Vì sao có tết trung thu

Tết Trung thu hay còn gọi là Tết Đoàn Viên. Gia đình sum vầy, quây quần bên nhau ăn bánh trung thu, thưởng trà, trẻ em phá cỗ, chơi đèn ông sao đã trở thành nét văn hóa ý nghĩa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc, ý nghĩa của phong tục ngày Tết trung thu. Cùng VinID khám phá tất tần tật thông tin về ngày tết đoàn viên sau đây nhé!

1. Tết trung thu là ngày bao nhiêu?

Vì sao có tết trung thu
Trung thu tổ chức vào ngày 15 tháng 8 âm lịch

Trung thu được tổ chức vào ngày rằm tháng Tám âm lịch hằng năm (ngày 15 tháng 8 âm lịch). Năm 2021 này, Tết trung thu sẽ rơi vào thứ Ba, ngày 21 tháng 9 Dương lịch. Vào ngày này, dưới ánh trăng sáng, gia đình quây quần bên nhau, cùng phá cỗ vui đùa. Bố mẹ tổ chức bày cỗ cho các bé, cùng làm đèn lồng, thắp sáng đèn ông sao rực rỡ. 

2. Sự tích tết trung thu

Vì sao có tết trung thu
Trung thu gắn liền với hình ảnh chị Hằng trên cung trăng

Theo truyền thuyết ông cha ta kể lại, sự tích ngày tết trung thu gắn liền với chị Hằng, chú Cuội. Câu chuyện bắt đầu vào một đêm rằm tháng Tám, dưới ánh trăng huyền ảo, sáng vằng vặc như gương, nhà vua ngắm trắng, nảy ra ý muốn lên thăm Cung Trăng. Một vị pháp sư đi theo nhà vua liền ném chiếc gậy lên không trung, chiếc gậy phút chốc biến thành một chiếc cầu bằng bạc lấp lánh dẫn lối nhà vua và pháp sư lên Cung Trăng. Đến “Phủ thanh hư Quảng Hàn”, nhà vua và pháp sư được tiên nữ Hằng Nga tiếp đón nồng hậu với bánh tiên và các tiên nữ múa hát.

Khi trở về trần gian, nhà vua chọn ngày rằm tháng tám để tưởng nhớ ngày đáng nhớ này. Vào ngày này hàng năm, nhà vua sai đầu bếp làm “bánh tiên” có hình tròn tựa mặt trăng sáng đêm rằm. Nhà vua quây quần cùng quần thần ngắm trăng, ăn bánh và thưởng trà. Kể từ đó, Tết trung thu đã đi vào cuộc sống như một thói quen, một nếp sống đẹp của người dân Việt Nam.

3. Ý nghĩa tết trung thu

Vì sao có tết trung thu
Tết trung thu còn là Tết đoàn viên, Tết thiếu nhi

Vào Tết trung thu, các gia đình thường chuẩn bị mâm cỗ thắp hương lên bàn thờ tổ tiên vừa để tỏ lòng nhớ ơn nguồn cội, vừa cầu bình an, may mắn cho người thân. Bên cạnh đó, Tết trung thu còn được biết đến là ngày “Tết thiếu nhi thứ hai” của trẻ em Việt Nam. Đây là dịp các bé cùng bố mẹ gắn kết, cùng nhau chuẩn bị mâm cỗ, rước đèn ông sao, xem múa lân, tham gia các trò chơi dân gian. 

Đối với người nông dân, ngày Tết trung thu còn mang ý nghĩa lớn lao, ngắm trăng đêm rằm để dự đoán mùa màng. Nếu trăng vàng sáng vằng vặc, năm đó sẽ trúng mùa tơ tằm. Trăng sáng màu xanh lục dự báo thiên tai sắp đến. Ngược lại, nếu trăng sáng màu cam gợi một tương lai đất nước thái bình, mùa màng tươi tốt. 

4. Đặc trưng của tết trung thu

Vì sao có tết trung thu
Trung thu với nhiều hoạt động ý nghĩa

Cứ mỗi khi tối đến, trẻ em lại háo hức, rộn ràng đứng trước sân nhà, chờ đoàn múa lân rộn ràng đi qua. Mỗi bé cầm trên tay những chiếc đèn ông sao rực rỡ, đi theo sau đoàn múa lân, hòa cùng không khí nhộn nhịp.

