Vì sao học sinh sợ ngữ pháp
Vì sao học sinh Việt Nam "ngại" nói tiếng Anh?Học tiếng Anh sau 6 - 7 năm trong trường phổ thông vẫn không thể nói được một câu tiếng Anh đúng, không đủ tự tin để giao tiếp bằng tiếng Anh, dường như là vấn đề khá phổ biến ở học sinh nước ta.
Show
"Em sợ nói sai" Bạn Nguyễn Huy Đức, một cựu học sinh trường THPT Nguyễn Trãi (Hà Nội), thẳng thắn thừa nhận: "Mặc dù được học tiếng Anh trong trường từ lớp 6 - 12, tức là 7 năm đấy, nhưng em không thể nào mở miệng nói được một câu. Em cũng đi học ở các trung tâm, học mỗi cái bằng A thôi mà năm lần bảy lượt không thi được. Bây giờ vào đại học, em lại tiếp tục chật vật vì môn học này".
Học tiếng Anh từ cấp tiểu học giúp các em tự tin hơn. Tình trạng như của bạn Đức không phải là hiếm. Rất nhiều bạn học ngoại ngữ trong trường chỉ đủ để đối phó với các bài kiểm tra, các bài thi, nhưng khi cần giao tiếp thực tế thì không thể nói được một câu tiếng Anh nào. Cũng có những bạn nắm rất chắc ngữ pháp, thậm chí thường đạt điểm cao ở môn tiếng Anh, nhưng chỉ là ở các bài kiểm tra trên giấy, còn khi giao tiếp thực tế lại vẫn ngại ngùng và phản xạ nghe - nói rất kém. Bạn Trần Thúy Loan, học sinh lớp 8, trường THCS Liên Hòa (Hòa Bình) chia sẻ: "Em thích học tiếng Anh và kết quả học ở trường cũng khá tốt. Thế nhưng hè năm ngoái về Hà Nội chơi ở nhà bác, đi cùng các anh chị em đến một câu lạc bộ tiếng Anh thì em mới phát hiện ra là em rất sợ phải nói tiếng Anh ở chỗ đông người. Vì em sợ bị nói sai...". Trên một diễn đàn dạy và học tiếng Anh, các thành viên cũng cho rằng: "Có lẽ do bản tính người Việt dễ xấu hổ, nên sợ nếu nói sai thì bị mọi người cười chê, và tốt nhất là giấu dốt". Học tiếng Anh như "leo cột mỡ" Cô giáo Nguyễn Phương Nam, khoa tiếng Anh, trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ cho rằng, việc học tiếng Anh ở Việt Nam theo phương pháp truyền thống mà học sinh thường rất thụ động và không có môi trường giao tiếp là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học không hiệu quả, dần dần gây tâm lý chán, ngại học tiếng Anh. Thực ra trong chương trình học theo sách giáo khoa cũng có băng đĩa để luyện nghe - nói, tuy nhiên có thể do thời lượng bố trí các tiết học, do điều kiện vật chất của các trường, hoặc cũng có thể do thói quen của giáo viên mà việc sử dụng băng đĩa gần như là không được áp dụng trong các trường học, kể cả ở thành thị, chứ không nói gì đến nông thôn. Học sinh chủ yếu chỉ được nghe cô hướng dẫn đọc, nhưng ngay cả cô giáo thì không phải lúc nào cũng đúng. "Bằng chứng là ở khoa tôi rất nhiều sinh viên quen phát âm sai một số từ cơ bản từ khi còn học phổ thông. Vì thế, các bạn mặc nhiên nghĩ là đúng và đã nói thành quen nên rất khó sửa". Theo cô Nguyễn Phương Nam, học sinh phổ thông và sinh viên các trường không chuyên về ngoại ngữ thường không được chú trọng học đủ bốn kỹ năng cho phát triển ngôn ngữ - đó là nghe - nói - đọc - viết, mà đa phần chương trình chỉ tập trung vào ngữ pháp. Học ngữ pháp, thi ngữ pháp. Cách học này làm cho học sinh hoàn toàn thụ động nên không thể có được phản ứng giao tiếp nhanh nhạy, dù bạn có học giỏi tiếng Anh ở trường. Những mẫu câu ngữ pháp này đáng lẽ ra cần phải gắn với giao tiếp thực tế, nếu không những gì học được sẽ trôi đi và việc học sẽ chỉ như "leo cột mỡ". Theo Lê Na (Khoa học và Đời sống)
