Văn 10 tập 2 bài phú sông bạch đằng năm 2024

Phân tích đoạn 2 của Phú sông Bạch Đằng cung cấp 4 bài văn mẫu hay giúp học sinh đạt điểm cao. Nó mang lại nhiều ý tưởng và từ vựng phong phú cho các bạn lớp 10 khi làm văn. Dưới đây là nội dung 4 bài phân tích đoạn 2 Phú sông Bạch Đằng, mời các bạn cùng tham khảo.

Gợi ý phân tích đoạn 2 bài Phú sông Bạch Đằng

- Các bô lão trong bài thơ có thể là nhân vật có thật hoặc do sự sáng tạo của tác giả.

- các bô lão đóng vai trò là người kể lại và nhận xét về những chiến công xưa.

- Lời kể theo trình tự thời gian tái hiện cảnh chiến trận xưa với không khí sôi động “Thuyền tàu đầy đội – gươm sáng chói rơi”.

+ Kẻ thù hùng hổ và hung hăng “Tất Liệt … từ bốn phương.”

+Trận đánh diễn ra gay gắt “Trận thư hùng … xung đột gay gắt”

- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn

+ Hình ảnh, điển tích được lựa chọn một cách tỉ mỉ.

+ So sánh ẩn dụ đặt chiến công của chúng ta ngang hàng với những trận chiến mang tính chất lịch sử của Trung Quốc.

+ Lời kể súc tích, chặt chẽ mang tính tổng quát.

+ Các câu văn dài ngắn khác nhau thể hiện rõ ràng tâm trạng và diễn biến của trận đánh: câu dài tạo không khí trang trọng nghiêm túc: “Đây là nơi chiến địa ... phá Hoằng Thao.”, câu ngắn gọn sắc bén tạo nên khung cảnh chiến trận căng thẳng khốc liệt: “Thuyền bè ... sáng chói.”

- Hai câu cuối đoạn 2: Đó là nỗi xấu hổ vì người ngày nay, trong đó có cả tác giả, không giữ được truyền thống của tổ tiên.

Phân tích đoạn 2 của Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 1

Mỗi người chúng ta thường có một nơi riêng để gửi gắm kí ức. Các nhà văn, nhà thơ cũng vậy, họ thường chọn một miền đất hoặc một con sông. Trong thế kỉ XIV, văn học trung đại của dân tộc có một nhà thơ như vậy, đó là Trương Hán Siêu - nhà thơ đắm lòng với sông Bạch Đằng oai hùng qua tác phẩm nổi tiếng Phú sông Bạch Đằng. Có lẽ tất cả tâm tư của ông đã được dồn vào dòng sông bất diệt đó để tạo nên một tác phẩm đỉnh cao của văn học dân tộc. Đặc biệt, đoạn 2 của bài phú đã cho thấy lòng tự hào và những chiến công trên sông Bạch Đằng.

Phú sông Bạch Đằng (còn được gọi là Bạch Đằng giang phú) được dự đoán ra đời khoảng 50 năm sau chiến thắng của nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên. Sông Bạch Đằng từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ như Trần Minh Tông, Nguyễn Sưởng, và sau này là Nguyễn Trãi. Nhưng Trương Hán Siêu đã mang đến một cảm xúc chân thực, thiết tha và hoài niệm trong Phú sông Bạch Đằng, khơi dậy niềm tự hào và lòng yêu nước, khẳng định tư tưởng nhân văn cao đẹp. Có nhiều ghi chú cho rằng, Trương Hán Siêu viết bài phú này vào thời điểm đất nước đang suy thoái dưới thời hậu Trần.

