Sự khác biệt độc đạo của Truyện Kiều của Nguyễn Du so với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân

Bài làm văn mẫu

Trong quá trình tiếp xúc với một nền văn học lớn như văn học Trung Quốc, sự vay mượn, tiếp thu tinh hoa văn học nước ngoài là một hiện tượng tự nhiên và tất yếu. Nhờ đó, các nhà văn Việt Nam đã có điều kiện tiếp xúc “với nguồn chất liệu, ngôn từ, thể loại, nguồn chương học… của văn học Trung Quốc. Điều này cũng giống như nền văn học châu Âu chịu ảnh hưởng của văn học Hi Lạp, La Mã cổ xưa. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là sự tiếp thu có sáng tạo vượt bậc, tạo thành tác phẩm có tầm cỡ thế giới. Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Xiêu được thể hiện ở hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

Về nội dung, từ câu chuyện tình Kim — Vân – Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã tạo nên một “Khúc ca mới đứt ruột” [Đoạn trường tân thanh], nhấn vào nỗi đau bạc mệnh và gửi gắm những xúc cảm về nhân sinh của nhà thơ trước những điều trông thấy trong thời đại mình. Chẳng hạn, trong Kim Vân Kiều truyện, chân dung Thúy Vân — Thúy Kiều được kể dưới mắt Kim Trọng chỉ nói vẻ đẹp thiếu nữ. Nhưng ở Truyện Kiêu, nhan sắc của hai chị em được Nguyễn Du được kể từ đầu, và mang ý niệm về số phận:

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu do.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.

Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Tham khảo các bài phân tích Truyện Kiều

Hay trong cảnh chơi xuân, tác giả Kim Vân Kiều truyện để hai chị e về trước còn trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đề Kim Trọng về trước, cho hai chị em lưu luyến nhìn theo:

Bóng tà như giục cơn buồn,

Người đà lên ngựa, khách còn ghé theo.

Dưới câu nước chảy trong veo,

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Cùng với sự sáng tạo về nội dung là những sáng tạo về nghệ thuật Lược bỏ các tình tiết về mưu mẹo, về báo oán… trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều bằng thể lục bát truyền thống, với một ngôn ngữ trau chuốt tỉnh vi, chính xác đến trình độ cổ điển trong một truyện thơ Nôm. Chúng ta vẫn còn trầm trồ thán phục trước bức bích họa bằng ngôn từ của Tố Như về mùa xuân:

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Chúng ta vẫn phải nghiêng mình kính nể trước những ngôn từ sắc sảo, tài tình của cụ Tiên Điền khi người lột tả bản chất con buôn của Mã Giám Sinh:

Đến đo cân sắc cân tài,

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.

Và hơn hết, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tập trung thể hiện nội tâm nhân vật một cách tài tình. Dễ dàng nhận thấy trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm Tài Nhân ít tả cảnh, tả tình còn ngược lại, trong Truyện Kiêu, Nguyễn Du lại rất chú trọng tả cảnh, tả tình… Nội tâm của nhân vật Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện rất phong phú, đa dạng, có khi được biểu hiện trực tiếp, có khi lại được bộc lộ gián tiếp qua bút pháp tả cảnh ngụ tình. Trong Kiều ở lầu Ngưng Bích, cảnh chiều tà bên bờ biển, cánh buồm thấp thoáng, cánh hoa trôi man mác, nội cỏ rầu rầu, tiếng sóng ẩm ẩm thể hiện nỗi cô đơn, thân phận nổi nênh vô định, nỗi buồn tha hương, lòng thương nhớ người yêu, cha mẹ và cả sự bàng hoàng lo sợ của Thúy Kiều. Cảnh được Thúy Kiều nhìn từ xa đến gần, từ nhạt đến đậm, từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ. Ngọn gió cuốn mặt duềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh. tưởng tượng hãi hùng báo trước số phận dông bão của nàng.

Những điểm khác biệt của Truyện Kiều so với Kim Vân Kiều truyện đã thể hiện một ý thức vay mượn, tiếp thu sáng tạo đồng thời khẳng định tấm lòng và tài năng của Nguyễn Du. Đó cũng chính là chìa khóa mang đến thành công tột bậc của tác phẩm này.