Vì sao có tết trung thu
Múa lân đón Trung thu

Theo câu chuyện dân gian tương truyền, vị thần thổ địa cai quản vùng đất đó thường ban phước lành cho người dân. Ông và con kỳ lân xuống trần gian, giúp người dân có cuộc sống bình yên, làm ăn khấm khá. Cũng bởi vậy, phong tục múa lân ra đời – con lân theo sau ông Địa đang cầm quạt mo, cười khoái chí.

Ban ngày, gia đình sẽ cùng nhau chuẩn bị làm mâm cỗ thắp hương gia tiên, tối đến sẽ xin phá cỗ dưới ánh trăng sáng. Mâm cỗ trung thu không thể thiếu các loại hoa quả đặc trưng như bưởi, chuối, bánh trung thu,… Các mẹ khéo léo bày biện thành những hình thù độc đáo, thú vị. Các thành viên trong gia đình ngồi quây quần bên nhau, vui vẻ cười đùa, kể cho nhau nghe những sự tích về Tết trung thu.

Trung thu có rất nhiều loại đồ chơi đặc trưng cho trẻ lựa chọn như súng bắn nước, cánh thiên thần, đặc biệt là đèn lồng, đèn ông sao. Đây là món đồ chơi quen thuộc trong tuổi thơ của bao thế hệ. Bố mẹ có thể cùng con tự làm, sáng tạo chiếc đèn lồng bằng giấy nhún, đèn ông sao truyền thống,…

Vì sao có tết trung thu
Thưởng thức trà và bánh trung thu cùng gia đình

Bánh nướng, bánh dẻo có thể gọi là “linh hồn” của đêm rằm tháng tám. Loại bánh đặc trưng có hình tròn, hình vuông tượng trưng cho mặt trăng, mặt trời với họa tiết cầu kỳ, mang ý nghĩa của sự hạnh phúc, ấm no. Lớp bánh nướng vàng óng, thơm ngon, còn bánh dẻo trắng ngần, mềm mại, thưởng thức cùng trà mạn rất tuyệt vời.  

Tết trung thu còn là thời điểm sum vầy, những người con xa xứ trở về cùng người thân và dành tặng những món quà tuyệt vời. Không có một tiêu chuẩn cụ thể nào về món quà trong ngày này. Con cái có thể tặng bố mẹ những hộp bánh trung thu ngon lành, màu sắc bắt mắt. Đây còn là dịp để mọi người tặng quà cho nhau, thể hiện sự quý mến.

Trăng rằm tháng tám thường to tròn, sáng rực rỡ nhất. Thú thưởng nguyệt bình dị đã đi vào văn học, thơ ca ngàn năm nay. Để thưởng trăng, nhiều cuộc vui được bày ra hay đơn giản chỉ cần cùng người thân trong gia đình ăn bánh, uống trà và ngắm nhìn vẻ đẹp huyền ảo của ánh trăng.

>>> Điểm khác biệt giữa Tết Trung Thu xưa và nay <<<

Trường học và phường, xã cũng tổ chức nhiều chương trình vui chơi cho học sinh, các em nhỏ. Trẻ em có cơ hội được kết nối, tham gia nhiều hoạt động giải trí, thể hiện sự tự tin và tài năng như thi múa, hát, diễn kịch. 

Vì sao có tết trung thu
Các bé tham gia hóa trang trung thu

Không cần chờ đến dịp Halloween, xu hướng tổ chức hóa trang trung thu của trẻ nhỏ đang ngày càng phổ biến. Nhân vật hóa trang cũng khá đa dạng như hình ảnh truyền thống chú Cuội, chị Hằng hoặc nhiều nhân vật hiện đại, độc đáo như phù thủy,…

Tết Trung thu là một trong những ngày lễ, nét đẹp văn hóa gắn liền tuổi thơ của bao thế hệ trẻ em Việt. Trung thu này bạn đã có kế hoạch gì chưa? Đừng quên mua những chiếc bánh thơm ngon qua VinID để thưởng thức hoặc làm quà tặng gia đình và bạn bè nhé.

MUA BÁNH TRUNG THU ONLINE

Nguồn gốc và ý nghĩa của Tết Trung Thu

Vì sao có tết trung thu

Tết trung thu diễn ra vào ngày 15 của tháng 8 trong Âm Lịch và đã có từ ngàn năm nay, đây là thời gian mặt trăng tròn nhất và sáng nhất, đây cũng là thời gian người Châu Á thu hoạch xong mùa vụ và bắt đầu tổ chức những lễ hội mà tiêu biểu trong đó là lễ hội trăng rằm. Món ăn được người Á Đông lưu tâm nhất trong mùa lễ hội này đó là Bánh Trung Thu, với rất nhiều hương vị khác nhau và thường được thưởng thức với trà, thường là trà đặc.