Là một trọng thần uyên thâm, có tính cách đức độ, Trương Hán Siêu đã trải qua thời kỳ của bốn vị vua Trần, được vua tôn kính và gọi là 'thầy'. Trước tình hình đất nước, ông cảm thấy chán nản và tự do du hành khắp nơi. Điểm đến của ông không thể nào khác chính là sông Bạch Đằng để nhớ về thời kỳ hoàng kim của dân tộc. Bởi vậy, bài phú của ông toát lên dư vị của một nghệ sĩ lãng tử, một sử gia hoài cổ và một tâm hồn nhân thế thầm kín. Phú sông Bạch Đằng có cấu trúc 4 đoạn và thể hiện tốt phong cách cổ điển, với sự đối đáp giữa nhân vật 'khách' và nhân vật 'bô lão' được tác giả sáng tạo. Tuy nhiên, tâm trạng của nhân vật 'khách' được thể hiện rõ ràng từ khi đặt chân tới sông Bạch Đằng đến khi lắng nghe những câu chuyện hùng vĩ về chiến công trên sông Bạch Đằng từ các bô lão. Ở đoạn 2, các bô lão xuất hiện để tạo ra vẻ tự nhiên của cuộc trò chuyện. Đây có thể là những người dân địa phương mà tác giả gặp trên đường, hoặc là nhân vật mà tác giả tưởng tượng để diễn đạt tâm trạng của mình một cách khách quan hơn.

Với thái độ nhiệt tình và hiếu khách, các bô lão kể cho khách nghe về chiến công Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã, về trận Ngô chúa phá Hoằng Thao, là những chiến thắng oanh liệt của quân dân ta trên sông Bạch Đằng. Các trận đánh từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo được tái hiện. Điều đó cho thấy dân tộc ta luôn phải đối mặt với quân xâm lược phương Bắc và vận nước nhiều lúc lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc. Các bô lão kể lại diễn biến của từng trận đánh. Ngay từ đầu, quân ta và quân địch đã tập trung lực lượng cho một trận đánh quyết liệt. Nghệ thuật đối đáp nêu bật không khí chiến trận bừng bừng: Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới, Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói, Trận đánh được thua chửa phân, Chiến lũy bắc nam chống đối. Đó là sự đối đầu không chỉ về lực lượng mà còn về ý chí: quân dân ta với lòng yêu nước và sức mạnh chính nghĩa; quân địch thì thế cường với bao mưu ma chước quỷ. Điều đó đã tạo nên cuộc chiến ác liệt.

Ánh mặt trời, ánh trăng đã phai mờ, Bầu trời, bầu đất dường như sắp thay đổi.

Những hình ảnh này tượng trưng cho sự vĩ đại của vũ trụ, đặt trong một bối cảnh tương phản: ánh sáng mặt trời, ánh sáng trăng mờ đi, bầu trời, bầu đất sắp chuyển biến. Đây là dấu hiệu của một cuộc chiến tranh lớn lao giữa thiên nhiên và con người. Nguyên nhân của cuộc đối đầu quyết liệt này chính là mưu mô tinh vi của quân xâm lược phương Bắc, bất kể thời gian khác nhau nhưng đều có mục đích chung là chiếm đất nước Đại Việt: Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối. Những kẻ này tưởng rằng chỉ cần một trận đánh là có thể thống trị bốn phương, chinh phục nước Nam. Tác giả nhấn mạnh sức mạnh kinh khủng của quân Nguyên - một lực lượng rất tinh nhuệ dưới sự lãnh đạo của Hốt Tất Liệt, đồng thời cũng nhắc lại về những chiến công của Ngô Quyền, Lưu Cung, vua Nam Hán, thể hiện sự lừa dối để xâm lược nước Nam. Điều này giống như trận Bồ Kiên của nước Tần khi họ tuyên bố khi đưa quân vào nước Tấn: “Chỉ cần số quân của chúng ta ném roi ngựa xuống sông cũng có thể ngăn dòng nước”. Tác giả sử dụng ý tưởng này để nói về sự ngạo mạn của những kẻ xâm lược, tưởng rằng chỉ cần một trận đánh là có thể chinh phục bốn phương, thống trị nước Nam. Tuy nhiên, họ không ngờ rằng quân dân nhà Trần sẽ có sức mạnh đáng sợ được ủng hộ bởi trời đất: Thế nhưng: Trời cũng ủng hộ người chính nghĩa, Những kẻ xâm lược hết đường! Bằng cách sử dụng từ ngữ hùng vĩ và phong cách nghiêm trọng, tác giả đã so sánh chiến thắng trên sông Bạch Đằng với những trận chiến thủy điển hình nhất trong lịch sử phương Bắc: Khác nhau như thế nào so với xưa: Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay, Trận Hợp Phì, quân Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Hình ảnh tan tác tro bay và hoàn toàn chết trụi nhấn mạnh tính khốc liệt của trận chiến và sự thất bại thảm hại của quân địch. Theo quy luật của thiên địa, người chính nghĩa sẽ chiến thắng cuối cùng, còn những kẻ hung đồ sẽ không thể trốn tránh khỏi sự trừng phạt: Đến nay nước vẫn chảy, Nhưng nhục của quân thù không bao giờ được xóa! Làm mới lại công lao, ca tụng hàng ngàn năm. Hình ảnh: Đến nay nước vẫn chảy mãi, đối lập với hình ảnh Nhưng nhục của quân thù không bao giờ được xóa. Câu thơ vừa diễn đạt sự thật, vừa kích thích trí tưởng tượng so sánh thú vị. Dòng nước vẫn tiếp tục chảy, thời gian trôi đi, nhưng quân thù đã thất bại mãi mãi không thể xoá nhục. Đây là một bài học quý giá về việc tỉnh ngộ trước tham vọng xâm lược phi nghĩa. Ngoài ra, những câu thơ này cũng khẳng định sức mạnh và niềm tự hào sâu sắc của dân tộc chiến thắng. Thái độ, giọng điệu của các bô lão khi kể về chiến công trên sông Bạch Đằng đầy tự hào, truyền cảm hứng cho tác giả. Lời kể không dài dòng mà ngắn gọn, súc tích, tuy khái quát nhưng vẫn gợi lên được diễn biến, không khí của trận đánh một cách sống động. Các câu trong đoạn này có độ dài khác nhau nhưng đều mang sự hào hùng, mạnh mẽ.

