Tính đúng đắn trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật thời kỳ cổ đại là gì?

Mục lục

Phạm trù [khái niệm] “vật chất” giữ vai trò gì đối với chủ nghĩa duy vật? Các nhà triết học duy vật trước Mác đã có quan niệm thế nào về “vật chất”? Nêu ưu điểm và hạn chế lịch sử của những quan niệm đó?

Quảng cáo

- Phạm trù “vật chất" giữ vai trò là phạm trù cơ bản và nền tảng của chủ nghĩa duy vật [nói chung] và chủ nghĩa duy vật biện chứng [nói riêng]. Bởi vì: chủ nghĩa duy vật [dù là chủ nghĩa duy vật nào] cũng đều được xây dựng trên cơ sở quan điểm: vật chất là tính thứ nhất; bản chất và cơ sở của mọi tồn tại, suy đến cùng chính là vật chất chứ không phải là ý thức hay tinh thần. Bởi vậy, quan niệm về vật chất có đúng đắn và khoa học hay không đóng vai trò là cơ sở đầu tiên quyết định việc giải quyết có đúng đắn và khoa học hay không đối với các vấn đê khác có liên quan.

- Quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật trước Mác.

“Vật chất” thường được hiểu là một hoặc một số chất hay yếu tố khách quan, tự có trong giới tự nhiên, đóng vai trò là cơ sở ban đầu [bản nguyên, bản căn] sản sinh ra và cấu tạo nên mọi tồn tại trong thế giới. Bởi vậy, phương pháp luận chung của các nhà duy vật này là: muốn hiểu được đúng đắn thế giới thì cần phải nghiên cứu để hiểu được đúng cấu tạo vật chất đầu tiên đó. Những quan niệm như vậy có thể nhận thấy rõ khi nghiên cứu nội dung các học thuyết duy vật thời cổ ở Trung Quốc, Ân Độ và Hy Lạp [Đạo gia, thuyết Âm Dương - Ngũ Hành ở Trung Quốc; trường phái Lokayata ở Ấn Độ; trường phái nguyên tử luận ở Hy Lạp] hoặc các học thuyết triết học duy vật thời cận đại ở các nước Anh, Pháp, Đức [triết học của Ph. Bêcơn, triết học tự nhiên của R. Đềcáctơ, triết học tự nhiên của I. Kantơ,...].

- Ưu điểm và hạn chế của những quan niệm đó:

+ Ưu điểm: với quan niệm về vật chất như đã nói ở trên, các nhà duy vật trước Mác đã xác lập phương pháp luận tích cực cho sự phát triển nhận thức một cách khoa học về thế giới, đặc biệt là trong việc giải thích về cấu tạo vật chất khách quan của các hiện tượng tự nhiên, làm tiền đề cho việc giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề trong việc ứng xử tích cực giữa con người và giới tự nhiên, vì sự sinh tồn và phát triển của con người.

+ Hạn chế lịch sử: một mặt, quan niệm về vật chất của các nhà duy vật trước Mác chưa bao quát được mọi tồn tại vật chất trong thế giới, mặt khác quan niệm này chủ yếu mới chỉ được tiếp cận từ giác độ cấu tạo bản thể vật chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, giác độ nhận thức luận chưa được nghiên cứu đầy đủ; tức là chưa giải quyết được triệt để phạm trù vật chất từ góc độ giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học. Những hạn chế này được khắc phục trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Phát biểu định nghĩa của V.I. Lênin về vật chất. Hãy phân tích nội dung cơ bản và ý nghĩa của định nghĩa đó?

    - Quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện tập trung, cô đọng ở định nghĩa về vật chất do V.I. Lênin viết trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”:

  • Hãy trình bày các nội dung cơ bản của quan niệm duy vật biện chứng về vận động của vật chất và không gian, thời gian của vật chất?

    - Các nội dung cơ bản của quan niệm duy vật biện chứng về vận động của vật chất + Khái niệm vận động: Theo Ph. Ăngghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.

  • Hãy trình bày khái quát nội dung cơ bản của quan niệm duy vật biện chứng về tính thống nhất vật chất của thế giới?

    Theo quan điểm duy vật biện chứng, bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Quan điểm đó bao hàm những nội dung cơ bản sau

  • Hãy trình bày khái quát quan điểm duy vật biện chứng về nguồn gốc của ý thức?

    Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. - Nguồn gốc tự nhiên của ý thức Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan

  • Hãy trình bày khái quát quan điểm duy vật biện chứng về bản chất của ý thức? Theo quan điểm đó, ý thức có “tự vận động” không?

    - Nhận định khái quát về bản chất của ý thức Theo quan điểm duy vật biện chứng: ý thức là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” [V.I. Lênin]; là “cái vật chất được di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến đi ở trong đó” [C. Mác].

  • Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
  • Theo phép biện chứng duy vật, các mối liên hệ có những tính chất chung nào? Cho ví dụ.
  • Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
  • Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm là gì?

Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Vấn đề này được gọi là vấn đề cơ bản của triết học bởi vì: thứ nhất, nó nảy sinh cùng với sự ra đời của triết học và tồn tại trong tất cả các trường phái triết học cho tới tận ngày nay; thứ hai, giải quyết vấn đề này là cơ sở để giải quyết tất cả các vấn đề triết học khác còn lại và là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các nhà triết học cũng như các học thuyết của họ.

Vấn đề cơ bản này có hai mặt:

Cách giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các triết gia làm hai phái cơ bản: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người được gọi là các nhà duy vật. Học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật, giải thích mọi hiện tượng của thế giới này bằng các nguyên nhân vật chất – nguyên nhân tận cùng của mọi vận động của thế giới này là nguyên nhân vật chất. Ngược lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới tự nhiên, được gọi là các nhà duy tâm. Các học thuyết của họ hợp thành các phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm, chủ trương giải thích toàn bộ thế giới này bằng các nguyên nhân tư tưởng, tinh thần – nguyên nhân tận cùng của mọi vận động của thế giới này là nguyên nhân tinh thần.

– Chủ nghĩa duy vật: Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

+ Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất và đưa ra những kết luận mà về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác. Tuy hạn chế do trình độ nhận thức thời đại về vật chất và cấu trúc vật chất, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích thế giới, không viện đến Thần linh, Thượng đế hay các lực lượng siêu nhiên.

+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai trong lịch sử của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và điển hình là ở thế kỷ thứ XVII, XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, cơ giới – phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản là ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực trong toàn cục nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần không nhỏ vào việc đẩy lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo, đặc biệt là ở thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường Trung cổ sang thời Phục hưng.

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.

– Chủ nghĩa duy tâm: Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.

+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.

+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới, v.v..

Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên. Bằng cách đó, chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng siêu nhiên nào đó đối với toàn bộ thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của mình, tuy có sự khác nhau đáng kể giữa chủ nghĩa duy tâm triết học với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Trong thế giới quan tôn giáo, lòng tin là cơ sở chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo đối với vận động. Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và năng lực mạnh mẽ của tư duy.

Về phương diện nhận thức luận, sai lầm cố ý của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người.

Bên cạnh nguồn gốc nhận thức, chủ nghĩa duy tâm ra đời còn có nguồn gốc xã hội. Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội trước đây đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Trong lịch sử, giai cấp thống trị và nhiều lực lượng xã hội đã từng ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan điểm chính trị – xã hội của mình.

Học thuyết triết học nào thừa nhận chỉ một trong hai thực thể [vật chất hoặc tinh thần] là bản nguyên [nguồn gốc] của thế giới, quyết định sự vận động của thế giới được gọi là nhất nguyên luận [nhất nguyên luận duy vật hoặc nhất nguyên luận duy tâm].

Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả hai bản nguyên vật chất và tinh thần, xem vật chất và tinh thần là hai bản nguyên có thể cùng quyết định nguồn gốc và sự vận động của thế giới. Học thuyết triết học như vậy được gọi là nhị nguyên luận, điển hình là Descartes [Đề-các]. Những người nhị nguyên luận thường là những người, trong trường hợp giải quyết một vấn đề nào đó, ở vào một thời điểm nhất định, là người duy vật, nhưng ở vào một thời điểm khác, và khi giải quyết một vấn đề khác, lại là người duy tâm. Song, xét đến cùng nhị nguyên luận thuộc về chủ nghĩa duy tâm.

Xưa nay, những quan điểm, học phái triết học thực ra là rất phong phú và đa dạng. Nhưng dù đa dạng đến mấy, chúng cũng chỉ thuộc về hai lập trường cơ bản. Triết học do vậy được chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Lịch sử triết học do vậy cũng chủ yếu là lịch sử đấu tranh của hai trường phái duy vật và duy tâm.

Video liên quan

Chủ Đề