Xem thêm các bài viết về Nguyễn Du

Danh mục: Phân tích văn thơ
Nguồn: //vanmau.com

Bài viết liên quan:

  1. Trích đoạn Truyện Kiều – Trao Duyên tình yêu Kiều – Kim và tình yêu thời hiện đại
  2. Tóm tắt Truyện Kiều – Nguyễn Du
  3. Giá trị nhân đạo của Truyện Kiều – Nguyễn Du
  4. Khoảng trống mà Nguyễn Du để lại cho văn học Việt Nam nếu không có Truyện Kiều

Nguyễn Du

  • Trang chủ
  • Tin tức - sự kiện
  • Cuộc đời - sự nghiệp
  • Tác phẩm
  • Ấn phẩm - sách
  • Nghiên cứu thảo luận
  • Di tích Nguyễn Du
Loading...

SO SÁNH KIM VÂN KIỀU TRUYỆN VÀ TRUYỆN KIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [369.31 KB, 72 trang ]

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN

BÀI THUYẾT TRÌNH NHĨM 1

MÔN: NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU

Đề tài: SO

SÁNH KIM VÂN KIỀU TRUYỆN VÀ
TRUYỆN KIỀU

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thu Yến

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NGÀY 21 THÁNG 09 NĂM 2017


MỞ ĐẦU
Xưa nay, hễ nhắc tới Truyện Kiều, người ta thường liên hệ đến Kim
Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Cũng dễ hiểu, bởi lẽ chính Kim
Vân Kiều Truyện đã tạo nguồn cảm hứng để Nguyễn Du sáng tạo nên thi
phẩm ưu tú nhất của nền văn học Việt Nam. Dẫu biết cốt truyện của Truyện
Kiều được mượn từ Kim Vân Kiều truyện, nhưng cũng cần phải hiểu rằng
Nguyễn Du đã thổi hồn dân tộc vào tác phẩm của mình, tạo cho nó một hình
ảnh mới, một giọng điệu mới, và một sức sống mãnh liệt chưa từng thấy.
Thế nên hàng trăm năm qua, Truyện Kiều đã sống chan hịa trong đời sống
dân tộc khơng riêng gì văn học Việt Nam mà còn cả trên văn đàn thế giới.
Cũng thật hiếm những tác phẩm chinh phục được đông đảo trái tim của bạn
đọc như Truyện Kiều. Vậy phần nào là phần sáng tạo của Nguyễn Du, phần
nào theo ý của Thanh Tâm Tài Nhân ? Điều đó đến nay vẫn còn nhiều ý kiến


đánh giá khác nhau và chưa giải quyết một cách triệt để. Trên cơ sở tham
khảo một số cơng trình nghiên cứu và sự tìm tịi phân tích của nhóm, chúng
tơi xin đưa ra một vài điểm tương đồng cũng như khác biệt của hai tác phẩm
nói trên.


NỘI DUNG
1. Giới thiệu chung.
1.1.

Truyện Kiều.

1.1.1. Tác giả.
Nguyễn Du [1766 - 1820], tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên,
sinh ra trong một gia đình q tộc có truyền thống làm quan và văn chương
ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Truyền thống của gia đình đã có những
ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng, tình cảm, tâm hồn và tài năng của
Nguyễn Du. Gia đình Nguyễn Du có nhiều người đậu đạt cao và làm quan to
tại triều đình: Thân sinh của Nguyễn Du đậu tiến sĩ, từng làm tể tướng,
Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du đậu tiến sĩ giữ chức
lớn dưới cả hai thời Trịnh Sâm và Trịnh Tông, Nguyễn Huệ, bác ruột
Nguyễn Du, đậu tiến sĩ. Theo Phạm Ðình Hổ thì dịng họ này có 12 tiến sĩ
và 5 quận cơng. Bản thân ông là người học rộng biết nhiều, am tường cả
Nho, Phật, Đạo.
Ông là một con người tài năng. Xuất thân trong một gia đình phong
kiến đại q tộc có danh vọng vào loại bậc nhất đương thời nhưng Nguyễn
Du sống trong cuộc sống nhung lụa không được bao lâu. Bởi vì nhà thơ lớn
lên giữa lúc gia đình đang sụp đổ nhanh chóng theo đà sụp đổ của tập đoàn
phong kiến thống trị Lê-Trịnh. Nguyễn Du phải sớm đương đầu với những
biến cố lớn lao của gia đình và xã hội. Nhà thơ đã từng chịu nhiều nỗi bất

hạnh. Ông có một thời gian dài khoảng hơn 10 năm sống lưu lạc ở quê vợ ở
Thái Bình, quê cha Hà Tĩnh. Ơng trải qua "mười năm gió bụi", có lúc ốm
đau khơng có thuốc, mái tóc sớm bạc. Ơng tự xưng là "Hồng Sơn liệp hộ"
[người đi săn ở núi Hồng], "Nam Hải điếu đổ" [Người câu cá ở biển Nam
Hải]:


"Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,
Đò Cài mấy trượng là lòng bấy nhiêu!".
Năm 1802, Gia Long triệu Nguyễn Du ra làm quan. Chỉ trong vịng
hơn 10 năm, ơng đã bước lên đỉnh cao danh vọng: làm Chánh sứ sang Trung
Quốc [1813- 1814], giữ chức Hữu tham tri bộ Lễ. Năm 1820, lần thứ hai,
ông lại được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, nhưng chưa kịp đi thì bị
bệnh, qua đời. Những năm tháng bất hạnh ấy có ảnh hưởng trực tiếp quyết
định đến sự hình thành con người nghệ sĩ vĩ đại ở ơng.Nguyễn Du là một
nhà thơ có tấm lòng nhân đạo sâu xa.
Sống một cuộc đời chịu nhiều gió bụi của chiến tranh loạn lạc,
Nguyễn Du đã nhiều phen phiêu dạt nơi đất khách, sống những tháng ngày
lo âu chốn quan trường, mệt nhoài trong bệnh tật. Tâm hồn ông đã kinh qua
nhiều nỗi bi kịch, nhiều cảnh đời trái ngang và hơn hết, đọng lại trong tâm
hồn đa sầu đa cảm của thi nhân là những giọt nước mắt thương mình, thương
đời, thương người.
Nguyễn Du có một tâm hồn lớn, trái tim lớn, nhạy bén với thời cuộc
và có cái nhìn tồn diện về cuộc đời. Bản thân ông là một tác gia, một tấm
gương lớn của thời đại.
Về con đường văn nghiệp thì Nguyễn Du là một tác gia văn học
không chỉ thành công về mặt chữ Nơm mà cịn có thành tựu nghệ thuật về
mặt chữ Hán. Sáng tác của ông nặng trĩu tâm tâm tư của con người ưu thời
mẫn thế, thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân văn cũng như nghệ thuật viết
thật điêu luyện.

- Tác phẩm chữ Nơm gồm có:
Đoạn trường tân thanh [Tiếng kêu mới về nỗi Đau Đứt ruột-Tên phổ
biến là Truyện Kiều], Được viết bằng chữ Nôm, gồm 3254 câu thơ theo thể


lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh
quãng Đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật
chính trong truyện, một cơ gái có tài sắc. Về thời Điểm sáng tác, Từ Điển
văn học [bộ mới] ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông Đi
sứ Trung Quốc [1814-1820], có thuyết cho nói ông viết trước khi Đi sứ, có
thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình [1804-1809]. Thuyết sau
Được nhiều người chấp nhận hơn".
Văn chiêu hồn [tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế
mười loại chúng sinh], hiện chưa rõ thời Điểm sáng tác. Trong văn bản do
Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông
Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa
dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sơng Đất nước âm khí
nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta Đều lập Đàn giải thoát Để cầu siêu
cho hàng triệu linh hồn. Ơng Hồng Xn Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du
viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ơng cịn làm cai bạ ở Quảng
Bình [1802-1812]. Tác phẩm Được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184
câu thơ chữ Nơm.
Thác lời trai phường nón, 48 câu, Được viết bằng thể lục bát. Nội
dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cơ gái phường
vải.
Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, Để bày
tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cơ gái phường vải khác
- Tác phẩm chữ Hán gồm có:
“Thanh Hiên thi tập” 1786-1804



“Nam trung tạp ngâm” 1805-1812.
“Bắc hành tạp lục” 1813-1814.
Cả ba tập thơ đã được tập hợp lại thành tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
do nhóm Lê Thước và Trương Chính giới thiệu, xuất bản năm 1965 gồm 243
bài thơ.
Thơ chữ Hán có một vị trí khá quan trọng trong hành trình sáng tác
của Nguyễn Du. Đó là tập hợp những tư liệu phản ánh trực tiếp đời sống tư
tưởng, tình cảm của nhà thơ trong khoảng ba mươi năm gió bụi cuộc đời. Ba
tập thơ chữ Hán có sự phân định như sau:
- “Thanh Hiên thi tập”: Gồm 78 bài thơ Nguyễn Du sáng tác trong khoảng
thời gian từ 1786 đến 1804. Đó là khoảng thời gian mười năm gió bụi ơng
nương náu ở q vợ, sau đó trở về dưới chân núi Hồng, rồi ra làm quan ở
Bắc Hà.
- “Nam trung tạp ngâm”: Tập hợp 40 bài thơ được viết từ 1805 đến cuối
1812 khi Nguyễn Du thăng hàm Đông các điện học sĩ, làm quan trong Kinh
cho đến hết thời kì làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
- “Bắc hành tạp lục”: Gồm 132 tác phẩm được sáng tác trong chuyến đi sứ
Trung Quốc 1813 - 1814.
1.1.2 Tác phẩm.
Truyện Kiều tên gốc là Đoạn trường tân thanh, là truyện thơ chữ Nôm
theo thể lục bát của Nguyễn Du, gồm 3254 câu lục bát, dựa theo tiểu thuyết,
dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân [Trung
Quốc].
Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc
[1814-1820]. Lại có thuyết nói ơng viết trước khi sứ, có thể vào khoảng thời
gian làm Cai bạ ở Quảng Bình[1804-1809]. Thuyết sau được nhiều người



