay cả ở Sài Gòn, số lượng người dân đi làm bằng xe đạp cũng tăng nhanh chóng từ năm 1973[51].

Viện trợ của Mỹ có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế Sài Gòn thời kỳ này. Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ [USAID] giống như một "Phủ Toàn quyền Đông Dương" có quyền lực cao hơn cả Chính phủ Sài Gòn. Nếu sức sản xuất của Sài Gòn kém, viện trợ từ Mỹ sẽ cung cấp một lượng hàng hóa nhập khẩu để tiêu thụ, nếu ngân sách bị thâm hụt thì viện trợ của Mỹ sẽ giúp bù đắp từ Quỹ đối giá. Kết quả là nền kinh tế Sài Gòn bị hàng nhập khẩu chi phối quá mức, cả những nhu yếu phẩm hàng ngày như gạo, thịt, cá cũng phải nhập khẩu. Sự sống của nền kinh tế Sài Gòn phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu, mà nhập khẩu lại phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ. Do vậy, khi nguồn viện trợ Mỹ bị cắt giảm đột ngột thì nền kinh tế của Sài Gòn cũng bị cắt nguồn sống, sức tiêu thụ cũng hết và ngân sách cũng cạn kiệt. Giáo sư Nguyễn Cao Hách – Phó Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Xã hội của Chính phủ Sài Gòn nhận định rằng "nếu Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ, chính phủ chỉ có thể sống được 4 tháng thôi".[52]

Nói chung, từ năm 1963, nguồn viện trợ lớn từ Hoa Kỳ đã không giải quyết vấn đề cơ bản và cốt lõi nhất của nền kinh tế là "sự tự chủ". Trái lại, nó đã trở thành một loại ma túy nguy hại cho bản thân Sài Gòn. Nó tạo ra sự ỷ lại của người dân và quan chức, nền kinh tế phụ thuộc nặng vào viện trợ và thiếu động lực để tự lực cánh sinh. Về bản chất, viện trợ mà Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng hòa là mấu chốt để duy trì một lãnh thổ phụ thuộc vào Mỹ thay vì xây dựng một đất nước có thể tự lực[53]

Tới năm 1973 thì hậu quả của việc phụ thuộc quá mức vào viện trợ đã xảy đến: nền kinh tế miền Nam [trong đó có Sài Gòn] lâm vào khủng hoảng do Mỹ giảm viện trợ kinh tế. Nạn lạm phát trở nên nghiêm trọng: Năm 1970, tỷ lệ lạm phát [tính toán dựa trên chỉ số giá tiêu dùng tại Sài Gòn áp dụng cho tầng lớp lao động] đã là 36,8%. Năm 1973, tỷ lệ lạm phát tăng lên 44,5%, và năm 1974 đã vượt quá 200%. Hệ lụy và hậu quả trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế gây ảnh hưởng xấu tới Sài Gòn. Với việc Mỹ giảm viện trợ trong khi nền sản xuất nội tại thì yếu kém, nền kinh tế tiêu dùng dựa vào viện trợ của Việt Nam Cộng hòa đã không thể phát triển ổn định, bền vững[54]

Việc rút đi của hơn nửa triệu quân Mỹ đã để lại một khoảng trống khổng lồ trong nền kinh tế: hàng tỷ đôla hàng năm trước đây được lính viễn chinh Mỹ tung vào xã hội qua các dịch vụ mua sắm ở thành phố, nay không còn nữa. Một khối lượng lớn người lao động làm việc trong các "sở Mỹ" [các văn phòng, trụ sở quân sự của Mỹ] cũng không còn việc làm[55]. Số lượng công nhân làm ở các cơ sở của Mỹ năm 1971 là 100.000 người, đến tháng 12 năm 1972 chỉ còn lại 10.000 người, tạo ra thất nghiệp hàng loạt[56]". Theo phúc trình của VECCO xuất bản tháng 1/1975 thì: Sài Gòn năm 1974 có 3 triệu dân thì có đến 600.000 người thất nghiệp. Chênh lệch giàu nghèo rất lớn khi thu nhập của thiểu số "tầng lớp trên" chiếm 43,5% GDP, tầng lớp dưới chỉ đạt 1,8%.

