Tài liệu nguyên lý kế toán cơ bản năm 2024

Hoạt động tổ chức và quản lý của các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân luôn cần những thông tin về các hoạt động kinh tế, tài chính một các đầy đủ, kịp thời, chính xác và có hệ

thống. Những thông tin này chỉ có thể có được thông qua hạch toán kế toán.

Với mục đích cung cấp những kiến thức cơ bản một cách toàn diện, có hệ thống và hiện đại về nguyên lý kế toán , Trung tâm đào tại Bưu chính Viễn thông I, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đã tổ chức biên soạn sách hướng dẫn học tập môn “Nguyên lý kế toán” nhằm đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu của sinh viên, đặc biệt là sinh viên hệ đào tạo từ xa, chuyên

ngành Quản trị Kinh doanh, Học viện Công Nghệ Bưu chính Viễn thông.

Nội dung cuốn sách được bố cục gồm 7 chương do Th. Vũ Quang Kết làm chủ biên. Mỗi chương được kết cấu thành 4 phần : phần mục tiêu nhằm giới thiệu khái quát những kiến mà sinh viên cần nắm bắt cụ thể của từng chương; phần nội dung được biên soạn theo trình tự, kết cấu, nội dung của môn học một cách chi tiết, cụ thể, với những ví dụ minh hoạ thực tế dễ hiểu;

phần tóm tắt nội dung nhằm nêu bật những khái niệm cơ bản, những nội dung cốt yếu của chương; phần câu hỏi và bài tập ôn tập có đáp án kèm theo giúp sinh viên luyện tập nhằm củng cố kiến thức đã học.

Cuốn được biên soạn trên cơ sở tham khảo các giáo trình, tài liệu phong phú của các trường đại học trong và ngoài nước đồng thời cập nhật chế độ kế toán, các chuẩn mực kế toán do Bộ Tài chính mới ban hành.

Qua 7 chương của cuốn sách, bạn đọc có thể nắm bắt một cách toàn diện các vấn đề của nguyên lý kế toán. Tuy nhiên, do tài liệu được biên soạn lần đầu nên không tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc, sinh viên và các giảng viên.

Xin chân thành cảm ơn!

Biên soạn THS. VŨ QUANG KẾT

xuất là biểu hiện những đối tượng đó bằng các đơn vị đo lường thích hợp (thước đo lao động, thước đo bằng tiền).

Tính toán là quá trình sử dụng các phép tính, các phương pháp tổng hợp phân tích để xác định các chỉ tiêu cần thiết, thông qua đó để biết được tiến độ thực hiện các mục tiêu, dự án và hiệu quả của hoạt động kinh tế.

Ghi chép là quá trình thu thập, xử lý và ghi lại tình hình, kết quả của các hoạt động kinh tế trong từng thời kỳ, từng địa điểm phát sinh theo một trật tự nhất định. Qua ghi chép có thể thực hiện được việc phản ánh và kiểm tra toàn diện, có hệ thống các hoạt động sản xuất xã hội.

Việc quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép kinh tế nói trên, nhằm thực hiện chức năng phản ánh và giám sát các hoạt động kinh tế gọi là hạch toán. Vì vậy hạch toán là nhu cầu khách quan của xã hội và là công cụ quan trọng phục vụ cho quản lý kinh tế. Hạch toán ra đời cùng với quá trình kinh tế với tư cách là do yêu cầu của sản xuất đòi hỏi phải có sự kiểm tra giám sát về lượng những hao phí và kết quả mà quá trình sản xuất tạo ra.

Như vậy, hạch toán là một hệ thống điều tra quan sát, tính toán, đo lường và ghi chép các quá trình kinh tế, nhằm quản lý các quá trình đó ngày một chặt chẽ hơn.

Với cách khái quát trên chúng ta có thể thấy hạch toán là một nhu cầu khách quan của bản thân quá trình sản xuất cũng như của xã hội, nhu cầu đó được tồn tại trong tất cả các hình thái xã hội khác nhau và ngày càng tăng, tuỳ theo sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, trong các hình thái xã hội khác nhau, đối tượng và nội dung của hạch toán cũng khác nhau, vì mỗi chế độ xã hội có một phương thức sản xuất riêng. Phương thức sản xuất thay đổi, làm cho toàn bộ cơ cấu kinh tế xã hội và chính trị thay đổi. Và như vậy, mục đích, phương pháp quan sát, đo lường và ghi chép cũng thay đổi cùng với sự thay đổi của phương thức sản xuất. Đồng thời cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, hạch toán cũng không ngừng được phát triển và hoàn thiện về phương pháp cũng như hình thức tổ chức. Điều này có thể dễ dàng nhận thức được thông qua việc nghiên cứu quá trình nảy sinh và phát triển của hạch toán kế toán.

Các nghiên cứu về các nền văn minh cổ sơ của các dân tộc như Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Hy Lạp và La Mã... đã chứng tỏ lịch sử của hạch toán có từ thời thượng cổ. Trong thời kỳ nguyên thuỷ, sản xuất chưa phát triển, nhu cầu và khả năng thu nhận thông tin chưa nhiều, hạch toán được tiến hành bằng các phương thức hết sức đơn giản: đánh dấu lên thân cây, buộc nút trên các dây thừng... để ghi nhớ các thông tin cần thiết. Cũng do sản xuất còn lạc hậu nên ở giai đoạn này chưa có của cải dư thừa, chưa hình thành các giai cấp khác nhau. Vì vậy, trong thời kỳ này hạch toán được sử dụng phục vụ lợi ích của toàn xã hội.

Khi xã hội chuyển sang chế độ nô lệ thì ý nghĩa nhiệm vụ của hạch toán cũng thay đổi. Hạch toán trước hết được sử dụng trong các trang trại để theo dõi kết quả sử dụng nô lệ và chiếm dụng lao động của nô lệ, để vơ vét được nhiều sản phẩm thặng dư. Ngoài ra hạch toán còn được sử dụng trong các phòng đổi tiền, các nhà thờ và trong lĩnh vực tài chính nhà nước.... để theo dõi các nghiệp vụ về giao dịch, thanh toán và buôn bán. Sổ kế toán đã xuất hiện thay cho cách ghi và đánh dấu của thời nguyên thuỷ.

