Trương định là ai

Những năm 1859 – 1864, ở Nam Kỳ đã nổi lên các trung tâm kháng chiến: Trương Định ở Gò Công; Trần Xuân Hòa ở Mỹ Tho; Nguyễn Trung Trực ở Tân An; Vũ Duy Dương (Thiên hộ Dương) ở Đồng Tháp Mười; Quản Là ở Tây Ninh,… Trong đó, cuộc khởi nghĩa Trương Định là lớn nhất lúc bấy giờ.

Trương Định đã được người đời biết đến không chỉ là một nhà chỉ huy sắc sảo, thông binh thư, giỏi võ nghệ, mà còn biết trọng dụng nhân tài, chiêu hiền đãi sĩ. Ông được nhân dân và binh sĩ tôn kính.Ông được suy tôn là Trung Thiên tướng quân hay Bình Tây Đại Nguyên Soái – vị anh hùng của dân tộc.

Trương định là ai

Trương Định còn có tên gọi khác là Trương Công Định. Ông sinh năm 1820 tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi). Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ úy ở Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị.

Trương định là ai

Ngay từ thuở nhỏ, ông đã bộc lộ là cậu bé thông minh, hiếu động, đam mê võ nghệ. Ông sớm ý thức được tình yêu quê hương và xác định hướng đi cho riêng mình là đánh đuổi giặc, giữ bình yên cho đất nước.

Năm 1844, ông theo cha vào Nam. Sau khi cha mất, ông chọn Tân An làm nơi lập nghiệp. Sau đó, ông kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa (Gò Công Đông, Tiền Giang ngày nay).

Năm 1848, ông bắt đầu chiêu mộ những nông dân lưu tán quanh vùng, bắt tay khai hoang lập ấp. Năm 1850, ông đứng ra lập đồn điền Gia Thuận (Gò Công) và được triều đình Huế phong chức Phó quản cơ, rồi Quản cơ, hàm chánh Lục phẩm. Từ đây, nhân dân trong vùng thường gọi ông với tên thân mật Quản Định.

Năm 1859, Gia Định bị Pháp chiếm. Ngay lúc đó Trương Định đã đem nghĩa binh của mình lên đóng quân ở Gia định. Ông đã lập được nhiều chiến công trên phòng tuyến từ Gò Cây Mai đến Thị nghè và các trận đánh ở trung tâm Sài Gòn.

Năm 1860 ông trở về Gò Công, sẵn sàng lực lượng được phong chức phó lãnh binh Gia Định.

Năm 1862, ông được triều đình điều về An Giang. Tuy nhiên, ông đã chống lại lệnh của triều đình ở lại Gò Công cùng nhân dân kháng chiến. Trong tình thế ấy chính nhân dân và nghĩa quân đã tôn Trương Định làm Bình Tây Đại Nguyên soái.

Trương định là ai
Ông nhận phong soái

Năm 1863, nghe tin Gò Công thất thủ, ông trở về và khởi binh. Tại Gò Công ông tiến hành bố trí pháo đội trên tất cả con rạch dẫn tới sông và đất nơi ông đang chiếm đóng. Tàu tuần của Pháp cũng không nằm ngoài sự chống phá của ông.

Ngày 22/2/1863, quân địch dưới trướng Chaumont từ Sài Gòn kéo xuống. Sáng 26/2 quân Pháp tiến về Trại Cá. Ngay lúc này, Trương Định hiểu ý giặc đã bố trí phục kích và di chuyển toàn bộ lực lượng ra Quy Nhơn.

Ngày 25/9/1863, Pháp tấn công Quy Nhơn sau thời điểm nhận được mật báo. Nghĩa quân Trương Định dũng cảm chiến đấu thoát khỏi vòng vây trở về Gò Công.

Ngày 19/8/1864 Bình Tây đại nguyên soái – Trương Định hi sinh sau sự đuổi bắn của địch. Hay tin ông tuẫn tiết, vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm. Năm 1871, lại cho lập đền thờ ông tại Tư Cung (Quảng Ngãi).

Thương tiếc người anh hùng, nhân dân đã mang thi hài ông về an tán rất trọng thể và xây dựng đền thờ tại thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

Trương định là ai
Lăng mộ của ông tại thị xã Gò Công, Tiền Giang

Lăng mộ và đền thờ Trương Định đã được Bộ Văn hóa – Thông tin Việt Nam công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia ngày 6/12/1989.