Phú sông Bạch Đằng là một ví dụ xuất sắc về nghệ thuật phú trong văn học Việt Nam thời Trung đại: cấu trúc đơn giản nhưng hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, văn phong linh hoạt, hình ảnh nghệ thuật sống động, chứa đựng triết lí sâu sắc. Ngôn từ vừa trang trọng, hùng vĩ, vừa trầm tư, gợi cảm. Sự trọng đại của bài phú được thể hiện qua niềm phấn khích lịch sử, những chiến công oanh liệt, và những tưởng nhớ về dòng sông nổi tiếng. Phú sông Bạch Đằng có thể được coi là một tác phẩm điển hình của văn học thời Lí - Trần. Bài phú đã thể hiện tình yêu nước và niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất cũng như triết lí nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam.

Phân tích đoạn 2 của bài Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 2

Trương Hán Siêu là một danh nhân văn hoá thời Trần, ông sinh ra ở Yên Ninh – nay thuộc thành phố Ninh Bình. Là người có tài về cả chính trị lẫn văn chương, ông có học vấn uyên bác, tri thức sâu rộng và tính cách hết sức cương trực, thẳng thắn. Lại vốn là môn khách của Trần Hưng Đạo, được giao phó các chức quan quan trọng trong cả bốn đời vua Trần và có nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. Bởi lẽ đó ông rất được các vua Trần kính trọng, tôn gọi là Thầy, khi mất được truy tặng chức Thái Bảo, Thái Phó và được thờ tại văn miếu Quốc Tử Giám. Sinh thời, ông để lại nhiều tác phẩm, hiện còn 17 bài thơ và 2 bài văn xuôi, trong đó xuất sắc nhất phải kể đến bài “Phú Sông Bạch Đằng” – áng thiên cổ hùng văn của lịch sử văn học Việt Nam. Sông Bạch Đằng có lẽ chẳng phải xa lạ gì với mỗi người con dân đất Việt. Đây là địa danh đã bao lần đi vào lịch sử với những mốc son chói lọi, đây cũng là nơi đã khơi gợi nhiều cảm hứng cho các tác giả, các thi nhân yêu nước đương thời. Ta có thể kể đến “Bạch Đằng Giang” của Trần Minh Tông, cũng biết đến “Bạch Đằng Giang Phú” của Nguyễn Mộng Tuân, hay “Bạch Đằng hải khẩu” của Nguyễn Trãi. Đó đều là các tác phẩm có tiếng tăm ở thời trung đại bấy giờ, tuy nhiên giữa những tác phẩm viết về địa danh sông Bạch Đằng thì tác phẩm “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu lại nổi lên như một tác phẩm xuất sắc nhất về bãi chiến địa lịch sử oai hùng này.