Đến thời kỳ phong kiến, sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp với quy mô lớn gắn liền với sự ra đời của địa chủ và nông dân, với sự ra đời của địa tô phong kiến, với chế độ cho vay nặng lãi của địa chủ với nông dân..ững quan hệ kinh tế mới này đã nảy sinh và tác động đến sự phát triển tiếp theo của hạch toán kế toán với hệ thống sổ sách phong phú và chi tiết hơn.

Đáng chú ý là thời kỳ tư bản chủ nghĩa với sự phát triển nhanh chóng của thương nghiệp và sau đó cả nông nghiệp. Lúc này các quan hệ trao đổi, buôn bán được mở rộng đặt ra nhu cầu

phải hạch toán các mối quan hệ nảy sinh trong quá trình vận động của các tư bản cá biệt. Sự xuất hiện của các đối tượng mới này của kế toán lại là nguồn gốc cho sự ra đời của phương pháp đối ứng tài khoản trong kế toán. Cũng từ đó, phương pháp hạch toán kế toán đã được hình thành và ứng dụng rộng rãi gồm một hệ thống hoàn chỉnh: chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá, tổng hợp – cân đối kế toán. Tuy nhiên, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cùng với các quy luật kinh tế tương ứng lại hạn chế sự phát triển và tính khoa học của hạch toán kế toán. Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, với sự xuất hiện của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và với trình độ xã hội hoá cao của nền sản xuất, hạch toán kế toán mới trở thành môn khoa học chân chính và phát huy đầy đủ vị trí của mình. Về vị trí của hạch toán dưới chủ nghĩa xã hội V.Iênin đã khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội trước hết là hạch toán”.

Thật vậy, một nền sản xuất với quy mô ngày càng lớn, với trình độ xã hội hoá và sức phát triển sản xuất ngày càng cao, với yêu cầu quy luật kinh tế mới phát sinh... không thể không tăng cường hạch toán kế toán về mọi mặt. Đồng thời chế độ xã hội chủ nghĩa cũng tạo ra những tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng và toàn diện của hạch toán kế toán. Chế độ công hữu tư liệu sản xuất với động lực từ con người và mục tiêu vì con người sẽ tạo điều kiện phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong mọi lĩnh vực trong đó có hạch toán kế toán. Và như vậy chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hạch toán mới trở thành một công cụ để lãnh đạo nền kinh tế và phục vụ cho mọi nhu cầu của các thành viên trong xã hội.

1.1. Các loại hạch toán kế toán

  1. Các thước đo sử dụng trong hạch toán Nội dung chủ yếu của hạch toán là quan sát, đo lường, ghi chép để kiểm tra và quản lý các quá trình kinh tế. Vì vậy hạch toán phải sử dụng một số thước đo nhất định biểu hiện số lượng và chất lượng các loại tài sản, các nghiệp vụ kinh tế.

Trong hạch toán đã áp dụng 3 loại thước đo: hiện vật, lao động, giá trị. * Thước đo hiện vật Thước đo hiện vật dùng để xác định tài liệu về tình hình tài sản hiện có hoặc đã tiêu hao, mà phương thức sử dụng là cân, đong, đo, đếm ... Đơn vị đo hiện vật tuỳ thuộc vào tính tự nhiên của đối tượng được tính toán. Ví dụ: trọng lượng (kg, tạ, tấn), thể tích (m3), diện tích(ha), độ dài(mét) là những đơn vị đo lường hiện vật v. Sử dụng thước đo hiện vật để hạch toán vật tư tài sản và trong việc giám sát tình hình thực hiện các chỉ tiêu dự kiến về mặt số lượng, như số lượng vật dự trữ, số lượng vật liệu tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm, số lượng sản phẩm sản xuất ra v... Đồng thời thông qua chỉ tiêu số lượng cũng phản ánh về mặt chất lượng ở một mức độ nhất định. Tuy nhiên thước đo hiện vật cũng có mặt hạn chế, nó chỉ được sử dụng để xác định số lượng các vật phẩm có cùng chất lượng, nên nó không thể cung cấp được chỉ tiêu tổng hợp về mặt số lượng đối với các loại vật tư tài sản có chất lượng khác nhau.

* Thước đo lao động Thước đo lao động được sử dụng để xác định số lượng thời gian lao động hao phí trong một quá trình kinh doanh, một công tác nào đó. Đơn vị dùng để thể hiện là ngày công, giờ công... Dùng thước đo lao động để hạch toán giúp ta xác định được năng suất lao động của công nhân, có căn cứ để tính lương cho công nhân hoặc phân phối thu nhập cho xã viên.

Thường thước đo lao động được sử dụng cùng với thước đo hiện vật. Ví dụ: khi xác định và giám đốc tình hình định mức sản lượng, cần phải sử dụng đồng thời đơn vị đo lường hiện vật và đơn vị đo lường lao động.

Hạch toán kế toán ( hay còn được gọi là kế toán) là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về tài sản và sự vận động của tài sản trong các đơn vị nhằm kiểm tra toàn bộ tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị đó.

Theo điều 4, Luật kế toán Việt Nam “Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin về kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động”.