Năm 1995, tượng đài Trương Định được xây dựng tại thị xã Gò Công.

Lễ hội tưởng niệm ông diễn ra tại đây các ngày 19 – 20/ 8 dương lịch hàng năm và trở thành ngày hội của nhân dân trong vùng.

Khởi nghĩa Trương Định là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong giai đoạn đầu của phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Tuy cuộc khởi nghĩa chỉ tồn tại trong thời gian ngắn (1859 – 1864), nhưng đã để lại ý nghĩa trên nhiều mặt. Cuộc khởi nghĩa Trương Định là tiền đề cho các cuộc khởi nghĩa về sau.

Trương định là ai
Đền thờ của ông ở Tịnh Khê, Quảng Ngãi

Năm 2007, thể theo nguyện vọng của nhân dân và để tỏ lòng tri ân người anh hùng đã hy sinh vì nghĩa lớn, huyện Sơn Tịnh và tỉnh Quảng Ngãi đã đầu tư xây dựng lại đền thờ Trương Định để làm nơi hương khói, thờ phụng người anh hùng. Đền thờ gồm các hạng mục: đền thờ chính, nhà trưng bày, nhà bia ghi công, sân hành lễ, đường nội bộ,…

Năm 2014, Di tích lịch sử Đền thờ Anh hùng dân tộc Trương Định tại xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi được xếp hạng di tích cấp tỉnh.

Hằng năm, đền thờ đón khoảng 9.000 lượt khách đến viếng hương và tham quan, tìm hiểu về lòng yêu nước và sự nghiệp đấu tranh giữ nước, chống giặc ngoại xâm của Anh hùng dân tộc Trương Định.

Hằng năm, vào khoảng ngày 17-19.8, Sở VH-TT&DL tổ chức lễ giỗ để tưởng nhớ Anh hùng dân tộc Trương Định.

Tuyên bố của Trương Định trong thư trả lời thư dụ hàng của tướng Pháp Bonard vào cuối năm 1862:

“Triều đình Huế không nhìn nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc chúng ta.”

Ông trả lời Phan Thanh Giản về việc bãi binh chống Pháp:

“Triều đình nghị hòa thì cứ nghị hòa còn việc của Định thì Định cứ làm. Định thà đắc tội với Triều đình chứ không nỡ ngồi nhìn giang san này chìm đắm…”

Tuyên bố của Trương Định gửi các quan ở Vĩnh Long, để tỏ ý ly khai với Nam Triều (vì sau hòa ước Nhâm Tuất, vua Tự Đức ra lệnh ông phải bãi binh) vào tháng 2 năm 1863:

“Muốn trở lại y như xưa, dân chúng ba tỉnh yêu cầu chúng tôi đứng đầu khởi nghĩa, chúng tôi không thể làm gì được khác. Chúng tôi chuẩn bị chiến đấu vào hướng Đông cũng như hướng Tây, chúng tôi chống đối và chiến đấu. Chúng tôi sẽ đánh ngã bọn giặc cướp…”

“Chúng ta thề sẽ đánh mãi và đánh không ngừng, khi ta thiếu tất cả sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm võ khí cho quân lính ta.”

Hịch của Trương Định (tháng 8 năm 1864):

“Lòng dân đã muốn ta lên làm nguyên nhung ba tỉnh, ta trông vào lòng dân yêu thương không phai lạt của mọi người đối với ta. Thế là xong bất dung tha giặc cướp.”

Trương Định là võ quan Triều Nguyễn, là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859 – 1864 trong lịch sử Việt Nam. Ông là người tài năng, bản lĩnh và yêu nước. Ông được nhân dân cả nước nói chung và Quảng Ngãi nói riêng kính trọng và biết ơn. Viết về Trương Định, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu có câu:

“Trong Nam, tên họ nổi như cồn

Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn

Đấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ

Hơi gươm thêm rạng vẻ huỳnh môn”

Cảm ơn các bạn theo dõi và đừng quên cập nhật các bài viết hay của TopQuangNgai tại Fanpage nhé!