Tác phẩm của ông là tiêu biểu cho tình yêu và niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên con sông Bạch Đằng, đồng thời khắc họa một cách chân thật và sinh động, hào hùng những cuộc chiến đẫm máu đầy anh dũng của nhân dân ta ngày xưa thông qua đoạn thứ hai của bài phú.

Đoạn thơ bắt đầu với hình ảnh các bô lão lê gậy bái phỏng kẻ làm khách:

“Bên sông bô lão hỏi, Hỏi ý ta sở cầu. Có kẻ gậy lê chống trước, Có người thuyền nhẹ bơi sau”

Các bô lão có thể là những hình ảnh thực, những con người mà tác giả gặp trên sông, cũng có thể chỉ là sự hư ảo từ chính những tâm tư, tình cảm của tác giả tạo lên. Tuy nhiên, dù là thật hay ảo thì với hình ảnh các bô lão, tác giả đã gợi cho người đọc nhớ về hình ảnh của điện Duyên Hồng năm xưa với lời đồng thanh: “quyết đánh” đầy hào hùng như tạo điểm nhấn để đưa người đọc quay về con đường lịch sử, trở về với quá khứ, để rồi theo lời của các bô lão ấy mà làm sống lại những trang sử oai hùng một thời:

“Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã, Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”

Các bô lão kể về cuộc chiến của Trần Hưng Đạo năm 1288 – trận chiến với chiến thắng vang dội khi bắt sống được Ô Mã và tiêu diệt hàng vạn quân xâm lược, khiến cho:

“Bạch Đằng một cõi chiến tràng, Xương bay trắng đất, máu màng đỏ sông.”

Nhưng cũng lại không quên ngược dòng lịch sử để nhấn mạnh thêm về trận chiến của Ngô Quyền năm 938 khi đã dùng mưu đại phá quân Nam Hán một cách tài tình. Qua đó nói lên rằng nơi đây, Sông Bạch Đằng là thánh địa lưu dấu muôn trùng chiến công của dân tộc, để khẳng định rằng đây là chiến địa đáng tự hào trên đất Việt ta.

Từ nhịp thở dài, nhẹ nhàng, hoài niệm, tác giả chuyển qua nhịp thơ ngắn, xúc tích, tạo lên vẻ hào hùng, dứt khoát để khắc hoạ lên khí thế hùng hồn của thế chiến thời bấy giờ:

“Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới, Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.”

Với các con số ước lệ chỉ những sự vô cùng, vô tận và biện pháp phóng đại hùng biện, các hình ảnh đối lập giữa địch và ta làm cho người đọc tưởng chừng có thể chứng kiến đội quân ta ngày ấy, hùng mạnh, anh dũng, khí thế ngút trời. Dòng sông như sôi sục với muôn đội thuyền bè, chiến trường tráng liệt nhuộm một màu tinh kỳ rực rỡ. Thế nhưng thế sự khó lường khi hai bên ta địch cân sức cân tài, khí thế ta là thế, nhưng địch lại chẳng kém quân ta khi mà:

“Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối, Những tưởng gieo roi một lần, Quét sạch Nam bang bốn cõi!”

Tác giả đã mượn điển tích Bồ Kiên của nước Tần, mượn ý này để cho ta thấy rõ khí thế quân Nguyên khi vào đánh nước ta – quân đông tướng mạnh, tự tin vào thực lực của bản thân, khí thế cũng rềnh vang một cõi, càng tôn lên thói hống hách, ngạo mạn của bọn chúng. Bởi khí thế hai bên chẳng ai nhường ai, cân sức, ngang tài cho nên không chỉ tạo ra một màn mở đầu gây cấn mà còn tạo nên một trận đánh gay go, ác liệt, bất phân thắng bại. Trận đánh đó làm cho đất trời phải rung chuyển, thế sự phải xoay vần:

“Trận đánh được thua chửa phân, Chiến luỹ bắc nam chống đối. Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu trời đất chừ sắp đổi.”