So với hạch toán nghiệp vụ và hạch toán thống kê thì hạch toán kế toán có những đặc điểm sau:

  • Hạch toán kế toán phản ánh và giám đốc một cách liên tục, toàn diện và có hệ thống về tình hình hiện có và sự vận động của tất cả các loại tài sản và nguồn hình thành tài sản trong các tổ chức, các đơn vị. Nhờ đó mà hạch toán kế toán thực hiện được sự giám đốc liên tục cả trước trong và sau quá trình sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn.
  • Hạch toán kế toán sử dụng cả ba loại thước đo nhưng thước đo tiền tệ là bắt buộc. Nghĩa là trong kế toán mọi nghiệp vụ kinh tế đều được ghi chép theo giá trị và biểu hiện bằng tiền. Nhờ đó mà hạch toán kế toán cung cấp được các chỉ tiêu tổng hợp phục vụ cho việc giám đốc thực hiện kế hoạch kinh tế tài chính
  • Hạch toán kế toán sử dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học riêng như chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá, tổng hợp -cân đối. Trong đó phương pháp lập chứng từ kế toán là thủ tục hạch toán đầu tiên và bắt buộc phải có đối với mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Nhờ đó mà số liệu do kế toán phản ánh bảo đảm tính chính xác và có cơ sở pháp lý vững chắc.

Ba loại hạch toán trên tuy có nội dung nhiệm vụ và phương pháp riêng, nhưng có mối quan hệ mật thết với nhau trong việc thực hiện chức năng phản ánh và giám đốc quá trình tái sản xuất xã hội. mối quan hệ này thể hiện ở chỗ:

  • Cả ba loại hạch toán đều nhằm thu thập, ghi chép và truyền đạt những thông tin về kinh tế tài chính, là những khâu cơ bản trong hệ thống thông tin kinh tế thống nhất. Mọi thông tin kinh tế trong đơn vị phải dựa trên cơ sở số liệu thống nhất do ba loại hạch toán cung cấp.
  • Mỗi loại hạch toán đều phát huy tác dụng của mình trong việc giám đốc tình hình thực hiện các kế hoạch kinh tế tài chính, nên cả ba đều là công cụ quan trọng để quản lý kinh tế, phục vụ đắc lực cho việc quản lý, điều hành và chỉ đạo của đơn vị cũng như của cấp trên.
  • Giữa ba loại hạch toán còn có quan hệ cung cấp số liệu cho nhau và quan hệ thống nhất về mặt số liệu trên cơ sở tổ chức công tác hạch toán ban đầu.
  1. Phân loại hạch toán kế toán

- Căn cứ vào cách ghi chép , thu nhận thông tin, hạch toán kế toán được chia thành kế toán đơn và kế toán kép

  • Kế toán đơn là loại hạch toán kế toán mà cách phân ghi chép, thu nhận thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính được tiến hành một cách riêng biệt, độc lập.
  • Kế toán kép là loại hạch toán kế toán mà cách ghi chép, thu nhận thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính được tiến hành trong mối quan hệ mật thiết với nhau.
  • Căn cứ vào tính chất thông tin được xử lý, hạch toán kế toán được chia thành kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết
  • Kế toán tổng hợp là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính được hạch toán kế toán thu nhận, xử lý ở dạng tổng quát và được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ.
  • Kế toán chi tiết là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính được hạch toán kế toán thu nhận, xử lý ở dạng chi tiết cụ thể và được biểu hiện không chỉ dưới hình thái tiền tệ mà còn được biểu hiện dưới hình thái hiện vật và lao động
  • Căn cứ vào phạm vi thông tin kế toán cung cấp, hạch toán kế toán được phân thành kế toán quản trị và kế toán tài chính.

+ Kế toán quản trị là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính được hạch toán kế toán thu nhận và xử lý với mục đích chủ yếu cung cấp thông tin cho các nhà quản trị bên trong doanh nghiệp phục vụ cho nhu cầu quản lý.

  • Kế toán quản trị là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính được hạch toán kế toán thu nhận và xử lý với mục đích chủ yếu cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị, các nhà tài trợ có liên quan đến hoạt động của đơn vị với những mục đích khác nhau.
  • Căn cứ vào đặc điểm mục đích hoạt động của đơn vị tiến hành hạch toán kế toán, hạch toán kế toán được chia thành kế toán công và kế toán doanh nghiệp.
  • Kế toán công: là loại kế toán được tiến hành ở các đơn vị hoạt động không có tính chất kinh doanh, không lấy lợi ích làm mục đích hoạt động.
  • Kế toán doanh nghiệp: là loại kế toán được tiến hành ở các doanh nghiệp hoạt động với mục đích chính là kinh doanh sinh lợi

1.1. Bản chất của hạch toán kế toán

Xuất phát từ tất cả những điều đã nêu trên có thể rút ra kết luận có liên quan đến bản chất của hạch toán kế toán như sau:

  • Thứ nhất : Hạch toán kế toán là một loại hạch toán, nghĩa là nó cũng thực hiện chức năng phản ánh, quan sát, đo lường ghi chép và giám đốc các quá trinh kế, nhưng nó khác với các loại hạch toán toàn diện liên tục và tổng hợp.
  • Thứ hai : Hạch toán kế toán nghiên cứu quá trình tái sản xuất trên góc độ cụ thể là tài sản với tính hai mặt(giá trị tài sản và nguồn hình thành) và tính vận động (tuần hoàn) trong các tổ chức, doanh nghiệp cụ thể. Trong điều kiện của sản xuất hàng hoá tài sản được biểu hiện dưới hình thái tiền, vì vậy trong hạch toán kế toán thước đo tiền tệ được sử dụng có tính bắt buộc.
  • Thứ ba : Trên cơ sở của phép biện chứng về nhận thức hiện thực khách quan và phù hợp với đối tượng độc lập của mình hạch toán kế toán xây dựng hệ thống phương pháp khoa học riêng gồm các yếu tố: Chứng từ kế toán, đối ứng tài khoản, tính giá, tổng hợp – cân đối kế toán.
  • Thứ tư : Vị trí, nội dung và phương pháp hạch toán quyết định hai chức năng của phân hệ hạch toán kế toán trong hệ thống quản lý là thông tin và kiểm tra về tài sản trong các tổ chức, các doanh nghiệp.

Vậy hạch toán kế toán là một hệ thống thông tin và kiểm tra về tài sản trong các doanh nghiệp, các tổ chức bằng hệ thống phương pháp khoa học như chứng từ, tính giá, đối ứng tài khoản và tổng hợp – cân đối kế toán.