Nhà văn đoạt giải Nobel Gabriel Garcia Marquez đã đến thăm Việt Nam mô tả: "Dưới thời Mỹ chiếm đóng, thành phố không còn giữ được bản sắc văn hóa của mình, trở thành một thiên đường nhân tạo được bao bọc bởi quân đội và sự trợ giúp của Mỹ, của hàng tấn đồ tiếp tế. Người dân Sài Gòn cuối cùng lại tin rằng đây là cuộc sống thực của họ. Vì thế, chiến tranh kết thúc khiến họ trở nên lạc lõng và xa rời thực tế, để rồi 4 năm sau khi người Mỹ cuối cùng rút đi, họ không thể gượng dậy được."[57]

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, nhiều thường dân ở thành phố hoặc binh lính, sĩ quan, viên chức Việt Nam Cộng hòa và những người cộng tác với Mỹ đã ra nước ngoài định cư.[58] Cũng trong thời gian này, ước tính 700.000 người khác được vận động đi kinh tế mới; nền văn hóa có ảnh hưởng phương Tây bị lu mờ rồi tàn lụi.[59]

20 năm chiến tranh đã để lại cho Sài Gòn nhiều di sản nặng nề về xã hội. Theo một ước tính, thời điểm năm 1975, dân số Sài Gòn có khoảng 4 triệu người thì trong số đó đã có tới 150.000 người nghiện heroin. Thời điểm năm 1972, 500.000 người là gái mại dâm và gái quán bar, và khoảng 800.000 trẻ mồ côi lang thang trên các đường phố.[60]

Thành phố Hồ Chí Minh

Từ 30 tháng 4 năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng hòa bị xóa bỏ và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam quản lý miền Nam. Đô thành Sài Gòn, tỉnh Gia Định và 2 quận Củ Chi và Phú Hòa kế cận dưới thời Việt Nam Cộng hòa được hợp nhất thành một đơn vị hành chính gọi là thành phố Sài Gòn – Gia Định. Đầu năm 1976, Đảng bộ và Ủy ban Nhân dân thành phố bắt đầu hoạt động. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh, theo tên của nhà lãnh đạo cộng sản và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu tiên, Hồ Chí Minh.[61]

Sau năm 1975, vấn đề người Hoa tại Sài Gòn trở nên trầm trọng. Người Hoa treo quốc kỳ Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông trong vùng Chợ Lớn, đồng thời từ chối đăng ký quốc tịch Việt Nam.[62] Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng ở miền Nam từ năm 1963 đến năm 1975, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, người Hoa kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện...và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường.[63]

Cuối năm 1976, chính quyền mới đóng cửa tất cả trường học và tòa báo của người Hoa. Năm 1978, các tư doanh bị quốc hữu hóa. Trong bối cảnh quan hệ Hà Nội – Bắc Kinh chuyển biến xấu, tâm lý bài Hoa lan rộng khắp miền Bắc Việt Nam. Chính quyền Hà Nội thúc ép nhiều gia đình gốc Hoa hồi hương về Quảng Tây.[64].

Vấn đề Hoa kiều được Chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản. Các chiến dịch Cải tạo tư sản miền Nam nhằm xóa bỏ giai cấp tư sản và thực hiện công hữu hóa theo nguyên lý của chủ nghĩa xã hội được tiến hành. Nhà nước đã quốc hữu hóa các cơ sở sản xuất, xí nghiệp công quản của tầng lớp tư sản lớn bỏ lại, chủ yếu là của người Hoa. Các doanh nghiệp vừa như nhà in, xưởng thủ công, cửa hàng, cửa hiệu quy mô nhỏ buộc phải kê khai tài sản, vốn liếng trưng thu, trưng mua, tịch thu chuyển thành hợp tác xã. Nhiều chủ doanh nghiệp bị buộc tịch biên không được làm kinh doanh phải chuyển qua sản xuất nông nghiệp hoặc đi kinh tế mới. Năm 1978, Nhà nước hoàn thành căn bản cải tạo tư sản công nghiệp loại vừa và nhỏ ở miền Nam, xóa bỏ việc người Hoa kiểm soát nhiều ngành công nghiệp. Đến tháng 5 năm 1979, tất cả các xí nghiệp công quản lúc đầu ở miền Nam đều đã được chuyển thành xí nghiệp quốc doanh. Khó khăn về kinh tế, sự lo sợ về chiến tranh biên giới Tây Nam khiến cho nhiều người người Hoa rời thành phố. Số lượng người Hoa tại thành phố đã giảm đi hơn một nửa trong giai đoạn này.