Nguyên nhân chính được cho là khiến học sinh luôn “sợ hãi” với mỗi tiết học Anh văn ở trường đó là việc Giáo viên không phát âm chuẩn, học sinh không có cơ hội thực hành giao tiếp hoặc ngữ pháp quá nặng và khó khăn. Vì vậy hầu hết học sinh cảm thấy không mấy hào hứng với bộ môn này. Trong một bài phát biểu, Bộ trưởng Giáo dục Nhật Bản cho biết các học sinh phổ thông quốc gia này không đạt trình độ tiếng Anh cơ bản, đặc biệt hạn chế ở kỹ năng nói và viết. Điều tra năm 2015 còn cho thấy gần 60% học sinh ghét các giờ ngoại ngữ ở trường. Không chỉ tại Nhật Bản, những lớp tiếng Anh kém hấp dẫn, không hiệu quả vẫn diễn ra tại nhiều quốc gia trên thế giới, khiến hàng triệu học sinh lãng phí quãng thời gian ở trường và dần chán ghét bộ môn này. Một bài viết trên blog Antimoon của Tomasz P. Szynalski – giáo viên, thông dịch viên tiếng Anh đã chỉ ra các lý do khiến các em không hứng thú. Giáo viên nói sai Thứ tiếng Anh trong lớp học dường như khác với thứ ngôn ngữ cả thế giới đang sử dụng khi mang nặng âm ngữ địa phương với lỗi phát âm của giáo viên. Fatimal – một sinh viên Malaysia, chia sẻ với tờ The Malaysian Insider rằng không bao giờ quên thầy giáo của mình luôn chào cả lớp bằng câu “Good morning. Everyone sic down”. Những lỗi sai khiến học sinh mất đi nguồn cảm hứng. Giờ học trên lớp không giúp các em xem được những bộ phim hoạt hình yêu thích trên kênh Disney và còn thấy xa cách hơn với ngôn ngữ này. Được nói 5 câu tiếng Anh mỗi tiết Một lớp thường có sĩ số 20 em trở lên với thời lượng khoảng 45 phút cho tất cả hoạt động. Chính vì thế, nếu không được giáo viên gọi đứng dậy trả lời, mỗi người chỉ nói khoảng 5 câu. Lớp phổ thông không mang đến một môi trường thuận lợi để trau dồi kỹ năng giao tiếp – mục tiêu cơ bản khi học bất kỳ một ngôn ngữ nào. Sách giáo khoa nhàm chán Các giáo viên thường sử dụng sách giáo khoa, sách bài tập, cùng những cuốn tham khảo, tuyển tập đề thi khác. Đây là quy định của chương trình giáo dục và phần nào giúp giáo viên không phải suy nghĩ xem phải chuẩn bị nội dung gì cho buổi dạy tiếp theo. Tuy nhiên, các em mệt mỏi với những giờ học chỉ với các loại sách và bài tập liên tiếp nhau trong ngày. Những hoạt động đơn điệu đó kéo dài qua các năm, khiến tiếng Anh cũng như bất kỳ bộ môn nào trở nên nhàm chán. Quá nhiều quy tắc ngữ pháp Hẳn ai cũng từng học những quy tắc như “Thì hiện tại tiếp diễn được sử dụng để diễn tả một sự việc xảy ra vào thời điểm đang nói”. Ở trường, nếu học sinh phát âm sai, giáo viên không quan tâm quá nhiều nhưng lại