1.1. Hạch toán kế toán trong hệ thống quản lý

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đều tìm mọi biện pháp để sản xuất ra sản phẩm với số lượng nhiều nhất, chất lượng cao nhất, chi phí thấp nhất và lãi xuất thu được nhiều nhất. Để đạt được mục tiêu này bất kỳ một người quản lý kinh doanh nào cũng phải nhận thức được vai trò của thông tin kế toán. Hệ thống các thông tin sử dụng để ra các quyết định quản lý được thu từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng thông tin kế toán đóng vai trò hết sức quan

  • Kế toán cũng giúp cho Nhà nước trong việc hoạch định chính sách, soạn thảo luật lệ; qua kiểm tra tổng hợp các số liệu kế toán, Nhà nước nắm được tình hình chi phí, lợi nhuận của các đơn vị từ đó đề ra được các chính sách về đầu tư thích hợp.

Người có lợi ích gián tiếp

Cơ Cơ quan Cơ quan ... quan chức năng thống kê Thuế

Hoạt động kinh doanh

Hoạt động kế toán

Nhà quản lý

  • Chủ doanh nghiệp
  • Hội đồng quản trị
  • Ban giám đốc

Người có lợi ích trực tiếp

  • Nhà đầu tư
  • Chủ nợ

Sơ đồ 1 : Đối tượng sử dụng thông tin kế toán

1.1. Yêu cầu của thông tin kế toán và nhiệm vụ của công tác kế toán

Là phân hệ thông tin trong hệ thống quản lý, hạch toán kế toán thu thập và cung cấp thông tin về tài chính, về kết quả kinh doanh làm cơ sở cho việc ra những quyết định quản lý. Để có được những quyết định chính xác, thông tin kế toán cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cơ bản là: chính xác, kịp thời, toàn diện và khách quan. Chính các phương pháp của hạch toán kế toán tạo ra khả năng thực hiện các yêu cầu nói trên.

Trong hệ thống quản lý này, hạch toán kế toán có chức năng thông tin và kiểm tra về tài sản các đơn vị hạch toán. Với chức năng và đối tượng đó, có thể xác định được những nhiệm vụ cơ bản của hạch toán kế toán như sau:

1 – Cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác các tài liệu về tình hình cung ứng, dự trữ, sử dụng tài sản từng loại ( tài sản cố định, tài sản lưu động...), trong quan hệ với nguồn hình thành từng loại tài sản đó, góp phần bảo vệ tài sản và sử dụng hợp lý tài sản của đơn vị hạch toán, khai thác khả năng tiềm tàng của tài sản.

2 – Giám sát tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp, công ty ... tình hình sử dụng nguồn kinh phí của các đơn vị sự nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh, hiệu quả nguồn vốn cấp phát..ên cơ sở thực hiện luật pháp và các chế độ thể lệ hiện hành.

3 – Theo dõi tình hình huy động và sử dụng các nguồn tài sản do liên kết kinh tế, giám sát tình hình thực hiện các hợp đồng kinh tế, các nghĩa vụ với Nhà nước, với cấp trên, với các đơn vị bạn.

Như vậy nhiệm vụ cơ bản của hạch toán kế toán là cung cấp thông tin về kinh tế tài chính cho những người ra quyết định. Để thực hiện tốt nhiệm vụ và chức năng của mình kế toán phải làm tốt các công việc sau đây:

  • Ghi nhận, lượng hoá và phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong một tổ chức, đơn vị kinh tế.
  • Phân loại, hệ thống hoá và tập hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
  • Tổng hợp và tính toán các chỉ tiêu thông tin theo yêu cầu quản lý trong và ngoài doanh nghiệp.
  • Cung cấp các số liệu để làm quyết định quản lý.

Qua các công việc cơ bản trên, ta thấy rằng kế toán là một khoa học, một kỹ thuật ghi nhận, phân loại tổng hợp và cung cấp số liệu về hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính của một đơn vị kinh tế, giúp cho các nhà quản trị đưa ra những quyết định thích hợp.

1 CÁC NGUYÊN TẮC KẾ TOÁN CHUNG ĐƯỢC THỪA NHẬN

Như ta đã nêu ở các phần trước chúng ta nhận thấy rằng công tác kế toán có vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp. Những nhà đầu tư, những nhà quản lý, nhà kinh tế,, chủ ngân hàng và những người quản lý Nhà nước đều dựa vào các báo cáo tài chính và các báo cáo kế toán khác ( thông tin kế toán) để đề ra các quyết định định hướng hoạt động kinh doanh cũng như nền kinh tế. Vì vậy, điều có tầm quan trọng sống còn là các thông tin đưa ra trong các báo cáo kế toán tài chính phải có độ tin cậy cao và rõ ràng.

Báo cáo tài chính được các doanh nghiệp lập và trình bày cho những người ngoài doanh nghiệp sử dụng. Mặc dù các báo cáo tài chính này ở một số nước có thể giống nhau, song chúng vẫn khác nhau vì nhiều nguyên nhân như các hoàn cảnh kinh tế, xã hội và pháp luật, ở mỗi nước khác nhau có các yêu cầu khác nhau của người sử dụng các báo cáo tài chính khi lập ra các chuẩn mực của quốc gia. Những hoàn cảnh khác nhau này dẫn tới việc sử dụng các khái niệm của yếu tố trong báo cáo tài chính thường rất đa dạng như là tài sản có, công nợ, vốn cổ phần, thu nhập, chi phí...Điều đó cũng dẫn đến việc sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau để hạch toán các mục trong báo cáo tài chính và các cơ sở khác nhau để đánh giá. Để đạt được tính nhất quán trong các nguyên tắc kế toán đang được các tổ chức kinh doanh và nhiều tổ chức khác trên thế giới áp dụng để lập báo cáo tài chính, năm 1973 một uỷ ban xây dựng các chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) đã được thành lập. Thành viên của uỷ ban này là tất cả các tổ chức kế toán chuyên nghiệp ở nhiều nước khác nhau tham gia. Uỷ ban chuẩn mực quốc tế (IASC) có sứ mệnh thu hẹp những sự khác biệt này bằng cách thống nhất các quy định, các thủ tục và chuẩn mực kế toán có liên quan đến việc lập và trình bày các báo cáo tài chính, nhằm mục đích cung cấp được các thông tin hữu ích hơn phục vụ cho việc ra quyết định kinh tế và đáp ứng được các yêu cầu cần thiết cho hầu hết người sử dụng. Bởi vì hầu hết những người sử dụng báo cáo tài chính là những người có chức năng ra các quyết định.