chấp nhận hơn. Ngay sau khi ra đời, Truyện Kiều được nhiều nơi khắc in và
lưu hành rộng rãi. Hai bản in xưa nhất hiện còn là bản của Liễu Văn
Đường[1871] và bản của Duy Minh Thị[1872], đều ở thời vua Tự Đức.
Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán
mình chuộc cha của Thúy Kiều- nhân vật chính trong truyện là một cơ gái “
sắc nước hương trời” và có tài “cầm, kỳ, thi, họa” nhưng cuộc đời lại gặp
lắm truân chuyên.
Tác phẩm đã dựng lên một bức tranh xã hội rộng lớn phản ánh tình
trạng xã hội đương thời. Trong đó nhà thơ đã lên án, tố cáo những thế lực
chà đạp lên quyền sống, quyền được hạnh phúc của con người. Đó là sức
mạnh đen tối của đồng tiền phi nghĩa, nó đã trở thành kẻ đồng lõa với lòng
tham, sự bất cơng và cái ác. Vì tham tiền mà thằng bán tơ vu khống Vương
ơng, vì tham tiền mà Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh…đã dựng
lên cả một hệ thống nhà chứa, vì tham tiền mà sinh ra những kẻ phản trắc,
nhẫn tâm như Sở Khanh, Ưng Khuyển….. Đó là chế độ nhà chứa được dung
túng đã giam cầm, lừa lọc con người, đặc biệt là người phụ nữ. Biết bao
người con gái đã bị chôn vùi tuổi thanh xuân chốn lầu xanh nhơ nhớp ấy mà
Đạm Tiên và Thúy Kiều là số phận tiêu biểu. Giá trị hiện thực của tác phẩm
còn thể hiện ở việc tố cáo sự thối nát của chính quyền phong kiến mà đại
diện là Hồ Tôn Hiến và bè lũ tay sai…. Chúng chẳng những tàn bạo, lật
lọng, tham lam mà còn là một phường phán trắc dâm ơ.
Về nội dung thì sách “ Đoạn Trường Tân Thanh” thì tác giả khơng
chia ra từng hồi, nhưng ta có thể xét theo mạch lạc mà chia ra làm ba phần,
gồm 13 chương như sau:
Phần Thứ Nhất: HỘI NGỘ
A-Phát Đoạn
a] Tài mệnh tương đố


b] Gia thế

c] Tài sắc hai chị em Thúy Kiều.
B-Kiều gặp Kim Trọng
a] Chơi xuân đến mộ Đạm Tiên
b]Gặp Kim Trọng
c]Về nhà - nghĩ vẩn vơ - Mộng Đạm Tiên- Than thân.
C-Đi lại với Kim Trọng
a] Kim Trọng tương tư - thuê nhà
b]Kim Trọng gặp Kiều - giao ước
c]Kiều tìm Kim Trọng- thề nguyền - nói răn
Phần Thứ Hai:LƯU LẠC
A- Gia biến
Kim Trọng sang Liêu Dương
Cha và em Kiều mắc nạn- Kiều quyết bán mình
Mã Giám Sinh mua Kiều
Vương ơng được tha- Kiều khuyên giải
Kiều phó thác tâm sự cho em.
B- Vào lầu xanh lần thứ nhất
a] Mã Giám Sinh rước Kiều: Về trú phường- về Lâm Tri.
b] Đến lầu xanh- Tú bà ra oai- Kiều tự vẫn
c] Tú bà lập mưu- dỗ Kiều- Kiều ở lầu Ngưng Bích- bị Sở Khanh lừa- Tú bà
hành tội
d] Kiều tiếp khách.
C- Lấy Thúc Sinh
a] Kiều được Thúc Sinh chuộc ra
b] Bị Thúc ơng cáo quan- quan xử đồn tụ
c] Sợ vợ chính- Kiều khuyên Thúc Sinh về nhà


d] Hoạn Thư căm giận- Thúc Sinh về nhà không dám thù
e] Thúc Sinh đi, Hoạn Thư lập mưu bắt Kiều- Thúc Sinh tưởng Kiều chết