rất chú ý đến cấu trúc câu, chia thì động từ. Ghi nhớ công thức một cái máy giúp các em làm tốt các bài kiểm tra nhưng không rèn được phản xạ khi giao tiếp. Mỗi người khó lòng nhớ hết hàng trăm công thức ngữ pháp. Kể cả nếu nhớ được, họ cũng không có đủ thời gian để phân tích xem nên dùng công thức nào trong từng tình huống cụ thể. Bài tập về nhà nặng nề Bài tập về nhà thường có dạng tương tự với bài ở lớp, giúp các em ôn tập, ghi nhớ lâu hơn nhưng gây ra sự nhàm chán. Một số giáo viên ra bài luận dài với đề tài không gần gũi. Với nhiều em, viết văn bằng tiếng mẹ đã là một yêu cầu khó, viết về những đề tài học thuật bằng ngoại ngữ là một “ác mộng” thực sự. Vì thế, tiếng Anh trở thành một nỗi ám ảnh từ trường về nhà với nhiều thế hệ học sinh và không đạt được kết quả mong muốn. Y Vân tổng hợp TRUNG TÂM TIẾNG ANH NEWSKY Hotline: 090 999 01 30 – (08) 3601 6727 Add: 292 Âu Cơ, P. 10, Q. Tân Bình, Tp.HCM Ảnh minh họa Nói “ngày càng giảm sút” vì trong giai đoạn từ năm 2015 - 2018, Việt Nam còn được xếp vào loại trung bình về kỹ năng tiếng Anh mặc dù thứ hạng hàng năm tụt giảm đều. Qua đến năm 2019 bỗng tụt xuống loại kém, đứng thứ 52 trên 100 nước; năm nay tụt thêm 13 bậc xuống hạng 65 vẫn trên 100 nước. Vẫn có thể đặt dấu hỏi về mức độ chính xác của khảo sát này vì chỉ dựa vào bài kiểm tra miễn phí làm trên mạng, tức những người tham gia là tự nguyện có thể tiếng Anh đang yếu nên mới tìm cách học thêm. Điểm số khảo sát vì thế không đại diện cho năng lực tiếng Anh của người Việt nói chung và khó lòng có thể so sánh với điểm số của nước khác. Thế nhưng khi so sánh với chính mình, không thể phủ nhận xu hướng năng lực tiếng Anh, ít nhất là của người Việt tham gia khảo sát của EF, “ngày càng giảm sút” để đi tìm nguyên nhân và giải pháp. Các dữ kiện khác cũng cho thấy so với các môn học khác, kết quả học môn tiếng Anh của học sinh Việt Nam là kém. Với kỳ thi tốt nghiệp THPT năm nay, trong khi điểm trung bình các môn văn và toán của thí sinh là 6,6, điểm trung bình môn tiếng Anh chỉ ở mức 4,5 - là môn duy nhất có điểm trung bình dưới 5; đến 63,1% thí sinh đạt điểm dưới trung bình; điểm số có nhiều thí sinh đạt nhất là 3,4 điểm - một mức rất thấp so với các môn thi khác. Phổ điểm môn tiếng Anh lệch sang trái, tức số thí sinh có điểm dưới mức trung bình năm nào cũng cao, đã kéo dài trong mấy năm nay. Trong khi đó, mức độ đầu tư của toàn xã hội và từng gia đình, từng vị phụ huynh cho con em học tiếng Anh là rất cao, cao hơn hẳn các môn khác. Chưa từng có môn học nào có sự phân biệt đối xử với học sinh như môn tiếng Anh: đóng thêm tiền thì được vào học chương trình nâng cao, tiếng Anh tích hợp, tiếng Anh tăng cường. Đóng thêm tiền thì được học với giáo viên người nước ngoài, học sách của nước ngoài. Đó là chưa kể nhiều phụ huynh cho con em đi học thêm tiếng Anh tại các trung tâm ngoại ngữ, với mức học phí cao gấp mấy lần các môn khác. Có người nói nửa đùa nửa thật: biết đâu nếu để việc học tiếng Anh bình thường như các môn khác, có khi kết quả lại khả quan hơn! Xếp hạng EF khu vực châu Á Phải nói thẳng với nhau việc dạy và học tiếng Anh không có hiệu quả trước hết bởi năng lực các thầy cô môn này đa phần là còn yếu. Một lần nữa, đây không phải là nhận định của người viết mà là kết quả khảo sát năng lực giảng dạy tiếng Anh của giáo viên tại nhiều địa phương: Cách đây mấy năm báo chí đã đưa tin địa phương nào cũng vậy, vài trăm giáo viên tham dự khảo sát, số đạt chuẩn chỉ có vài người; trên bình diện toàn quốc, tỉ lệ đạt chuẩn chỉ vào khoảng 2 - 3%. Giáo viên được đào tạo theo kiểu cũ, chú trọng nhiều đến ngữ pháp, dịch; nay khảo sát cả 4 kỹ năng nghe - nói - đọc - viết theo chuẩn châu Âu thì tỉ lệ đạt thấp không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng nguy hiểm nhất là giáo viên tiếng Anh dạy ở bậc tiểu học lấy từ nhiều nguồn khác nhau, phát âm không chuẩn, dạy các em đọc sai ngay từ đầu, sau này rất khó sửa. Do yếu về năng lực giao tiếp, việc giảng dạy trở nên máy móc, chủ yếu dạy về ngôn ngữ tiếng Anh chứ hoàn toàn không xem nó là một phương tiện giao tiếp. Đối với hầu hết giáo viên, với mỗi bài học trọng tâm là dạy cách dùng thì, khi dạy câu bị động, khi thì dạy cách sử dụng giới từ cho đúng. Với họ, dạy cho học sinh làm đúng bài tập, bài thi là ưu tiên số một nên giờ học thành giờ dạy các mánh lới làm bài thi. Họ không hề xem bài đọc là một nội dung cần đọc để hiểu rồi thảo luận, trao đổi, hỏi đáp về nội dung đó. Học sinh cũng vậy: lúc ở lớp nhỏ, các em còn hăm hở sử dụng vài ba câu tiếng Anh mới học để đối đáp với bố mẹ ở nhà, qua lớp lớn là hết, rất ít em nhớ rằng những câu tiếng Anh vừa học là để nói với người nước ngoài nhằm mục đích giao tiếp. Với bài đọc tiếng Anh, phản ứng đầu tiên của nhiều em là cố dịch ra tiếng Việt để xem bài nói chuyện gì, rồi chăm chăm chú ý đến các phần thường hỏi trong bài thi đọc hiểu. Không mấy em nhận ra những điều hấp dẫn, bổ ích, mới lạ mà bài đọc cung cấp cho các em, hay cách viết, cách diễn đạt, cách dùng từ thú vị, độc đáo... trong văn bản. Bản chất của việc học ngoại ngữ là luyện tập, cứ luyện đều như múa quyền để khi cần bật ra đánh trúng; chứ học ngoại ngữ mà nghiền ngẫm để làm bài tập như toán, như hóa thì làm sao không yếu dần cho được. Để thay đổi, không thể một sớm một chiều đào tạo lại giáo viên, cần phải dựa vào công nghệ. Có thể tổ chức các lớp tập huấn để đào tạo giáo viên cách sử dụng các ứng dụng phục vụ việc dạy như từ điển có phát âm, phần mềm đọc to văn bản, thậm chí cả Google Translate để thầy cô tham khảo xem máy dịch như thế nào. Từ đó, trên lớp các thầy cô không cần trực tiếp dạy học sinh nữa mà để các em luyện tập với nhau, mẫu sẽ là máy đọc theo giọng của người bản ngữ. Chỉ đến khi nào, ví dụ với một học sinh lớp 3 bắt đầu học tiếng Anh, suốt một học kỳ không viết chữ tiếng Anh nào vào vở nhưng thuộc nhiều bài hát, thuộc nhiều