Các nguyên tắc kế toán là những tuyên bố chung như là các chuẩn mực và những sự hướng dẫn để phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính đạt được các mục tiêu: dễ hiểu, dáng tin cậy và dễ so sánh.

Những nguyên tắc làm “cơ sở” cho báo cáo tài chính được gọi là “Những nguyên tắc kế toán được chấp nhận”. Những nguyên tắc kế toán còn dựa vào các tiêu chuẩn, các giả thiết, các nguyên lý và khái niệm. Những thuật ngữ khác nhau được sử dụng để mô tả những nguyên tắc kế toán cho thấy rằng các nhà kế toán đã có nhiều cố gắng để trình bày 1 cách đầy đủ bộ khung của lý thuyết kế toán. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang ở trong quá trình xây dựng một cơ quan nghiên cứu đầy đủ về lý thuyết kế toán bởi vì lý thuyết về kế toán liên tục thay đổi tuỳ theo những thay đổi của môi trường kinh doanh và nhu cầu của những người sử dụng các báo cáo tài chính.

nghiệp vụ kế toán. Nguyên tắc tiền tệ có nghĩa là tiền được sử dụng như một đơn vị đo lường cơ bản trong các báo cáo tài chính.

Theo luận kế toán Việt nam, Đơn vị tiền tệ sử dụng trong kế toán ở Việt Nam là đồng Việt Nam (ký hiệu quốc gia là “đ”, ký hiệu quốc tế là “VND”). Trong trường hợp nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh là ngoại tệ, phải ghi theo nguyên tệ và đồng Việt Nam theo tỷ giá hối đoái thực tế hoặc quy đổi theo tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; đối với loại ngoại tệ không có tỷ giá hối đoái với đồng Việt Nam thì phải quy đổi thông qua một loại ngoại tệ có tỷ giá hối đoái với đồng Việt Nam.

1.4. Nguyên tắc kỳ kế toán:

Kỳ kế toán là khoảng thời gian nhất định mà trong đó các báo cáo tài chính được lập. Chúng ta thừa nhận một thời gian không xác định cho hầu hết các thực thể kinh doanh. Nhưng kế toán lại phải đánh giá quá trình hoạt động và những thay đổi về tình hình kinh tế của doanh nghiệp trong những thời kỳ tương đối ngắn. Những người sử dụng các báo cáo tài chính đòi hỏi phải có sự đánh giá thường kỳ về tình hình hoạt động để đề ra các quyết định và chính từ yêu cầu này đã dẫn đến sự cần thiết phải phân chia hoạt động của một doanh nghiệp thành nhiều phân đoạn như thành từng năm, từng quý, tháng....

Theo Luật kế toán Việt nam, kỳ kế toán gồm kỳ kế toán năm, kỳ kế toán quý, kỳ kế toán tháng và được quy định như sau:

  • Kỳ kế toán năm là mười hai tháng, tính từ đầu ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12 năm dương lịch.
  • Kỳ kế toán quý là ba tháng, tính từ đầu ngày 01 tháng đầu quý đến hết ngày cuối cùng của tháng cuối quý;
  • Kỳ kế toán tháng là một tháng, tính từ đầu ngày 01 đến hết ngày cuối cùng của tháng.

1.2. Nguyên tắc khách quan

Tài liệu do kế toán cung cấp phải mang tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thuật ngữ khách quan được đề cặp đến công cụ đo lường không thiên vị và công cụ đó là đối tượng để các nhà chuyên môn độc lập kiểm tra. Tính khách quan trong kế toán xuất phát từ yêu cầu phải đạt được độ tin cậy cao. Nhân viên kế toán muốn tính toán của mình đáng tin cậy và đồng thời thích hợp nhất cho những người ra quyết định. Bởi vậy thông tin kế toán phải được căn cứ trên dữ liệu khách quan.

1.2. Nguyên tắc chi phí (giá phí)

Đây là một trong những nguyên tắc căn bản của kế toán. Theo nguyên tắc này, việc tính toán tài sản công nợ, vốn, doanh thu, chi phí phải dựa trên giá trị thực tế mà không quan tâm đến giá thị trường.

Trong việc vận dụng nguyên tắc chi phí, chi phí được đánh giá trên căn cứ tiền mặt hoặc tương đương tiền mặt. Nếu vật đền bù cho 1 tài sản hoặc dịch vụ là tiền mặt thì chi phí được đánh giá hoàn toàn theo số tiền mặt chi ra để được tài sản hoặc dịch vụ đó. Nếu vật đền bù là loại gì khác với tiền mặt thì chi phí được đánh giá theo giá trị tiền mặt tương đương của số tiền cho sẵn hoặc giá trị tiền mặt tương đương của vật nhận được.

1.2. Nguyên tắc doanh thu thực hiện

Doanh thu là số tiền thu được và được ghi nhận khi quyền sở hữu hàng hoá bán ra được chuyển giao và khi các dịch vụ được thực hiện chuyển giao.

Trong một số trường hợp đặc biệt như mua bán bất động sản, bán tài sản trả tiền dần(trả góp) hay một số trường hợp đặc biệt khác, doanh thu có thể được xác định theo các phương pháp khác nhau như:

  • Theo số tiền thực thu.
  • Theo phương thức trả góp
  • Theo phần trăm hoàn thành.