Dinh Độc Lập, công trình lịch sử tiêu biểu của Thành phố Hồ Chí Minh.

Chính sách quản lý kinh tế quan liêu và cơ chế bao cấp của Nhà nước lên nền kinh tế [cải cách giá-lương-tiền] khiến cho kinh tế lâm vào trì trệ, lạm phát phi mã mà đỉnh điểm của nó là vào năm 1985. Khi công cuộc Đổi mới toàn diện 1986 bắt đầu, Thành phố Hồ Chí Minh đứng ở vị trí tiên phong và đi đầu trong thu hút vốn, công nghệ và đầu tư nước ngoài. Sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987, trong vòng 3 năm 1988 đến 1990, Thành phố đã cấp 88 giấy phép với tổng số vốn đầu tư là 976 triệu USD.[65] Cơ cấu ngành công nghiệp bắt đầu chuyển dịch từ sản xuất công nghiệp nặng sang các ngành công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng định hướng xuất khẩu. Với sự phát triển mạnh mẽ về hạ tầng và cởi trói về cơ chế thương mại, mậu dịch, Thành phố ngày càng khẳng định là đi đầu kinh tế của Việt Nam và đạt nhiều chỉ số và thành tựu phát triển kinh tế khá ấn tượng. Đến cuối năm 2018, GDP bình quân đầu người của Thành phố ước đạt hơn 6000 USD/người, cao gấp gần 2.5 lần so với mức trung bình cả nước. Nếu như năm 2000, Thành phố đóng góp khoảng 19% GDP cả nước thì đến năm 2014, thành phố đã chiếm 30% GDP của cả nước. Tuy nhiên tỷ lệ ngân sách được giữ lại của Thành phố Hồ Chí Minh là thấp, năm 2000 tỷ lệ ngân sách được giữ lại là 33% nhưng giảm xuống còn 18% trong giai đoạn 2017-2020. Đây là một trong những lý do khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố so với bình quân cả nước đang giảm. Trong giai đoạn 2001-2010 tốc độ này bằng 1,6 lần cả nước, thì đến giai đoạn 2011-2019 chỉ bằng 1,2 lần.[66] Về cán cân thu - chi, năm 2017 TP HCM bội chi 2.900 tỷ đồng; năm 2018 bội chi hơn 4.880 tỷ đồng; 2019 bội chi gần 3.560 tỷ đồng. Vì thế, Trung ương luôn phải cấp thêm từ nguồn ngân sách để bù đắp cho các khoản chi của thành phố[67]

Đến cuối những năm 2000, thành phố bước vào công cuộc đổi mới cơ bản về hạ tầng giao thông vận tải, tiến hành xây dựng và khai trương nhiều công trình trọng điểm như Đại lộ Nguyễn Văn Linh, Đại lộ Đông Tây, cầu Phú Mỹ. Nhiều cảng biển quốc tế được khánh thành và nhiều đường cao tốc được xây dựng nối Thành phố với các tỉnh thành lân cận tạo thuận lợi cho thông thương hàng hóa và phát triển giao thương ngày càng lớn cho thành phố.

Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có diện tích rộng 2.095 km², lớn hơn gấp 30 lần so với đô thị Sài Gòn trước năm 1975 [67,5 km²]. Trong đó, tính riêng diện tích khu đô thị là 820 km² [năm 2010][68], lớn gấp 33 lần so với trước năm 1975 [rộng 25 km²]. Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm toàn bộ đô thành Sài Gòn cũ, cộng thêm toàn bộ tỉnh Gia Định, quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương và quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa cũ.