Nguồn: Topquangngai.vn/ baotanglichsu.vn

Bạn muốn đưa doanh nghiệp, cửa hàng, địa chỉ, shop,.. của mình vào bài viết này. Hoặc muốn đặt banner quảng cáo, vui lòng liên hệ: 082.2222.176 hoặc email

Trong dòng chảy lịch sử khoa bảng Việt Nam, dòng họ Trương là một dòng họ hiếu học, có nhiều đóng góp cho đất nước. Nếu như ở con đường khoa bảng, họ Trương có Tiến sĩ Trương Công Giai, là vị Tiến sĩ trẻ tuổi nhất trong lịch sử khoa bảng thời phong kiến, hay Tiến sĩ Trương Đăng Quế, người khai khoa đất Quảng Ngãi. Thì ở ngạch tướng võ có Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định, ông là võ quan triều Nguyễn và là thủ lĩnh phong trào kháng Pháp ở Nam Bộ giai đoạn nửa sau thế kỷ 19.

Trương định là ai

Lăng mộ và đền thờ Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định tại Gò Công, Tiền Giang. Nguồn: Internet

Trương Định sinh năm 1820, tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi). Ông còn có tên là Trương Công Định hoặc Trương Trường Định, là hậu duệ dòng họ Trương khai khoa vùng Quảng Ngãi xưa. Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ uý ở Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị.

Ngược thời gian tìm về lịch sử, theo ghi chép của các sử gia dưới triều Nguyễn, Trương Định sinh ra và lớn lên trong một gia đình danh tiếng, lại sống tại vùng đất hiếu học, nên mặc dù không muốn quan tâm theo con đường cử nghiệp nhưng Trương Định vẫn được giáo dục bài bản, thông hiểu binh thư và võ nghệ, đặc biệt là tài bắn.

Thời vua Thiệu Trị, vào năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam và trở thành bậc tiền hiền khai mở vùng đất Tân An - Định Tường. Sau khi cha mất, ông ở lại vùng Gò Công và kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa (Gò Công Đông ngày nay). Năm 1854, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của triều đình Huế do Nguyễn Tri Phương thi hành, ông đem hết tài sản đi chiêu mộ dân nghèo vùng Quảng Nam - Quảng Ngãi vào khai hoang lập đồn điền ở Gia Thuận, thuộc huyện Gò Công Đông ngày nay và được bổ chức Phó Quản Cơ của đồn điền. Thực ra, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Trương Định đã sớm mang trong mình tư tưởng kháng Pháp, nên việc quyết định ở lại chiêu mộ quân sĩ, lập đồn điền còn mang nhiều ý nghĩa, trong đó quan trọng nhất là chuẩn bị lực lượng để kháng Pháp.

Cùng với việc tập hợp lực lượng, xây dựng các chiến lược chống lại quân Pháp, Trương Định còn tiến hành nhiều hoạt động khác để xây dựng nguồn lực lâu dài. Trong đó, việc cưới người vợ thứ 2 vừa là cơ duyên, vừa là thêm động lực chống lại quân xâm lược. Bởi người vợ này của ông không phải ai khác mà chính là bà Trần Thị Sanh, là chị em con cô con cậu với bà Từ Dũ Thái Hậu, mẹ của vua Tự Đức. Giới nghiên cứu sử học đánh giá đây là cuộc hôn nhân đặc biệt xứ Nam Kỳ bởi nó liên quan đến vận mệnh của đất nước. Bà vợ này là 1 trong 4 người giàu nhất vùng Gò Công lúc đó, thêm một sự hậu thuẫn để Trương Định kháng Pháp.

Tháng 4/1861, thực dân Pháp chiếm thành Định Tường, tháng 11/1861 chiếm thành Biên Hòa và đến tháng 3/1862, giặc Pháp tấn công chiếm thành Vĩnh Long. Triều đình ký hòa ước "Nhâm Tuất" vào ngày 5/6/1862 cắt 3 tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường cho Pháp. Tiếp đó, triều đình ra lệnh cho Trương Định bãi binh, phong làm Lãnh binh An Hà, buộc phải bãi binh ở Tân Hoà và gấp rút nhận chức mới ở An Giang.

Nhưng lòng dân và nghĩa quân không chịu, trong lúc đang lưỡng lự giữa ý dân và lệnh vua chưa biết ngã về đâu thì Trương Định nhận được thư của nghĩa hào huyện Tân Long (Chợ Lớn), tỏ ý muốn cử ông làm chủ soái 3 tỉnh để giết giặc. Cảm kích sự tín nhiệm của những người yêu nước và nhân dân, ông đã khước từ lệnh của triều đình và nhận danh hiệu "Bình Tây Đại Nguyên Soái" do nhân dân phong, tiếp tục cuộc chiến đấu chống giặc Pháp.