D - Mắc tay Hoạn Thư
a] Kiều bị bắt nộp cho Hoạn bà
b] Kiều phải sang hầu Hoạn Thư
c] Hoạn Thư làm nhục Kiều trước mặt Thúc Sinh
d] Kiều được tu ở Quan Âm các
e] Thúc Sinh lên thăm Kiều bị Hoạn Thư bắt được.
E-Vào lầu xanh lần thứ hai
a] Kiều sợ trốn vào am Chiêu Ẩn
b]Giác Duyên sợ lụy gửi Kiều cho Bạc Bà
c] Bạc Bà lừa bán Kiều cho lầu xanh.
G- Lấy Từ Hải- Hết nợ đoạn trường
a] Được Từ Hải chuộc ra
b]Từ Hải thành cơng-Kiều báo ân báo ốn- Giác Dun nói vận mệnh- Từ
Hải hùng cứ
c] Hồ Tôn Hiến dùng mưu dụ hàng- Từ Hải đầu hàng và bị giết
d]Kiều bị ép lấy thổ quan- Tự tử ở Tiền đường
e] Giác Duyên gặp sư Tam Hợp nói chuyện Kiều- thuê thuyền vớt Kiều.
Phần thứ ba: ĐOÀN VIÊN
A- Kim Trọng trở lại vườn Thúy
a] Trở về thấy cảnh điêu tàn
b] Gặp gia đình Thúy Kiều
c] Ni cha mẹ Kiều-lấy Thúy Vân


B- Tìm Thúy Kiều
a] Kim Trọng, Vương quan thi đậu và được bổ quan
b] Hỏi được tin Kiều ở Lâm Tri
c] Hỏi được tin Kiều ở Hàng Châu- tưởng Kiều đã chết
C- Sum họp một nhà
a] Gặp đàn Tế - gặp Giác Duyên

b] Giác Duyên dẫn đi tìm Kiều- Kiều từ giả Giác Duyên
c] Mừng đoàn viên- Kiều cố từ việc kết hôn không được
d] Kim Trọng hứa xem nhau là bạn bè- Kiều đành đoạn kết liều đời bạc
mệnh.
D- Kết Thúc
a] Tài và mệnh
b] Thiện tâm sửa được số mệnh.
Về nội dung, Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá
trị nhân đạo. Tác phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với
bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận những người bị áp bức, đau
khổ, đặc biệt là số phận bi kịch của người phụ nữ.
Về nghệ thuật,Truyện Kiều đã đạt được những thành tựu to lớn về
nhiều mặt, nổi bật là ngôn ngữ và thể loại. Đến Truyện Kiều, ngôn ngữ tiếng
Việt đã đạt đến đỉnh cao của ngôn ngữ nghệ thuật ở cả ba phương diện biểu
đạt, biểu cảm và thẩm mĩ ; kết hợp hài hịa giữa ngơn ngữ bình dân và ngôn


ngữ bác học. Đồng thời nghệ thuật tự sự và miêu tả trong tác phẩm cũng rất
đa dạng.
Ngày nay, Truyện Kiều vẫn đang được các nhà xuất bản với số lượng
lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh
giá rất cao về Truyện Kiều. Và có thể nói rằng kiệt tác Truyện Kiều có sức
chinh phục khá lớn đối với nhiều thế hệ đọc giả cả trong và ngoài nước.
1.2.

Kim Vân Kiều Truyện.

1.2.1. Tác giả.
Thanh Tâm tài nhân tên thật là Từ Văn Trường, tức Từ Vị, cịn có bút
danh khác là Thiện Tri, Thanh Đằng, Điền Thủy Nguyệt. Theo một số

tư liệu ghi lại, ông sinh năm 1521 và mất năm 1593, là nhà văn Trung
Quốc sống dưới đời nhà Thanh. Ông học giỏi, hiểu biết rộng nhưng lận
đận chốn quan trường, thi không đỗ bèn làm mặc khách của Hồ Tôn
Hiến. Đã có lần ơng thảo tờ biểu “Dâng hươu trắng” cho vua nên trở
thành nổi tiếng.
Ngoài Kim Vân Kiều Truyện, ông còn viết bộ kịch “Tứ thanh viên”
[Vượn kêu bốn tiếng] gồm bốn vở Ngư dương lộng, Thúy nương
mộng, Hoa mộc lan và Nữ trạng nguyên.
1.2.2. Tác phẩm.
Kim Vân Kiều Truyện là một trong vô vàn tiểu thuyết Minh Thanh
[cuối Minh đầu Thanh], là cuốn tiểu thuyết chương hồi có kết cấu
truyền thống theo kiểu văn xuôi cổ điển Trung Quốc, với chủ đề chính
là tình và khổ. Tác phẩm viết về cuộc đời của Vương Thúy Kiều - cô
gái sống ở đời Minh, tài sắc vẹn tồn nhưng khơng tránh khỏi kiếp hồng
nhan bạc mệnh. Cuộc sống của cô như một trị đùa của định mệnh, cơ