Theo đà phát triển của kinh tế, lượng người nhập cư đổ vào thành phố cũng ngày càng tăng. Về dân số, tháng 4 năm 2014, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có 7,95 triệu dân[68] [trong đó khoảng 6,7 triệu dân sống ở khu đô thị], như vậy là đã tăng 3,2 lần so với mức 2,5 triệu dân của đô thị Sài Gòn ở thời điểm tháng 4 năm 1975. Năm 2017, nếu tính cả người cư trú không đăng ký thì dân số toàn thành phố đã đạt đến 13 triệu người, tăng gấp 5,2 lần so với thời điểm tháng 4 năm 1975. Thống kê giữa năm 2017 cho thấy thành phố có tới gần 7,6 triệu xe máy [chiếm 1/3 lượng xe máy cả nước] và khoảng 700.000 xe ôtô[69]. Như vậy, số xe máy lưu thông trong thành phố đã tăng gấp 30 lần, số xe ô tô đã tăng gấp 35 lần so với giai đoạn trước năm 1975.

Với tổng diện tích 2.096 km² và hơn 8 triệu dân [số liệu 2014[68]], Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn thứ 2 Việt Nam về diện tích [sau Hà Nội] và lớn nhất về dân số. 11 quận nội thành của Sài Gòn trước đây được chia lại thành 8 quận. 4 quận Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân Bình được thành lập. Khu vực ngoại thành gồm 5 huyện: Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè. Năm 1978, thành phố nhận thêm huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai. Năm 1979, các đơn vị hành chính cơ sở được phân chia lại, toàn thành phố có 261 phường, 86 xã. Sau đợt điều chỉnh tiếp theo vào năm 1989, thành phố còn 182 phường và 100 xã, thị trấn. Đến năm 1997, phân chia hành chính của thành phố lại thay đổi, gồm 17 quận, 5 huyện với 303 phường xã, thị trấn. Năm 2004, Thành phố Hồ Chí Minh gồm 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành với 322 phường, xã và thị trấn.[70]. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh gồm 16 quận, 1 thành phố và 5 huyện với 312 phường, xã, thị trấn.[71]

Ngày 24 tháng 11 năm 2017, Quốc hội Việt Nam ra Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó tăng thêm quyền hạn cho chính quyền thành phố trong việc quản lý đất đai, quản lý đầu tư, quản lý tài chính – ngân sách nhà nước. Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có nhiều quyền hạn hơn trong việc quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phê duyệt đầu tư công; có thêm những nguồn thu mới, có thể được giữ lại ngân sách nhiều hơn và được hưởng một phần số thu từ cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quản lý hoặc đại diện sở hữu, được chủ động vay vốn bằng các hình thức khác nhau. Ngoài ra, chính quyền thành phố các cấp còn được chủ động phân quyền cho chính quyền cấp dưới; quyết định mức thu nhập bình quân tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia thuộc thành phố quản lý.[72]

Căn cứ vào hình 33.1 và kiến thức đã học, cho biết vì sao Đông Nam Bộ có sức hút mạnh đầu tư nước ngoài?

Đề bài

Căn cứ vào hình 33.1 và kiến thức đã học, cho biết vì sao Đông Nam Bộ có sức hút mạnh đầu tư nước ngoài?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Phân tích và vận dụng.

Lời giải chi tiết

Đông Nam Bộ thu hút mạnh đầu tư nước ngoài do:

- Vị trí địa lí thuận lợi giao lưu với các vùng trong nước, với nước ngoài bằng nhiều loại hình giao thông.

- Điều kiện tự nhiên thuận lợi:

+ Địa hình thoải, đất xám, đất badan. Khí hậu cận xích đạo nóng ẩm, nguồn sinh thủy tốt. -> Mặt bằng xây dựng tốt. Phát triển các cây công nghiệp.

+ Biển ấm, ngư trường rộng, hải sản phong phú. Giàu tiềm năng dầu khí. -> Khai thác dầu khí trên thềm lục địa, đánh bắt hải sản. Giao thông và du lịch biển phát triển.