1.2. Nguyên tắc phù hợp

Theo nguyên tắc này, chi phí để xác định kết quả kinh doanh trong kỳ là tất cả các giá phí phải gánh chịu trong việc tạo ra doanh thu, bất kể là giá phí xuất hiện ở kỳ nào, nó phải phù hợp với kỳ mà trong đó doanh thu được ghi nhận. Tức là chi phí trong kỳ phải phù hợp với doanh thu trong kỳ.

Ví dụ: Công ty ABC hoạt động kinh doanh ô tô. Trong tháng 5 công ty đã mua 5 chiếc ô tô với giá 600 triệu đồng/ chiếc. Tổng số tiền bỏ ra để mua là 3 triệu đồng. Trong tháng công ty bán được 3 chiếc với giá 800 triệu đồng/ chiếc. Trong tháng 5 công ty ghi nhận 2 triệu là doanh thu. Chi phí giá vốn được ghi nhận trong tháng 5 là 600 triệu đ x 3 = 1 triệu đ chứ không phải là 3000 triệu đồng.

1.2. Nguyên tắc nhất quán

Trong quá trình kế toán tất cả các khái niệm, các nguyên tắc, các chuẩn mực và các tính toán phải được thực hiện trên cơ sở nhất quán từ kỳ này sang kỳ khác.

Nguyên tắc nhất quán bao hàm ý nghĩa là một phương pháp kế toán, một khi đã được chấp nhận, thì không nên thay đổi theo từng thời kỳ. Điều này rất quan trọng, vì nó giúp cho những người dùng báo cáo tài chính hiểu được những sự thay đổi về tình hình tài chính. Nguyên tắc nhất quán không có nghĩa là một công ty không bao giờ thay đổi phương pháp kế toán của mình. Thực tế là công ty nên có sự thay đổi nếu những phương pháp kế toán mới sẽ tạo ra nhiều thông tin có ích hơn phương pháp hiện đang sử dụng. Nhưng khi có một sự thay đổi đáng kể trong phương pháp kế toán thì cần phải công bố đầy đủ ảnh hưởng của sự thay đổi đó về giá trị trong các báo cáo tài chính.

1.2. Nguyên tắc công khai

Các đơn vị kế toán phải công khai tất cả các tư liệu và sự việc có liên quan đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động phải được thông báo cho những người sử dụng. Điều này có thể ghi đầy đủ trong các báo cáo tài chính hoặc trong những giấy báo kèm theo các báo cáo. Sự công khai như vậy sẽ làm cho các báo cáo tài chính có ích hơn và giảm bớt các vấn đề bị hiểu sai.

1.2. Nguyên tắc thận trọng

Nguyên tắc này đảm bảo hai yêu cầu: Việc ghi tăng vốn chủ sở hữu chỉ thực hiện khi có chứng cớ chắc chắn, và việc ghi giảm vốn chủ sở hữu được ghi nhận ngay khi có chứng cớ có thể(chưa chắc chắn).

Nguyên tắc thận trọng theo qui định của Chuẩn mực số 1- Chuẩn mực chung (chuẩn mực kế toán việt nam) như sau:

  • Phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn;
  • Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập;
  • Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và các khoản chi phí;

doanh nghiệp, công ty, hợp tác xã, hộ tư nhân... Các đơn vị kinh tế này là những tế bào của nền kinh tế, là cơ thể sống vận động không ngừng. Đồng thời với quá trình sản xuất ra của cải vật chất, trong cơ thể sống này còn có cả quá trình liên tục sản xuất ra những thông tin vào và thông tin ra. Chính vì thế, mỗi đơn vị kinh tế có thể tự ví dụ như một cơ thể sống với hệ thần kinh phát triển cao, tự điều khiển lấy mọi hoạt động của mình theo một quỹ đạo chung và phù hợp với những quy luật chung. Trong cơ chế quản lý, các đơn vị này có tính độc lập(tương đối) về nghiệp vụ kinh doanh và về quản lý, tự bù đắp chi phí và bảo đảm kinh doanh có lãi.... Vì vậy nghiên cứu quá trình tái sản xuất trong phạm vi các đơn vị kinh tế này có ý nghĩa rất lớn về nhiều mặt, đồng thời cho ra khả năng tổng hợp những thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu quá trình tái sản xuất trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.

Ngoài các đơn vị kinh tế, các đơn vị sự nghiệp tuy không phải là những đơn vị kinh doanh nhưng cũng tham gia vào từng khâu của quá trình tái sản xuất xã hội (trực tiếp hoặc gián tiếp); cũng được giao một số vốn nhất định và cần sử dụng đúng mục đích có hiệu quả. Vì vậy các đơn vị cơ quan này cũng thuộc phạm vi nghiên cứu của đối tượng hạch toán kế toán.

Để hiểu rõ hơn đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán chúng ta cần đi sâu nghiên cứu vốn, trước hết trên hai mặt biểu hiện của nó là tài sản và nguồn hình thành tài sản và sau nữa là quá trình tuần hoàn của vốn. Để nghiên cứu được toàn diện mặt biểu hiện này, trước hết sẽ nghiên cứu vốn trong các tổ chức sản xuất vì ở các tổ chức này có kết cấu vốn và các giai đoạn vận động của vốn một cách tương đối hoàn chỉnh. Trên cơ sở đó chúng ta có thể dễ dàng xem xét các mặt biểu nêu trên trong các đơn vị kinh tế khác (Thương mại, tín dụng) và các đơn vị sự nghiệp.