Một trận đánh có thể nói là “kinh thiên động địa”, Trương Hán Siêu đã dùng lời lẽ làm ta hình dung ra tầm vóc của trận đánh tựa như sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, là một trận đánh lớn lao và cao cả. Tưởng tượng trước mắt hiện ra một chiến trường khói lửa, gươm giáo đẫm máu, tiếng ngàn quân hô hào, tiếng trống trận thúc giục, tiếng vó ngựa, voi gầm. Người phải nằm xuống, kẻ vẫn anh dũng xông thẳng về trước, thiện chiến giết giặc. Những chiếc thuyền giặc lần lượt vỡ tan, chìm xuống dòng sông chảy nhuộm màu đỏ thẫm một trời. Thông qua nét bút tinh tế, những chi tiết phóng bút, khoa trương nhưng rất thần tình như vẽ lên một bức tranh sống, có âm thanh, có hình ảnh, có màu sắc, tô đậm một trang sử vang dội, chói lọi.

Phần kết cả bức tranh hào hùng ấy, tác giả tạo một nét chấm phá dứt khoát, khẳng định một chiến thắng vẻ vang của dân tộc:

“Thế nhưng: Trời cũng chiều người, Hung đồ hết lối! Khác nào như khi xưa: Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay, Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”

Tác giả lại tiếp tục nhắc đến điển tích về hai trận đánh Xích Bích của Tào Tháo và Hợp Phì của Bồ Kiên – hai trận đánh nổi tiếng của những nhân vật lỗi lạc trong lịch sử để nhấn mạnh sự thất bại nhục nhã của giặc. Cả Tào Tháo và Bồ Kiên đều là những tướng tài, quân giặc thời bấy giờ cũng hùng hổ, khí thế tựa như quân Nam Hán ngạo mạng mà kéo quân sang nước ta. Bằng cách đề cao giặc để càng làm sáng rõ lên sức mạnh của dân ta, tác giả dùng phép so sánh hết sức tài tình khi đem so sánh kẻ thù với những nhân vật lỗi lạc, những con người tài giỏi, đặt chúng trong hoàn cảnh của những trận đánh to lớn trong lịch sử để rồi cuối cùng vẫn thất bại thảm hại trước chúng ta, trước những con dân đất Việt. Từ đó càng nhấn mạnh thêm chiến thắng oai hùng của ta và tô đậm sự thất bại nhục nhã của giặc.

Sông Bạch Đằng có lẽ chẳng phải xa lạ gì với mỗi người con dân đất Việt. Đây là địa danh đã bao lần đi vào lịch sử với những mốc son chói lọi, đây cũng là nơi đã khơi gợi nhiều cảm hứng cho các tác giả, các thi nhân yêu nước đương thời

Với giọng điệu đầy nhiệt huyết mang âm hưởng hào hùng, khí thế tự hào, tác giả đã thành công kể lại cuộc chiến nơi bãi sông Bạch Đằng một cách sinh động và hào khí. Thông qua cách hình ảnh phóng đại, so sánh đầy tài tình kết hợp với các điển cố, điển tích trong lịch sử càng làm nâng cao tầm vóc của cuộc chiến, từ đó làm vang dội cuộc chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Qua đó ca ngợi nhân dân ta, ca ngợi cuộc chiến thắng anh dũng và bộc lộ niềm tự hào, tình yêu nước mãnh liệt của tác giả trước con sông Bạch Đằng vĩ đại chảy dài theo dòng lịch sử.