- Điều kiện kinh tế - xã hội:

+ Số dân đông, năng động, tập trung nhiều lao động có tay nghề, có chuyên môn kĩ thuật.

+ Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phát triển tương đối đồng bộ.

+ Thị trường tiêu thụ rộng lớn.

+ Có chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài.

- Đông Nam Bộ có cơ cấu kinh tế tiến bộ nhất so với các vùng trong cả nước. Tỉ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp - xây dựng chiếm tới 93,8% [2007].

Loigiaihay.com

  • Hoạt động xuất khẩu của TP. Hồ Chí Minh có những thuận lợi gì?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 122 SGK Địa lí 9

  • Dựa vào bảng 33.2, hãy nhận xét vai trò của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đối với cả nước.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 123 SGK Địa lí 9

  • Bài 1 trang 123 SGK Địa lí 9

    Đông Nam Bộ có những điều kiện thuận lợi gì để phát triển các ngành dịch vụ?

  • Bài 2 trang 123 SGK Địa lí 9

    Tại sao tuyến du lịch từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Đà Lạt, Nha Trang, Vũng Tàu hoạt động nhộn nhịp quanh năm?

  • Giải bài 3 trang 123 SGK Địa lí 9

    Dựa vào bảng 33.3, hãy vẽ biểu đồ thể hiện tỉ trọng diện tích, dân số, GDP của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong ba vùng kinh tế trọng điểm của cả nước năm 2002 và rút ra nhận xét.

  • Căn cứ vào hình 33.1 và kiến thức đã học, cho biết vì sao Đông Nam Bộ có sức hút mạnh đầu tư nước ngoài?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 3 trang 121 SGK Địa lí 9

  • Bài 2 trang 120 SGK Địa lí 9

    Nhờ những điều kiện thuận lợi nào mà Đông Nam Bộ trở thành vùng sản xuất cây công nghiệp lớn của cả nước?

  • Giải bài 3 phần câu hỏi và bài tập trang 120 SGK Địa lí 9

    Dựa vào bảng số liệu sau: Vẽ biểu đồ tròn thể hiện cơ cấu kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh và nêu nhận xét.

Sài Gòn Ở Đâu?

Sài Gòn là thành phố đông dân và lớn nhất Việt Nam, nằm ở phía Nam của đất nước. Với diện tích rộng lớn, Sài Gòn nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, trở thành đầu mối giao thông lớn của Việt Nam, nối liền các tỉnh lân cận và là cửa ngõ quốc tế lớn trong khu vực Đông Nam Á.

Dân Số Sài Gòn Là Bao Nhiêu?

Theo kết quả điều tra dân số của Tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến năm 2019, Sài Gòn là thành phố đông dân nhất Việt Nam với gần 9 triệu người. Tuy nhiên, nếu tính cả những người cư trú không hộ khẩu thì dân số thực tế của thành phố này là khoảng 15 triệu người.

TT - Đây là bài giải đề thi môn Địa lý kỳ thi tốt nghiệp THPT diễn ra sáng 3-6-2010. Bài giải và phần nhận định này được giới thiệu trên báo Tuổi Trẻ phát hành ngày 4-6-2010.

Phóng toGiám thị kiểm tra cuốn Atlat của thí sinh trước khi mở đề thi môn địa tại hội đồng thi Trường THPT Trần Khai Nguyên, Q.5, TP.HCM sáng 3-6 - Ảnh: Như Hùng

ĐỀ THI .I. Phần chung cho tất cả thí sinh [8,0 điểm]

Câu I. [3,0 điểm]

1. Nêu tóm tắt ý nghĩa về tự nhiên của vị trí địa lý nước ta?

2. Vùng biển Việt Nam tiếp giáp với vùng biển của các quốc gia nào? Kể tên các hệ sinh thái vùng ven biển nước ta?

3. Dựa vào Atlat địa lý Việt Nam và kiến thức đã học, hãy:

a] Cho biết tên sáu đô thị có số dân lớn nhất nước ta. Trong số đó, đô thị nào trực thuộc tỉnh?

b] Giải thích tại sao đô thị là nơi dân cư tập trung đông đúc?