Việc phân loại tài sản và nguồn vốn được thể hiện khái quát qua bảng 1: TÀI SẢN NGUỒN VỐN

Tài sản ngắn hạn

  • Tiền và các khoản tương đương tiền.
  • Đầu tư tài chính ngắn hạn
  • Các khoản phải thu ngắn hạn
  • Hàng tồn kho
  • Tài sản ngắn hạn khác

Nợ phải trả

  • Vay ngắn hạn
  • Nợ dài hạn đến hạn trả.
  • Phải trả người bán
  • Khách hàng trả trước
  • Thuế phải nộp Nhà nước
  • Phải trả công nhân viên
  • Phải trả nội bộ
  • Chi phí phải trả.
  • Cay dài hạn
  • Nợ dài hạn
  • Trái phiếu phát hành

Tài sản dài hạn

  • Tài sản cố định
  • Đầy tư tài chính dài hạn
  • Các khoản phải thu dài hạn
  • Bất động sản đầu tư
  • Tài sản dài hạn khác

Nguồn vốn chủ sở hữu

  • Vốn góp
  • Lãi chưa phân phối
  • Vốn chủ sở hữu khác

Bảng 1 : Phân loại tài sản và nguồn vốn

  1. Tài sản Để nghiên cứu quá trình tái sản xuất, hạch toán kế toán tiến hành nghiên cứu sự hình thành và vận động của vốn trong một đơn vị cụ thể. Bởi vì, bất kỳ một doanh nghiệp, một tổ chức hay thậm chí một cá nhân nào muốn tiến hành kinh doanh cũng đòi hỏi cần phải có một lượng vốn nhất định. Lượng vốn đó biểu hiện dưới dạng vật chất hay phi vật chất và được đo bằng tiền gọi là tài sản. Mặt khác, vốn của doanh nghiệp lại được hình thành (tài trợ) từ nhiều nguồn khác nhau gọi là nguồn vốn. Vì thế, để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán, cần tiến hành phân loại vốn của doanh nghiệp theo hai hình thái biểu hiện là tài sản và nguồn vốn hình thành của tài sản (nguồn vốn) cùng với quá trình vận động của vốn trong kinh doanh.

Tài sản là toàn bộ tiềm lực kinh tế của đơn vị, biểu thị cho những lợi ích mà đơn vị thu được trong tương lai hoặc những lợi ích mà đơn vị thu được trong tương lai hoặc những tiềm năng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn vị. Nói cách khác, tài sản là tất cả những thứ hữu hình hoặc vô hình gắn với lợi ích tương lai của đơn vị thoả mãn các điều kiện:

  • Thuộc quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát lâu dài của đơn vị.
  • Có giá trị thực sự đối với đơn vị
  • Có giá phí xác định Có nhiều cách phân loại tài sản trong các doanh nghiệp, nhưng nếu xem xét về mặt giá trị và tính chất luân chuyển của tài sản, thì toàn bộ tài sản của các doanh nghiệp được chia làm hai loại:

Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn của doanh nghiệp là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn của doanh nghiệp bao gồm vốn bằng tiền; các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn; các khoản phải thu; hàng tồn kho và tài sản lưu động khác.

Do tài sản lưu động được phân bổ ở nhiều khâu và nhiều lĩnh vực, đồng thời chúng lại chu chuyển nhanh nên việc phân bổ và sử dụng hợp lý loại tài sản này có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do tài sản lưu động có nhiều loại với tính chất, công dụng, mục đích sử dụng khác nhau nên cần được phân loại tỷ mỉ hơn.

Trước hết, xét theo lĩnh vực tham gia chu chuyển, tài sản lưu động được phân chia thành ba loại: Tài sản lưu động trong sản xuất, tài sản lưu động trong lưu thông và tài sản lưu động tài chính.

Tài sản lưu động trong sản xuất lại được phân bổ ở hai khâu dự trữ cho sản xuất và trong sản xuất.

  • Tài sản lưu động dự trữ cho sản xuất bao gồm các loại nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, công cụ, dụng cụ... đang dự trữ trong kho chuẩn bị cho quá trình sản xuất.
  • Tài sản lưu động trong quá trình sản xuất là giá trị các loại tài sản còn đang nằm trong quá trình sản xuất, gồm có nửa thành phẩm, sản phẩm dở dang(được gọi là chi phí sản xuất dở dang).

Tài sản lưu động trong lưu thông được phân thành tài sản dự trữ cho quá trình lưu thông, tài sản trong quá trình lưu thông.

  • Tài sản lưu động dự trữ cho quá trình lưu thông bao gồm thành phẩm, hàng hoá dự trữ trong kho hay đang gửi bán.
  • Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, chi trả, nhằm có được các lợi ích hoặc các nguồn có tính chất kinh tế, mà giá trị của chúng xuất phát từ các đặc quyền hoặc quyền của doanh nghiệp như quyền sử dụng đất, chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí chuẩn bị sản xuất, giá trị bằng phát minh sáng chế, chi phí nghiên cứu, phát triển, chi phí lợi thế thương mại...

Tài sản cố định vô hình cũng có thể được hình thành do doanh nghiệp tự đầu tư hoặc thuê dài hạn.

Mặt khác, theo hình thái biểu hiện kết hợp với tính chất đầu tư, toàn bộ tài sản cố định và đầu tư dài hạn được chia ra các loại sau:

  • Tài sản cố định hữu hình tự có đã và đang đầu tư: Là những tài sản cố định hữu hình thuộc quyền sở hữu của đơn vị mà đơn vị đã và đang đầu tư (kể cả xây dựng cơ bản dở dang).
  • Tài sản cố định vô hình tự có đã và đang đầu tư: là những tài sản cố định vô hình thuộc quyền sở hữu của đơn vị mà đơn vị đã và đang trong quá trình đầu tư.
  • Tài sản cố định thuê tài chính: Là những tài sản cố định mà đơn vị đi thuê dài hạn nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động của đơn vị.
  • Tài sản cố định tài chính là giá trị các khoản đầu tư tài chính dài hạn với mục đích kiếm lời như đầu tư góp vốn liên doanh dài hạn, chứng khoán dài hạn, cho thuê tài sản cố định dài hạn, đầu tư kinh doanh bất động sản.. Đây là khoản đầu tư có thời gian thu hồi vốn dài (trên một năm hay một chu kỳ kinh doanh).