Phân tích Phú sông Bạch Đằng đoạn 2 - Mẫu 3

Bài phú trên sông Bạch Đằng là một bài ca bất hủ, một áng văn xuôi mẫu mực được xếp vào hàng 'thiên cổ hùng văn' của văn học nước nhà. Trương Hán Siêu bằng hiểu biết sâu rộng và ngòi bút đầy tài hoa của mình đã khắc hoạ nên một cảnh tượng chiến đấu trên sông Bạch Đằng đầy hào hùng, sống động và vô cùng chân thực. Qua lời kể các bô lão, trận chiến như diễn ra trước mắt người đọc đầy khí thế, oanh liệt.

Nếu như nhân vật khách là kẻ đã đi nhiều nơi, chu du khắp thiên hạ, vui thú trước bao cảnh nước non kì vĩ của thế giới thì nhân vật các bô lão là những người đã chứng kiến trận chiến giữa quân dân Trần Hưng Đạo trên sông Bạch Đằng trong cuộc chiến của quân Mông - Nguyên nói riêng và hàng loạt chiến thắng của dân tộc ta trên dòng sông này nói riêng. Bởi vậy, khi nhân vật khách trầm tư, hoài cảm, tỏ ý thương tiếc thì các bô lão bằng kinh nghiệm của mình đã hiểu ý khách có điều đang thắc mắc, băn khoăn bèn cất lên tiếng chào như một câu hỏi thân thương:

'Bên sông bô lão hỏi, Hỏi ý ta sở cầu.'

Các bô lão bằng sự nhiệt thành, lòng hiếu khách, trân trọng những vị khách ghé thăm đã đóng vai trò như một 'vị hướng dẫn viên du lịch', giới thiệu chiến địa trên sông Bạch Đằng và cảnh chiến trận trên sông đầy cụ thể, sinh động. Là người dân địa phương, họ vô cùng tự hào trước chiến công hiển hách ấy, kể lại bằng giọng điệu vừa phấn khởi và vô cùng xúc động.

Mở đầu, nhân vật các bô lão kể về trận chiến vua Trần bắt tên Ô Mã cầm đầu, và đây cũng là nơi mà vua Ngô đại phá quân Hoằng Thao, là dòng sông đã kinh quá nhiều chiến trận. Trận chiến của vua tôi Trần Hưng Đạo được chuẩn bị vô cùng kỹ lưỡng, cẩn thận và chu đáo. Không khí chiến trận đầy quyết liệt:

'Đương khi ấy: Thuyền tàu muôn đội, Tinh kì phấp phới. Hùng hổ sáu quân, Giáo gươm sáng chói.Trận đánh được thua chửa phân, Chiến luỹ bắc nam chống đối. Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu trời đất chừ sắp đổi.'

Đội quân chiến đấu vô cùng hùng mạnh, vũ khí giáo gươm sáng chói, phương tiện thuyền bè nhiều vô kể, khí thế dũng mạnh ngút trời, cờ chiến tung bay phấp phới giữa trời trận mạc. Cuộc chiến đấu khiến cho ánh nhật nguyệt cũng phải mờ, bầu trời ước chừng đổ sập. Đó là trận chiến mà cả hai bên đều khó phân thắng bại, kẻ tám lạng người nửa cân, ngang sức , ngang tài.

Theo lời các bô lão, mỗi bên tham chiến theo sách lược khác nhau. Quân giặc vạn binh, lực lượng mạnh lại thêm mưu hèn kế bẩn, dối trá gian manh. Kiêu ngạo, khoác lác, hống hách:

'Kìa:Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối. Những tưởng gieo roi một lần, Quét sạch Nam bang bốn cõi.'

Còn quân ta là phe chính nghĩa, lực lượng hùng hậu cũng không kém lại được lòng người, thuận ý trời, trên dưới đoàn kết một lòng. Như đạo lí ở đời, kẻ cường bạo ắt phải chịu nhục nhã, phe chính nghĩa nhận thắng lợi về tay. Quân ta thắng lợi vẻ vang, nghìn năm lưu danh sử sách, lúc này lời các bô lão đầy hứng khởi, tự hào:

'Thế nhưng: Trời cũng chiều người, Hung đồ hết lối Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay, Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi. Đến nay sông nước tuy chảy hoài, Mà nhục quân thù khôn rửa nổi. Tái tạo công lao, Nghìn xưa ca ngợi.'