phải sống lưu lạc, chịu nhiều khổ sở, đắng cay: “Thanh lâu hai lượt,
thanh y hai lần.” [ Kiều hai lần vào lầu xanh và hai lần làm nữ tỳ]. Cuốn
tiểu thuyết gồm 20 hồi, trước mỗi hồi đều có phần giới thiệu, tóm tắt
nội dung và bình luận. Kết cấu tác phẩm được viết theo thời gian tuyến
tính, diễn biến theo các sự kiện và hoạt động của nhân vật chính. Kim
Vân Kiều Truyện thiên về mơ tả sự kiện, đi sâu miêu tả thực tại, khắc
họa chân dung nhân vật một cách cụ thể- điều mà đôi khi ta cảm thấy
hơi khó chịu.
Cũng như các tiểu thuyết chương hồi khác, tác phẩm gần như không
đề cập đến diễn biến tâm lý nhân vật mà chỉ có các biến cố, hành động
của nhân vật. Tác phẩm lại đặc biệt coi trọng mâu thuẫn xung đột, tập
trung mô tả nhiều chi tiết để tơ đậm một tính cách nào đấy của nhân vật.
Diện mạo nhân vật gần như chỉ là những nét chấm phá chứ không miêu

tả cụ thể.Trong tác phẩm, tác giả cũng đã đưa vào những đoạn thơ, bài
phú miêu tả thiên nhiên, nhưng thiên nhiên ấy lại bị tách rời khỏi cốt
truyện và đôi khi lại không gắn bó gì với tâm trạng của nhân vật.
Nội dung từng hồi trong Kim Vân Kiều Truyện:
Hồi 1: Lược thuật gia thế họ Vương, sau đó là tài sắc của chị em Thúy
Kiều, cùng gặp gỡ Kim Trọng khi đi thăm mộ Đạm Tiên.
Hồi 2: Thúy Kiều về nhà mộng thấy Đạm Tiên và họa thơ bạc mệnh.
Kim Trọng giả danh du học đến thuê nhà ở vườn Thúy, rồi được hội
ngộ, trao thoa đổi quạt với Thúy Kiều.
Hồi 3: Nhân dịp cha mẹ đi ăn lễ sinh nhật ở ngoại gia, Thúy Kiều cáo
bệnh ở nhà gặp gỡ Kim Trọng. Hai người hẹn ước trăm năm.
Hồi 4: Kim Trọng phải sang Liêu Dương hộ tang. Chàng vừa đi thì
nhà Thúy Kiều mắc họa. Nàng định bán mình chuộc cha, trước khi đi
có nhờ em gái là Thúy Vân thay mình giữ lời hẹn ước với Kim Trọng.


Hồi 5: Vương ông cùng cả nhà không ai chịu cho Thúy Kiều bán
mình. Nàng hết lời phân giải thiệt hơn, Vương ông cũng không nghe,
toan tự vẫn.
Hồi 6: Mã Giám Sinh đưa tiền trang trải xong xuôi mọi việc. Thúy
Kiều cảm ơn Chung Sự là người lo toan mọi việc, nhận làm kế phụ.
Hồi 7: Thúy Kiều viết thư từ biệt Kim Trọng rồi chết ngất đi. Thúy
Vân thuật chuyện tâm sự của chị cho cha mẹ nghe. Mã Giám Sinh rước
Kiều đi, nàng nghi ngờ thái độ của Mã nên thủ sẵn một con dao để
phòng thân. Ngày thứ ba, Mã đưa Kiều về Lâm Tri.
Hồi 8: Về đến Lâm Tri, Kiều biết mình đã vào lầu xanh nên phản đối,
bị Tú bà đánh đòn. Kiều rút dao tự tử nhưng không chết. Tú bà chạy
thuốc, dỗ ngọt, cho nàng tịnh dưỡng ở lầu Ngưng Bích và hứa sẽ gả
chồng. Tại đây, Kiều gặp Sở Khanh.
Hồi 9: Kiều mắc mưu Sở Khanh, nhờ hắn cứu thoát, bị người của Tú