Ngoài các loại trên, thuộc về tài sản cố định và đầu tư dài hạn còn bao gồm cả giá trị tài sản và tiền mà đơn vị dùng để thế chấp, ký quỹ, ký cược dài hạn.

  1. Nguồn hình thành tài sản (nguồn vốn) Xét theo nguồn hình thành, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn nợ phải trả.

*** Nguồn vốn chủ sở hữu:** Là số vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Nguồn vốn chủ sở hữu do chủ doanh nghiệp và các nhà đầu tư góp vốn hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh, do đó nguồn vốn chủ sở hữu không phải là một khoản nợ.

  • Tuỳ loại hình doanh nghiệp mà một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu vốn.
  • Đối với doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn hoạt động do Nhà nước cấp hoặc đầu tư nên Nhà nước là chủ sở hữu vốn.
  • Đối với doanh nghiệp liên doanh thì chủ sở hữu vốn là các thành viên tham gia góp vốn hoặc các tổ chức, cá nhân tham gia hùn vốn.
  • Đối với công ty cổ phần thì chủ sở hữu vốn là các cổ đông.
  • Đối với các doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu vốn là cá nhân hoặc một hộ gia đình. Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm:
  • Vốn góp do các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng để thành lập hoặc mở rộng kinh doanh và được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Số vốn này có thể được bổ sung, tăng thêm hoặc rút bớt trong quá trình kinh doanh.
  • Lợi nhuận chưa phân phối (lãi lưu giữ): Đây là kết quả của toàn bộ hoạt động kinh doanh. Số lợi nhuận này trong khi chưa phân phối được sử dụng cho kinh doanh và coi như một nguồn vốn chủ sở hữu.
  • Nguồn vốn chủ sở hữu khác: Là số vốn chủ sở hữu có nguồn gốc từ lợi nhuận để lại ( các quĩ doanh nghiệp, các khoản dự trữ theo điều lệ..) hoặc các loại vốn khác (xây dựng cơ bản, chênh lệch đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỉ giá....).

*. Nợ phải trả : Là số tiền mà các doanh nghiệp đi vay, đi chiếm dụng của các đơn vị, tổ chức, cá nhân, và do vậy doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả; bao gồm các khoản nợ tiền vay, các khoản nợ phải trả cho người bán, cho Nhà nước, cho nhân viên và cách khoản phải trả khác. Nợ phải trả của doanh nghiệp được chia ra nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.

  • Nợ ngắn hạn: là khoản tiền mà doanh nghiệp có trách nhiệm trả trong vòng một chu kỳ hoạt động kinh doanh bình thường hoặc trong vòng một năm. Các khoản nợ này được trang trải bằng tài sản lưu động hoặc bằng các khoản nợ ngắn hạn phát sinh. Nợ ngắn hạn bao gồm: vay ngắn hạn, phải trả cho người bán, người nhận thầu, thuế và các khoản phải nộp ngân sách, tiền lương, phụ cấp phải trả cho công nhân viên, các khoản nhận ký quĩ ký cược ngắn hạn và các khoản phải trả ngắn hạn khác.
  • Nợ dài hạn: là các khoản nợ mà thời gian trả nợ trên một năm, bao gồm: vay dài hạn cho đầu tư phát triển, nợ thế chấp phải trả, thương phiếu dài hạn, trái phiếu phải trả, thương phiếu phải trả, các khoản nhận ký cược ký quĩ dài hạn, các khoản phải trả dài hạn khác.
  1. Tuần hoàn của vốn kinh doanh. Trong quá trình tái sản xuất, vốn của các tổ chức sản xuất – kinh doanh vận động không ngừng qua các giai đoạn khác nhau. Qua mỗi giai đoạn vận động, vốn thay đổi cả về hình thái vật chất và giá trị.

Nghiên cứu sự vận động của sản xuất tư bản, C. Mác đã nêu công thức chung về tuần hoàn của tư bản sản xuất qua ba giai đoạn: Cung cấp(Mua hàng), sản xuất và tiêu thụ (bán hàng).

T - H..... H’ – T’

Trong giai đoạn cung cấp, các đơn vị kinh tế phải mua sắm những tư liệu sản xuất cần thiết để thực hiện kế hoạch sản xuất. Đó là quá trình chuẩn bị sản xuất theo phương án sản xuất đã được lựa chọn và khả năng thực tế của thị trường. Với mục đích đó, các đơn vị phải sử dụng vốn bằng tiền (tiền mặt, tiền gửi v...).

Kết quả là vốn dưới hình thái tiền tệ được chuyển thành vốn dự trữ cho sản xuất. Giai đoạn sản xuất là giai đoạn kết hợp giữa lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Như vậy, trong quá trình này luôn luôn tồn tại hai mặt đối lập: Chi phí chi ra và kết quả thu được. Chi phí chi ra bao gồm chi phí về lao động sống(V), chi phí khấu hao tài sản cố định(C1) và chi phí về vật liệu, dụng cụ nhỏ(C2). Kết quả thu được có thể biểu hiện dưới dạng thành phẩm, nửa thành phẩm, khối lượng công việc hoàn thành. Yêu cầu cơ bản của chế độ hạch toán kinh doanh là mỗi đơn vị phải tự bù đắp chi phí bằng kết quả kinh doanh của mình và đảm bảo có lãi. Trên cơ sở tìm biện pháp tăng nguồn thu và giảm chi phí, các doanh nghiệp mới có khoản thu nhập dôi ra này. Như vậy ở giai đoạn này, vốn của doanh nghiệp không chỉ biến hoá về hình thái mà còn thay đổi về lượng giá trị, tạo ra lượng giá trị mới của sản phẩm hàng hoá.

Giai đoạn cuối cùng là giai đoạn tiêu thụ. Ở đây, vốn của doanh nghiệp được chuyển hoá từ hình thái hàng hoá(thành phẩm) sang hình thái tiền tệ với số tiền lớn hơn số vốn ứng ra ban