Các sự tích liên quan đến tết Trung Thu hay Rằm tháng 8:

Sự tích Tết trung thu thứ 1

Vì sao có tết trung thu

Hậu Nghệ là một người bất tử, trong khi đó Hằng Nga là một tiên nữ xinh đẹp sống ở Thiên Đình và phục vụ cho Tây Vương Mẫu. Cả hai người là vợ chồng. Sắc đẹp của Hằng Nga và sự bất tử của Hậu Nghệ đã làm cho một số vị thần tiên khác ghanh ghét, và họ đã vu oan một tội lỗi phạm thiên đình cho Hậu Nghệ trước mặt Vua Nghiêu. Từ đó, Hằng Nga và Hậu Nghệ bị đuổi khỏi hoàng cung và phải sống cuộc đời thường dân. Từ đó, cuộc sống làm lụng, săn bắn đã làm cho chàng Hậu Nghệ trở thành một xạ thủ có tiếng trong dân gian.

Bấy giờ, có 10 mặt trời cùng lúc tồn tại, cứ một mặt trời thì chiếu một ngày, và cứ thay phiên như vậy trong vòng một ngày. Tuy nhiên, tai họa ập đến, một ngày kia cả 10 mặt trời cùng xuất hiện trong một ngày và đã thiêu cháy hầu hết sinh linh trên mặt đất. Trước hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” trên, Vua Nghiêu đã sai Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời chỉ để một cái lại mà thôi. Chàng Hậu Nghệ đã hoàn thành sứ mạng xuất sắc. Để đáp lại, Vua Nghiêu đã cho chàng một viên thuốc trường sinh bất lão và dặn rằng “Tạm thời không được uống cái này vào, hay bắt đầu cầu nguyện và ăn chay trong một năm sau đó mới được uống”. Hậu Nghệ làm theo, chàng đem viên thuốc về nhà và giấu nó ở cái rui trên nóc nhà và tự khổ luyện tinh thần. Được khoảng nửa năm, Vua Nghiêu mời chàng đến kinh thành “chơi” . Hằng Nga ở nhà thì bỗng lưu ý đến một vật sáng lóng lánh trên mái nhà và phát hiện ra viên linh dược, sau đó, biết là linh dược, nàng đã uống ngay viên thuốc cũng đúng lúc Hậu Nghệ vừa về đến và ngay tức khắc chàng đã biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng tất cả đã quá muộn, Hằng Nga bắt đầu bay về trời.

Với chiếc nỏ trong tay, Hậu Nghệ đuổi theo Hằng Nga. Nhưng đi được đến nửa đường thì thần Gió đã cản chàng lại mặc cho nàng tiên nữ xinh đẹp kia bay đến mặt trăng. Khi vừa đến nơi Hằng Nga bỗng không thở được và viên thuốc bỗng văng ra. Kể từ đó, Hằng Nga mãi ở trên mặt trăng không thể nào trở lại. Truyền thuyết còn kể lại rằng nàng đã kêu gọi những con thỏ ở mặt trăng tạo ra viên thuốc giống như vậy để nàng còn quay về với người chồng ngày đêm mong nhớ, nhưng tất cả đều vô dụng.

Trong khi đó, ở dương thế, sự mong nhớ và nỗi hối hận ngày đêm cồn cào Hậu Nghệ. Cuối cùng, chàng xây một lâu đài trong mặt trời và đặt tên là “Dương”, trong khi đó thì Hằng Nga cũng xây một lâu đài tương tự đặt tên là “Âm”. Cứ mỗi năm một lần, vào ngày rằm tháng 8, hai người được đoàn viên trong niềm hân hoan hạnh phúc. Chính vì thế mà mặt trăng luôn thật tròn và thật sáng vào ngày này như đê nói đến niềm vui, sự hân hoan khi được gặp mặt của con người.

Đây là tài liệu có trong truyền thuyết Trung Quốc khá phổ biến ở thời Tây Hán(206 TCN – 24 SCN).

Sự tích Tết trung thu thứ 2

Hậu Nghệ vốn là người phàm trần và là một xạ thủ rất giỏi, chàng đã bắn rơi 9 mặt trời để cứu loài người, nhưng sau đó chàng ta đã trở thành vua Trung Quốc nhưng rồi anh ta trở nên bạo ngược và thi hành những đạo luật khắt khe với nhân dân.
Một ngày kia, Hậu Nghệ đánh cắp một viên thuốc trường sinh bất lão của một vị nữ thần. Tuy nhiên, Vợ Hậu Nghệ, Hằng Nga đã uống nó vì nàng không muốn chồng của mình cứ mãi mãi trở thành một ông vua bạo ngược để nhân dân oán ghét. Và sau khi uống viên linh dược, Hằng Nga đã bay về trời. Vì quá yêu thương Hằng Nga, Hậu Nghệ đã không nỡ bắn rơi mặt trăng giống như chàng đã từng làm với 9 mặt trời trước đó.