bà chạy theo bắt về, phải chịu đòn đau.
Hồi 10: Tú bà ép Kiều phải tiếp khách. Sở Khanh quay lại, toan hành
hung để che lấp xấu hổ nhưng bị kỷ nữ chửi mắng nên bỏ đi. Tú bà dạy
cho Thúy Kiều bảy chữ tám nghề.
Hồi 11: Kiều ở lầu xanh, than thở cảnh mình và hát để tiêu sầu. Nàng
gặp Thúc Sinh, cùng vui đùa ngâm vịnh khiến chàng say mê.
Hồi 12: Thúc Sinh giấu Kiều ở một nơi rồi lập kế chuộc ra. Được một
năm, cha Thúc Sinh đến, kiện con ở phủ đường bắt ly dị. Nhưng bài thơ
“Mộc giả” của Thúy Kiều khiến quan phủ xiêu lịng, xử cho đồn tụ.
Hồi 13: Hoạn Thư là vợ chính của Thúc Sinh nghe tin, nhưng làm ngơ
để tiện thi độc kế. Kiều khuyên chồng về thú với Hoạn Thư, Thúc ông
cũng khuyên. Vợ chồng ngâm vịnh khi tiễn biệt. Về đến nhà, tưởng


Hoạn Thư vẫn chưa biết nên chàng giấu. Được một năm, Thúc Sinh trở
lại Lâm Tri, Hoạn Thư qua bàn với mẹ lập mưu bắt Kiều.
Hồi 14: Hoạn Thư sai gia đình dị đường tắt đi bắt Thúy Kiều. Thúc
Sinh về đến nơi, tưởng kiều đã bị chết cháy. Kiều bị mẹ con Hoạn Thư
hành hạ, Thúc Sinh về nhà thăm vợ thì Hoạn Thư bắt Kiều ra chào.
Hồi 15: Thúc Sinh và Thúy Kiều gặp nhau mà không dám rỉ răng.
Kiều phải hầu tiệc, Hoạn Thư bắt Thúc Sinh tra sao Kiều có vẻ buồn,
sau đồng ý để nàng ra tu ở Quan Âm các sau vườn.
Hồi 16: Thúc Sinh ra thăm Kiều, khuyên nàng trốn đi, Hoạn Thư bắt
được. Thúy Kiều sợ, trộm chuông khánh trốn đi, được sư Giác Duyên
thu dụng.
Hồi 17: Hoạn Thư cho đi tầm nã nhưng Thúc Sinh can. Ở am Chiêu
Ân, vì có người biết nên Kiều phải thú với sư Giác Duyên chuyện ăn
trộm chuông khánh. Bà vãi cho Kiều trốn ở nhà Bạc bà là một tay bợm
già. Bạc bà lừa gả Kiều cho cháu là Bạc Hạnh để bán nàng vào lầu xanh
ở Thái Châu. Ở đây, nàng gặp Từ Hải là một kẻ cự phú hào hoa. Từ cảm

mấy lời tri kỷ, chuộc Kiều ra, ở với nhau được một năm thì Từ đi làm
giặc.
Hồi 18: Từ Hải đi được 3 năm, lập nên sự nghiệp, cho người về rước
Kiều đến đại doanh. Kiều xin báo ân báo oán. Hồ Tôn Hiến đem quân
đến tiểu trừ, thấy thế giặc mạnh phải lập mưu chiêu hàng. Tôn Hiến dụ
hàng, Từ không nhận lễ nhưng Kiều khuyên nên nhận.
Hồi 19: Kiều lấy lời trung hiếu khuyên khiến Từ Hải phải xuôi, nhận
lời với sứ giả. Nhưng khi Từ đã giải bình thì Tơn Hiến đánh úp, trở mặt.
Từ Hải chết đứng, đến khi Thúy Kiều ơm khóc thì mới ngã xuống. Tôn
Hiến ép gả Kiều cho một người tù trưởng mới hàng. Kiều nhớ đến lời
báo mộng của Đạm Tiên, trầm mình xuống sơng Tiền Đường. Giác


Duyên theo lời tiên tri của sư Tam Hợp, vớt cứu được Kiều. Khi nàng
mê mẩn, gặp Đạm Tiên trả lại tập thơ Đoạn trường và báo cho nàng biết
được sống lại.
Hồi 20: Cuối cùng là cuộc tái ngộ với Kim Trọng. Từ khi chàng trở về
vườn Thúy, thi đỗ làm quan, dò la tin tức của Thúy Kiều. Cho đến khi
tưởng Kiều đã chết, lập đàn giải oan và được sư Giác Duyên dẫn đi gặp
Kiều. Thúy Kiều nể lời cha mẹ và Kim Trọng nên nhận lời tái hợp.
Nhưng thấy thân đã nhục không đáng hiến cho kẻ chung tình, xin Kim
Trọng xem mình như một người bạn.
2. Điểm tương đồng và khác biệt giữa Truyện Kiều và Kim Vân
Kiều Truyện.
2.1.