Câu II. [2,0 điểm]

Cho bảng số liệu:

Sản lượng cao su Việt Nam [đơn vị: nghìn tấn]

Năm

1995

2000

2005

2007

Sản lượng cao su

124,7

290,8

481,6

605,8

1. Vẽ biểu đồ hình cột thể hiện sản lượng cao su của nước ta theo bảng số liệu trên.

2. Nhận xét sự thay đổi sản lượng cao su nước ta giai đoạn 1995 - 2007.

Câu III. [3,0 điểm]

1. Trình bày những thuận lợi về tự nhiên trong việc phát triển kinh tế ở Bắc Trung bộ.

2. Tại sao thủy lợi là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu đối với việc phát triển nôngnghiệp ở Đông Nam bộ?

II. Phần riêng - phần tự chọn [2,0 điểm]

Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu [câu IV.a hoặc câu IV.b]

Câu IV.a. Theo chương trình chuẩn [2,0 điểm]

Trình bày những mặt tích cực và tồn tại trong hoạt động ngoại thương của nước ta từ sau đổi mới.

Câu IV.b. Theo chương trình nâng cao [2,0 điểm]

Cho bảng số liệu:

Thu nhập bình quân đầu người hằng tháng ở Ðông Nam bộ và Tây nguyên theo giá so sánh 1994 [đơn vị: nghìn đồng]

Năm

1999

2002

2004

2006

Ðông Nam bộ

366

390

452

515

Tây nguyên

221

143

198

234

Hãy so sánh thu nhập bình quân đầu người của hai vùng theo bảng số liệu trên và giải thích.

BÀI GIẢI

I. Phần chung cho tất cả các thí sinh [8,0 điểm]

Câu I [3,0 điểm]

1. Nêu tóm tắt ý nghĩa về tự nhiên của vị trí địa lý nước ta.

- Vị trí địa lý đã quy định đặc điểm cơ bản của thiên nhiên nước ta là mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa [nền nhiệt độ cao, mưa nhiều và nằm trong khu vực gió mùa châu Á];

- Nước ta nằm ở vị trí tiếp giáp giữa lục địa và đại dương, liền kề với vành đai sinh khoáng Thái Bình Dương và vành đai sinh khoáng Địa Trung Hải, trên đường di lưu và di cư của nhiều loài động, thực vật nên có tài nguyên khoáng sản và tài nguyên sinh vật vô cùng phong phú;

- Tạo nên sự phân hóa đa dạng của tự nhiên: Bắc với Nam, núi với đồng bằng...;

- Nằm trong vùng có nhiều thiên tai nên cần có biện pháp phòng chống tích cực và chủ động.

2. Vùng biển Việt Nam tiếp giáp với vùng biển của các quốc gia nào?

Vùng biển Việt Nam tiếp giáp với vùng biển của các quốc gia: Trung Quốc, Campuchia, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapore, Thái Lan.

Kể tên các hệ sinh thái vùng ven biển nước ta.

Hệ sinh thái vùng ven biển nước ta rất đa dạng và giàu có:

- Hệ sinh thái rừng ngập mặn;

- Hệ sinh thái trên đất phèn;

- Hệ sinh thái rừng trên các đảo.

3. Dựa vào Atlat địa lý Việt Nam và kiến thức đã học, hãy:

a. Cho biết tên 6 đô thị có số dân lớn nhất nước ta. Trong số đó, đô thị nào trực thuộc tỉnh?

Sáu đô thị có số dân lớn nhất nước ta: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP.HCM, Cần Thơ và Biên Hòa.

Đô thị trực thuộc tỉnh là Biên Hòa thuộc tỉnh Đồng Nai.

b. Giải thích tại sao đô thị là nơi dân cư tập trung đông đúc?

Đô thị là nơi dân cư tập trung đông đúc vì:

- Có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại;

- Có sức hút đối với đầu tư trong nước và ngoài nước;

- Trình độ phát triển kinh tế cao;

- Có nhiều khu công nghiệp...