Sự tích Tết trung thu thứ 3

Vì sao có tết trung thu

Một truyền thuyết khác đã cho rằng: Hằng Nga và Hậu Nghệ đều là những vị thần bất tử sống trên thiên đình. Một ngày kia, người con trai thứ 10 của Ngọc Hoàng đã phân thân thành mười mặt trời từ đó gây nên thảm kịch cho loài người. Trước tình hình đó, Hậu Nghệ, với tài bắn tên của mình đã bắn rơi 9 mặt trời nhưng vì tình cảm, đã tha chết cho bản thể thứ 10 của con trai của Ngọc Hoàng. Dĩ nhiên, Ngọc Hoàng không chấp nhận và rất phật ý. Ông ta đã trừng phạt Hậu Nghệ và Hằng Nga bằng cách bắt họ phải sống cuộc đời con người ở trần thế.

Sau khi xuống trần thế, hối tiếc cuộc sống bất tử đã qua, Hậu Nghệ đã bỏ nhà ra đi tìm thứ thuốc có thể trường sinh bất lão. Cuối cùng, chàng tìm thấy Tây Vương Mẫu, bà đã cho Hậu Nghệ linh dược, nhưng dặn rằng: mỗi người chỉ nên uống nửa viên để có được sự sống trường tồn.

Hậu Nghệ đem viên thuốc về nhà và để nó trong một chiếc lọ. Chàng đã cảnh báo Hằng Nga không được mở chiếc lọ ra để xem trong đó có gì và đi săn bắn trong vài tháng. Cũng giống như Pandora trong Thần Thoại Hi Lạp. Sự tò mò đã làm Hằng Nga mở chiệc lọ và tìm thấy viên thuốc, dĩ nhiên nàng đã uống hết viên linh dược mà không biết rằng mỗi người chỉ nên uống nửa viên. Hậu quả thật tai hại, Hằng Nga đã bay về mặt trăng mà không thể cứu vãn được. Kể từ đó cả hai người đã phải sống trong tình cảnh chia lìa, ngăn cách.

Ở Khía cạnh lịch sử, Tết Trung Thu được cho là thời điểm kỷ niệm của quân Minh chống lại quân Nguyên vào đầu thế kỷ XIV. Vào thời đó, quân Minh đang nổi dậy chống lại triều đình nhà Nguyên chính vì vậy, việc tụ tập tại những nơi công cộng bị cấm. Thế nên nghĩa quân không thể liên lạc được. Một vị tướng của quân Minh thời đó nhận thấy rằng người Mông Cổ không ăn Bánh Trung Thu, chính vì thế ông ta đã mở một tiệm bán bánh và trong mỗi cái bánh là một miếng giấy nhỏ viết rằng: “Giết tất cả bọn Mông Cổ vào ngày 15 tháng 8”. Đêm trung thu năm đó, quân Minh đã tiêu diệt được quân Nguyên và giành chính quyền. Và sau đó là việc thành lập triều đại Nhà Minh( 1368 – 1644), dưới sự thống lĩnh của hoàng đế Chu Nguyên Chương. Kể từ đó, Bánh Trung Thu không chỉ có giá trị ở khía cạnh văn hóa mà nó còn chứa đựng trong nó lòng tự hào dân tộc của người Trung Quốc.


Chính vì những lý do đó, Tết Trung Thu trở nên một phần không thể thiếu của nền văn hóa Trung Quốc đến nỗi ngày nay rất nhiều người Trung Quốc đặt tên cho con gái họ là Nguyệt với ước mong con gái họ sẽ xinh đẹp, trong sáng và đầy đặn như mặt trăng vậy.

Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng trong dịp Tết Trung thu đã có từ thời Bắc Tống ở Trung Quốc, cách đây trên 1.000 năm.

Trong đêm 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi là bánh "đoàn viên", bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà.