Trương định là ai

Bức tranh "Nhân dân suy tôn Trương Định làm Bình Tây Đại Nguyên Soái" trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Nguồn: Internet

Từ đó, Trương Định lấy Gò Công làm địa phận chính để mở các trận tấn công Pháp, lấy biệt danh căn cứ là “Đám lá tối trời” và xây dựng binh pháp riêng của nghĩa quân để kháng Pháp. Một mặt, ông xây dựng lại lực lượng, mặt khác ông kêu gọi các sĩ phu yêu nước hãy đứng lên góp công góp sức, hiến kế đánh giặc, đó là  lời hịch tháng 8/1864. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Trương Định, khắp nơi một làn sóng kháng chiến lại nổi lên ở Mỹ Tho, Tân An, Gò Công, Cần Giuộc, Chợ lớn và vùng giáp ranh Biên Hoà. Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường, Hội Khoa học Lịch sử Tiền Giang phân tích, sở dĩ Trương Định tập hợp được lực lượng đông đảo như vậy là do ông đã dành được lòng tin của nhân dân và có sự yểm trợ ngầm từ phía triều đình.  

Sau hàng loạt cuộc nổi dậy của nghĩa quân của Trương Định mở rộng từ Gò Công đến Gia Định, lan sang nhiều địa phương khác như Bà Rịa, Tây Ninh, quân Pháp tập trung lực lượng đàn áp và  ra sức truy tìm để diệt ông. Đêm 19/8/1864, dò biết nơi ở của Trương Định, tên phản bội Huỳnh Công Tấn cho quân bao vây đột nhập vào nhà. Trương Định và những nghĩa quân của ông chiến đấu chống trả quyết liệt, diệt được một số quân địch, nhưng lại bị thương nặng. Biết mình không sống được và quyết không để rơi vào tay giặc, Trương Định đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết người anh hùng, năm ấy ông tròn 44 tuổi.

GS Trương Minh Nhật, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, nhà nghiên cứu cũng là hậu duệ dòng họ Trương cho rằng, cuộc khởi nghĩa của Trương Định chỉ kéo dài 5 năm nhưng đã để lại nhiều ý nghĩa: “Thứ nhất là tập hợp được lực lượng nhân dân yêu nước đánh Pháp. Thứ 2 là thể hiện tinh thần độc lập tự chủ trong việc đề ra đường lối kháng Pháp. Thứ 3, cuộc khởi nghĩa của Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất vùng Nam Bộ trong giai đoạn đầu của phong trào kháng Pháp” - GS Trương Minh Nhật nhấn mạnh.  

Sau khi Trương Định mất, bà Trần Thị Sanh là người vợ thứ của ông và nhân dân mang ông về an táng rất trọng thể, tại một địa điểm nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Năm 1964, ngôi mộ và đền thờ ông được tu bổ khang trang và giữ nguyên dáng dấp đến ngày nay. Còn ở tại quê nhà phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi, năm 1871 vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm, và cho lập đền thờ ông tại Tư Cung, nơi ông sinh trưởng và giao cho các quan tỉnh Quảng Ngãi tế tự hàng năm.

Trương định là ai

Đền thờ anh hùng Trương Định tại Quảng Ngãi. Nguồn: Internet

Tuy sự nghiệp cứu nước chưa thành, nhưng anh hùng dân tộc Trương Định đã để lại tấm gương sáng về lòng yêu nước, thương dân và tinh thần kiên trung, bất khuất. Tinh thần Trương Định và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo mãi mãi lưu danh cùng non sông đất nước.                     

Biết ơn vị thủ lĩnh “Đám lá tối trời”, anh hùng Trương Định, hàng năm, đến ngày giỗ ông (20 tháng 8) nhân dân vùng Gò Công nhà nào cũng lập bàn thờ ngoài trời và làm lễ tại đình. Lễ giỗ ông ngày nay trở thành ngày hội của nhân dân trong vùng, thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" và tấm lòng thành kính của con cháu hậu duệ đối với vị nhân sỹ nặng lòng yêu nước, thương dân, có công lao to lớn trong sự nhiệp chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Mời nghe âm thanh tại đây: 

Trương định là ai