Câu II [2,0 điểm]

1. Vẽ biểu đồ hình cột thể hiện sản lượng cao su của nước ta theo bảng số liệu.

Phóng to

2. Nhận xét sự thay đổi sản lượng cao su nước ta giai đoạn 1995-2007:

- Sản lượng cao su nước ta giai đoạn 1995-2007 tăng và tăng liên tục [dẫn chứng];

- Tăng nhanh nhất là giai đoạn từ 2005-2007 [dẫn chứng].

Câu III [3,0 điểm]

1. Những thuận lợi về tự nhiên trong việc phát triển kinh tế ở Bắc Trung bộ.

Bắc Trung bộ có những thuận lợi về tự nhiên:

- Khoáng sản: có một số tài nguyên khoáng sản có giá trị như: crômit, thiếc, sắt, đá vôi...

- Rừng: có diện tích tương đối lớn - độ che phủ rừng chỉ đứng sau Tây nguyên;

- Sông: hệ thống sông Mã, sông Cả có giá trị về thủy lợi, giao thông và tiềm năng thủy điện;

- Biển: tỉnh nào cũng giáp biển;

- Diện tích rừng gò đổi tương đối lớn...

- Du lịch: có tài nguyên du lịch đáng kể, có các bãi tắm nổi tiếng [Sầm Sơn, Cửa Lò...].

2. Tại sao thủy lợi là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu đối với việc phát triển nông nghiệp ở Đông Nam bộ?

Thủy lợi là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu đối với việc phát triển nông nghiệp ở Đông Nam bộ vì:

- Mùa khô kéo dài và một số vùng thấp bị úng nước dọc theo sông Đồng Nai và sông La Ngà;

- Công trình thủy lợi Dầu Tiếng trên thượng lưu sông Sài Gòn và dự án thủy lợi Phước Hòa được thực thi sẽ:

* Tăng diện tích đất trồng trọt;

* Tăng hệ số sử dụng đất trồng hằng năm;

* Đảm bảo lương thực thực phẩm cho vùng.

II. Phần riêng - phần tự chọn [2,0 điểm]

Câu IV.a. Theo chương trình chuẩn [2,0 điểm]

Những mặt tích cực và tồn tại trong hoạt động ngoại thương của nước ta từ sau đổi mới.

1. Tích cực:

- Sau đổi mới, thị trường buôn bán ngày càng được mở rộng theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa;

- Trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới [WTO] và hiện có quan hệ buôn bán với phần lớn các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới;

- Xuất khẩu:

* Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng;

* Mặt hàng xuất khẩu: hàng công nghiệp nặng, khoáng sản, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, hàng nông lâm thủy sản;

* Thị trường xuất khẩu lớn nhất: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc.

- Nhập khẩu:

* Kim ngạch nhập khẩu ngày càng tăng;

* Mặt hàng nhập khẩu: nguyên liệu, tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng;

* Thị trường nhập khẩu chủ yếu là: châu Á - Thái Bình Dương và châu Âu.

2. Tồn tại:

- Trong xuất khẩu, tỉ trọng hàng chế biến hay tinh chế tương đối thấp và tăng chậm, hàng gia công còn lớn...;

- Hàng nhập khẩu thường có giá trị cao;

- Cán cân xuất nhập khẩu vẫn còn là nhập siêu.

Câu IV.b. Theo chương trình nâng cao [2,0 điểm]

So sánh thu nhập bình quân đầu người của hai vùng theo bảng số liệu và giải thích.

* So sánh:

- Thu nhập bình quân theo đầu người ở Đông Nam bộ ngày càng tăng [dẫn chứng];

- Thu nhập bình quân theo đầu người ở Tây nguyên: từ năm 1999 đến năm 2002 giảm [dẫn chứng], từ năm 2002 đến năm 2006 tăng [dẫn chứng] và đến năm 2006 đã cao hơn năm 1999;

- Thu nhập bình quân theo đầu người ở Đông Nam bộ từ năm 1999 đến năm 2006 tăng 1,4 lần, thu nhập bình quân theo đầu người ở Tây nguyên từ năm 1999 đến năm 2006 tăng 1,06 lần;

- Từ năm 1999 đến năm 2006 Đông Nam bộ có thu nhập bình quân đều lớn hơn Tây nguyên và khoảng cách ngày càng cao do tăng nhanh hơn.