Đêm Trung thu, các em rước đèn, múa sư tử. Ngoài Bắc gọi là múa sư tử, trong Nam gọi là múa lân. Lân còn gọi là kỳ lân. Kỳ là tên con đực, lân là tên con cái. Lân là con vật đứng thứ hai trong tứ linh: long (rồng), lân, qui (rùa), phụng (phượng hoàng). Lân là con vật thần thoại, thân hươu, móng ngựa, đuôi bò, miệng rộng, mũi to, có một sừng ở ngay giữa trán, lông trên lưng ngũ sắc, lông dưới bụng màu vàng. Tục truyền, lân là con vật hiền lành, chỉ có người tốt mới nhìn thấy nó được.

Thoạt nhìn, đầu lân giống đầu sư tử. Do vậy, người ta gọi múa lân thành múa sư tử.

ở một vài địa phương, có tục các em rước đèn kéo quân trong dịp Tết Trung thu. Đèn kéo quân hình vuông, cao khoảng 80cm, rộng mỗi bề khoảng 50cm. Bốn mặt đều phết giấy Tàu bạch như giấy bóng mờ hiện nay. Phía trên và phía dưới có đường viền sặc sỡ. Bên trong có một tán giấy hình tròn. Khi đốt đèn, hơi lửa bốc lên, tán giấy xoay quanh. Đèn kéo quân còn gọi là đèn chạy quân vì hình đoàn quân cứ liên tục kéo đi, chạy đi không ngừng hết vòng nọ đến vòng kia. Chỉ khi nào đèn hết dầu (nến), đèn tắt thì các tán không quay nữa. Đèn có bốn mặt, hình ảnh xem ở mặt nào cũng được.

Trẻ em rất thích ăn bánh Trung thu, múa lân và rước đèn kéo quân. Từ đó, Tết Trung thunghiễm nhiên trở thành Tết của các em từ hàng ngàn năm nay.

Sự tích Tết trung thu thứ 4

Người Việt ta ăn Tết Trung Thu vào ngày rằm tháng tám âm lịch là do ta phỏng theo phong tục của người Tàu. Chuyện xưa kể rằng vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng tám âm lịch. Trong đêm Trung Thu, trăng rất tròn và trong sáng. Trời thật đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang thưởng thức cảnh đẹp thì gặp đạo sĩ La Công Viễn còn được gọi là Diệp Pháp Thiện. Đạo sĩ có phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng. Ở đấy, cảnh trí lại càng đẹp hơn. Nhà vua hân hoan thưởng thức cảnh tiên và du dương với âm thanh ánh sáng huyền diệu cùng các nàng tiên tha thướt trong những xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát. Trong giờ phút tuyệt vời ấy nhà vua quên cả trời gần sáng. Đạo sĩ phải nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong lòng vẫn bàng hoàng luyến tiếc.Về tới hoàng cung, nhà vua còn vấn vương cảnh tiên nên đã cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng tám lại ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quí Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt điện kỳ diệu của mình. Kể từ đó, việc tổ chức rước đèn và bày tiệc trong ngày rằm tháng tám đã trở thành phong tục của dân gian.Cũng có người cho rằng tục treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám âm lịch là do ở điển tích ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì ngày rằm tháng tám là ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng nên triều đình nhà Đường đã ra lệnh cho dân chúng khắp nơi trong nước treo đèn và bày tiệc ăn mừng. Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở thành tục lệ.Lại có chuyện kể rằng một vị tướng tên là Lưu Tú ở đời nhà Tây Hán, từ năm 206 trước Tây lịch tới năm 23 Tây lịch, trong lúc quân tình khốn quẫn đã cầu Thượng Đế giúp cho quân lính có đồ ăn để chờ quân tiếp viện. Sau khi cầu Thượng Đế, quân lính tìm được khoai môn và bưởi để ăn. Nhờ đó sau này Lưu Tú mới bình định được toàn quốc và lên làm vua tức là vua Quang Võ nhà Hậu Hán. Ngày mà Lưu Tú cầu được linh ứng là ngày rằm tháng tám. Từ đó nhà vua truyền lệnh cứ đến rằm tháng tám là làm lễ tạ trời đất và thưởng trăng bằng khoai môn và bưởi. Ngày lễ trọng thể vui tươi này được gọi là Tết Trung Thu. Tục lệ này được truyền sang Việt Nam và đã được người Việt sửa đổi để thích hợp với tính tình và phong tục Việt.Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê - Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa. Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, theo học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa, ở Á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Còn theo sách “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa Thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa Thu là mùa của thành hôn.Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân lúc tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi”, người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu.

Người Hoa và người Việt đều làm bánh trung thu để cúng, ăn, biếu thân bằng quyến thuộc, và đãi khách. Điểm chung kế tiếp là người Hoa và người Việt đều tổ chức rước đèn trong đêm trung thu.