Dù cho nước sông ngàn năm vẫn chảy mãi thì nỗi nhục quân thù vẫn ngàn năm chẳng thể phai. Dùng các trận thua đau đớn của Tào Tháo trong trận Xích Bích, Bồ Kiên thất bại ở Hợp Phì để mỉa mai quân địch và ca ngợi thắng lợi của ta. Các bô lão khẳng định thêm một lần nữa khẳng định về tính chất chính nghĩa của cuộc chiến dân tộc. Đó là chân lí đời đời sáng rõ.

Trong niềm hân hoan chiến thắng ấy, các bô lão đã tự ca ngợi, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với người lãnh đạo tài ba. Giặc thất bại là nhờ thế đất hiểm trở, nhân kiệt tài năng, thông minh mưu lược, dũng cảm nơi chiến địa. Con người tài đức sức mạnh và trí tuệ là yếu tố tiên quyết của thắng lợi này.

Qua việc tưởng nhớ và suy ngẫm của các nhân vật trong bài thơ 'chủ - khách', hào khí Đông A hùng vĩ và lịch sử thời nhà Trần được tái hiện. Trương Hán Siêu đã tinh tế tạo dựng hình ảnh sông Bạch Đằng hùng vĩ trong quá khứ và một Bạch Đằng yên bình, u buồn sau những chiến công đó để thế hệ sau này vẫn tự hào, ghi nhớ về di sản lịch sử và chiến công vĩ đại của tổ tiên.

Phân tích Phú sông Bạch Đằng đoạn 2 - Mẫu 4

Dòng sông Bạch Đằng vẫn chảy mạnh mẽ, còn Đằng Giang chảy máu vì danh dự, và kẻ thù nhục nhã nhận ra sự vĩ đại của những chiến công trên sóng nước Bạch Đằng! Đó là những lời nhận xét đầy tâm huyết của Trương Hán Siêu về ý nghĩa của những chiến công trên sông Bạch Đằng. Sự truyền cảm hứng cho tác phẩm bắt nguồn từ sự hùng vĩ của Bạch Đằng, được kết hợp với tâm trạng hoài cổ và quan tâm đến thời kỳ đó. Điều đặc biệt là cách tác giả biến tấu nội dung một cách tinh tế, với một kỹ thuật viết nghệ thuật tinh tế được thể hiện qua hình ảnh của các cụ già.

Trong đoạn 1, nhân vật 'khách' đại diện cho bản thân của nhà văn, trong khi ở đoạn 2, nhân vật các cụ già đại diện cho cộng đồng, vừa là biểu tượng của người dân địa phương, vừa là những người đã tham gia trực tiếp vào cuộc chiến, đồng thời cũng là phần phản ánh của tác giả. Sự xuất hiện của họ làm cho việc mô tả trận chiến trở nên sống động hơn, đồng thời sự chuyển đổi ý kiến diễn ra tự nhiên. Nhân vật các cụ già là những bằng chứng lịch sử, từ đó tạo nên các trận chiến trên sông Bạch Đằng (qua cách kể). Họ đại diện cho những người dân địa phương. Ngay từ đầu, các cụ già giới thiệu cho khách biết: Đây là nơi trận chiến của Trùng Hưng, nơi hai vị anh hùng bắt được Ô Mã và cũng là nơi mộ đất của Ngô chúa phá Hoằng Thao. Bằng hai câu dài (mỗi câu 12 âm tiết), tác giả xây dựng một không gian nghệ thuật đầy ấn tượng với sự uy nghi và trang trọng như một bước nền vững chắc để bước vào trận chiến ở phần sau.

Trận chiến trên sông được miêu tả với những câu ngắn từ 4 đến 6 âm tiết.

Mỗi thuyền bè như một đội quân, Phấp phới trong ánh nắng. Chúng ta hãy học hỏi từ ba anh hùng, Để ánh sáng của họ soi rọi. … Ánh mặt trời và mặt trăng không thể nào mờ đi Thậm chí trời đất cũng không thể chịu đựng được.