mẩu đối thoại để đóng kịch với bạn hay kể được các mẩu chuyện ngắn trước lớp - lúc đó mới xem giáo viên đã thành công. Lớp lớn cũng vậy, thầy cô không cần chăm chú dạy ngữ pháp, ra bài tập cho học sinh luyện để lấy điểm cao. Hãy để học sinh tự do tải về điện thoại các tự điển tiếng Anh có cả phát âm, tải chương trình dịch tự động, tải cả chương trình máy đối đáp với người như Google Assistant hay Siri. Cứ để học sinh quét bài đọc rồi nhờ Google Translate ngay từ đầu để các em thỏa mãn sự tò mò về nội dung bài. Thậm chí khi Google Translate dịch ngây ngô, điều đó cũng là một cách học: giúp các em đừng quá tin vào máy dịch mà xem đó như bước khởi đầu tương tự như khi dùng bách khoa trực tuyến Wikipedia. Sau đó tổ chức để các em lên nói về bài đọc, trình bày lại, các em khác đặt câu hỏi để tranh luận, cãi nhau về nội dung vừa học. Nói chung, không cần dạy gì nhiều ngoài việc cho học sinh gần như học thuộc lòng bài đọc để ai hỏi gì là có thể trả lời nhanh gọn, chính xác. Để làm được điều này, cần giảm tải chương trình, cắt ngắn bài học, đơn giản hóa chương trình. Lớp nhỏ dạy đi dạy lại những câu giao tiếp bình thường trong cuộc sống, giúp các em nói trôi chảy nằm lòng; sao cho ít nhất khi vào trung học cơ sở các em có chừng vài trăm câu đã thông thạo để khi cần là đem ra sử dụng một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên. Lớp lớn bài đọc đơn giản hơn bây giờ nhưng mang tính thời sự hơn, chẳng hạn nói về những thay đổi trong cuộc sống ở thế kỷ 21. Làm sao để bản thân nội dung là mới, là hấp dẫn, gây tò mò ở học sinh, như cuộc tranh luận về mạng 5G có gây hại cho sức khỏe hay không. Học sinh có tò mò thì mới có động lực tìm hiểu bài đọc, tìm mọi cách để hiểu nội dung và nhớ nội dung để trình bày lại. Chừng nào động lực học tiếng Anh là vì điểm số chứ không phải vì muốn sử dụng thành thạo một ngoại ngữ, chừng đó khó lòng cải thiện thứ bậc xếp hạng Việt Nam so với các nước khác. Ngày xưa người ta thường gọi tiếng Anh là sinh ngữ, một phần do nó liên tục biến đổi, liên tục tiếp nhận cái mới, nghĩa mới, cách dùng mới. Cách dạy, cách học bấy lâu nay xem nó như một tử ngữ kiểu ngày xưa người ta học tiếng Latin, bởi thế nên rất nhiều học sinh và kể cả giáo viên đã không thể nào hiểu được những khái niệm mới xuất hiện trong chừng 10 - 15 năm trở lại đây. Muốn cải thiện trình độ tiếng Anh của học sinh Việt Nam, cần xem nó là sinh ngữ, tức nhìn nhận đấy chính là cầu nối giao tiếp, để học những nội dung mà nó chuyển tải, cách nó chuyển tải, bắt chước chuyển tải được như nó. Đừng xem bản thân tiếng Anh là đối tượng cần học mà chính là một công cụ ngôn ngữ để học những điều khác, để khi học sinh khi tranh luận, đối đáp, nếu các em có sai ngữ pháp cũng là bình thường. Sử dụng tiếng Anh tự nhiên, thường xuyên như một công cụ, tự các em sẽ hoàn chỉnh năng lực ngoại ngữ của mình bằng cách bắt chước người bản ngữ y như khi các em học tiếng mẹ đẻ vậy. ■
|