* Giải thích:

- Nhìn chung, từ năm 1999 đến năm 2006 thu nhập bình quân theo đầu người của hai vùng đều tăng do:

* Tác động tích cực của chính sách đổi mới về kinh tế;

* Hiệu quả tốt của xóa đói giảm nghèo.

* Đông Nam bộ có thu nhập bình quân theo đầu người cao hơn Tây nguyên vì:

* Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm;

* Là địa bàn thu hút mạnh lực lượng lao động có chuyên môn cao;

* Có cơ sở hạ tầng tốt;

* Tích tụ lớn về vốn;

* Thu hút đầu tư nước ngoài nhiều.

- Tây nguyên có thu nhập bình quân theo đầu người thấp hơn Đông Nam bộ vì:

* Điều kiện kinh tế xã hội Tây nguyên còn nhiều khó khăn;

* Thiếu lao động lành nghề, cán bộ khoa học kỹ thuật;

* Cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn nhiều...

* Công nghiệp trong vùng mới đang giai đoạn hình thành.

Phóng toThí sinh hớn hở sau khi hoàn thành bài thi môn địa lý tại hội đồng thi Trường THPT Ernst Thalmann, Q.1, TP.HCM sáng 3-6 - Ảnh: Minh Đức

Nhận định đề thi:

Môn địa lý: không khó

Kết thúc thời gian làm bài môn địa lý, thầy Đặng Duy Định, tổ trưởng tổ địa lý Trường THPT Nguyễn Chí Thanh, TP.HCM, nhận định đề thi đáp ứng đủ ba yêu cầu đối với thí sinh. Đề có phần kiểm tra kiến thức cơ bản: tóm tắt ý nghĩa tự nhiên của vị trí địa lý nước ta, nhiều phần thí sinh vận dụng được kỹ năng sử dụng atlat. Phần biểu đồ năm nay đơn giản, đề yêu cầu vẽ biểu đồ cột bình thường, chỉ có một yếu tố sản lượng cao su, chỉ yêu cầu nhận xét về biểu đồ, không yêu cầu giải thích. Học sinh trung bình có thể hoàn chỉnh phần biểu đồ.

Câu 3, phần trình bày những thuận lợi về tự nhiên trong việc phát triển kinh tế ở Bắc Trung bộ, yêu cầu học sinh có kiến thức và biết sử dụng atlat. Phần câu hỏi về thủy lợi kiểm tra kiến thức chi tiết.

Ở phần đề tự chọn, phần dành cho học sinh học chương trình cơ bản, nếu không học bài cũng có thể vận dụng atlat trang thương mại để có kiến thức làm được ít nhất 2/3 nội dung câu hỏi. Phần đề chương trình nâng cao yêu cầu học sinh có kiến thức tổng hợp để so sánh, giải thích.

Đề nhiều câu, nhiều ý nhưng đảm bảo đúng cấu trúc đề bộ đã công bố. Nếu biết phân bố thời gian làm bài, không viết lan man vẫn hoàn thành bài. Nhìn chung, đề này không quá khó với học sinh trung bình.

Thầy Ngô Tương Đại, hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Trãi, nguyên chuyên viên môn địa lý của Sở GD-ĐT TP.HCM, cho rằng thí sinh dễ đạt 5 điểm với đề này nhưng sẽ khó có điểm cao. Đề có những phần hỏi kiến thức nhỏ, chi tiết [chẳng hạn như phần hỏi về hệ sinh thái vùng biển, sáu đô thị đông dân nhất - đô thị nào thuộc tỉnh], thí sinh ít lưu ý những chi tiết nhỏ này.

Đề cũng có những phần câu hỏi mở, vận dụng kiến thức xã hội [vì sao đô thị đông dân cư]. Với những câu hỏi này, thí sinh có thể có nhiều kiểu trả lời khác nhau. Học sinh rất dễ mất điểm nếu trình bày không giống đáp án. Đề mở nhưng không biết đáp án mở đến cỡ nào.

PHÚC ĐIỀN

Video liên quan

Chủ Đề