Trong không khí hoài niệm về quá khứ với những chiến thắng rực rỡ trong cuộc 'trùng hưng', các cụ già lưu lại chậm rãi, nhưng đầy ý nghĩa. Khi 'Mỗi đội thuyền bè phấp phới trong ánh sáng', tinh thần 'hùng hổ', 'sáng chói' của họ đến từ 'ánh mặt trời và mặt trăng không thể nào mờ đi/Thậm chí trời đất cũng không thể thay đổi'. Trận chiến 'kinh thiên động địa' được tái hiện với những nét vẽ chân thực và cụ thể dưới ánh sáng đa chiều của âm thanh, màu sắc, trực giác và tưởng tượng tạo nên bầu không khí của cuộc chiến khốc liệt trên sông. Người đọc có thể hình dung được sự đông đảo của lực lượng tham chiến, cũng như khí thế quyết chiến của cả hai bên và sự dữ dội, khốc liệt của một cuộc chiến mà cả hai bên đều ngang tài ngang sức (Trận chiến chưa phân thắng bại – cuộc chiến tranh Bắc Nam đối đầu), thậm chí làm thay đổi cả trời đất, xoay chuyển vũ trụ (làm cho mặt trăng, mặt trời phải mờ đi, trời đất phải thay đổi).

Sau những trận chiến không khoan nhượng, đầy lòng kiên trì và can đảm, các cụ già nhận xét về đặc điểm của từng bên tham chiến. Cả hai bên, cả địch và ta, đều có điểm mạnh và yếu, địch mạnh mẽ và tàn bạo (Thế cường địch tất liệt – Lưu Cung đối phó) đã từng: Quét sạch bốn phương Nam Bắc. Còn chúng ta, chúng ta mạnh mẽ ở ý chí chiến đấu, với trái tim hướng về dân tộc. Nhưng trái tim đó sẽ trở thành điểm yếu khi chúng ta chiến đấu cho chính nghĩa, chính nghĩa không thể chấp nhận sự lưỡng lự, phải tuân theo trên và dưới, tuân theo ý trời (trời cũng ban phước). Bởi cha ông chúng ta đã từng dạy, rằng dù cuộc chiến có khắc nghiệt đến đâu, chính nghĩa luôn chiến thắng, phải trung thực, ủng hộ chính nghĩa, trừng phạt kẻ hung ác. Hơn nữa, chúng ta còn phải đối mặt với nguy cơ thiên nhiên (Trời đất mang lại nơi nguy hiểm), kết hợp với trí tuệ lớn lao, tầm nhìn vượt trội của nhà lãnh đạo kết hợp chiến lược chiến thuật đúng đắn. Những yếu tố đó đủ để dân tộc chiến thắng vẻ vang, đánh bại bè lũ cướp nước. Vì vậy, dù thời gian trôi qua, đất trời biến đổi, sông nước ngày càng cuồn cuộn, nhưng sự nhục nhã của địch vẫn không thể xóa nhòa. Các cụ già không nói nhiều về phần của chúng ta mà chỉ nhấn mạnh lòng biết ơn sâu sắc. Điều đó đã ghi dấu ấn rực rỡ trong cuộc hành trình đấu tranh của dân tộc, trở thành một chiến thắng lẫy lừng trong suốt lịch sử. Tinh thần luôn được nhấn mạnh dẫn đến những lời nhận xét ở phần tiếp theo:

Những người bất khuất đã hy sinh, Chỉ có anh hùng mới được ghi danh.

Lời nhận xét không chỉ là lời nói của những người địa phương mà còn như lời tâm sự của những người đã cầm súng, những bước chân đã trải qua. Từ đó, không gian và thời gian không còn rời rạc mà hòa quyện vào nhau. Cách kể thời gian với không gian để câu chuyện không chỉ ở mặt bề ngoài mà còn có chiều sâu, không chỉ là sự tái hiện mà còn là sự lưu giữ. Điều đó tạo nên sức hút, tạo ra dấu ấn để tránh cho câu chuyện trở nên nhạt nhẽo, đơn điệu.

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 2083 hoặc email: [email protected]