Điểm tương đồng.

Về nội dung cơ bản cả hai đều nói về một nhà viên ngoại họ Vương,
sống vào năm Gia –Tĩnh triều Minh, có 3 người con, người con út là Vương

Quan rất chăm chỉ và hiếu học, có hai chị gái là Vương Thúy Kiều và Vương
Thúy Vân đều xinh đẹp, mỗi người một vẻ, đặc biêt là với Thúy Kiều khơng
chỉ có nhan sắc mà cịn có tài cầm kì thi họa. Nhân lễ tết thanh minh, 3 chị e
vơ tình viếng mộ một ca kỹ yểu mệnh là nàng Đạm Tiên. Biết chuyện cuộc
đời đoạn trường của Đạm Tiên khiến Thúy Kiều thương xót cho người mà
cũng lo lắng cho mình. Gặp Kim Trọng đem lịng u mến và thề nguyền lứa
đơi. Chẳng bao lâu Kim Trọng vì việc nhà phải trở về, gia đình Kiều lại
mang họa án oan, để cứu gia đinh thốt vịng lao lí, Kiều phải bán mình cho
Mã giám sinh để chuộc cha. Rồi nàng bị lừa và lưu lạc vào chốn lầu xanh, bị
Sở Khanh và Tú Bà lừa tiếp khách, nàng rơi xuống vũng bùn của xã hội. Tại
lầu xanh, nàng quen biết với Thúc Sinh và được chàng chuộc về. Vợ chàng
Thúc Sinh là Hoạn Thư vì ghen ghét đã hành hạ, và giam lỏng nàng, ép nàng
chép kinh. Thừa cơ hội bỏ trốn, nàng tìm đến và nương nhờ sư Giác Duyên.


Rồi vì lo ngại sống khơng n, Thúy Kiều ra đi va bị Bac Bà và Bạc Hạnh
lừa vào lầu xanh lần nữa. May thay lần này nàng gặp được người anh hùng
Từ Hải cứu về làm phu nhân. Từ Hải. Mượn thanh thế và quyền lực của Từ
Hải,Thúy kiều đã báo ân và báo ốn cho mình. Nàng khun Từ Hải đầu
hang triều đình để cầu cuộc sống bình yên, Từ Hải đồng ý. Quan phủ nuốt
lời, Từ Hải phải chết, Kiều bị ép gã cho Thổ quan, quá phẫn chí, nàng nhảy
xuống Sơng Tiền Đường tự vẫn, được sư Giác Duyên cứu sống. Đúng lúc
Kim Trọng theo tin tức tới khóc điếu nàng thì gặp nhau, cả gia đình đồn
tụ.Dây cũng chính là điểm giống nhau về nội dung của hai tác phẩm.
Về thống nhân vật: Nguyễn Du hầu như đã lấy tồn bộ hệ thống nhân
vật chính của Kim Vân Kiều truyện để sáng tạo cho tac phẩm Truyện Kiều.
Cụ thể các nhân vật chính bao gồm: Vương ông, Vương bà, Thúy Kiều,
Thúy Vân, Vương Quan, Đạm Tiên, Kim Trọng, Thằng bán tơ, Mã Giám
Sinh, Tú bà, Sở Khanh, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Hoạn phu nhân, Thúc ông,
Khuyển, Ưng, Giác Duyên, Bạc bà, Bạc hạnh, Từ Hải, Hồ Tơn Hiến.

Nhìn một cách tổng qt, cả hai cuốn truyện này đều có những điểm
tương đồng ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng tín ngưỡng dân gian . Trước
hết, cả hai đều khởi đầu bằng thuyết lý “Hồng nhan bạc mệnh” như một thứ
định luật cố hữu theo niềm tin của người Đông phương và đặc biệt là Trung
Hoa. Dưới cách nhìn của phương Đơng, những kẻ tài sắc thường bị mệnh
bạc, tạo hóa ghen ghét mà theo lý giải của dân gian cho rằng họ đã tạo
nghiệp trong kiếp trước; kiếp này sinh ra có sắc có tài, nhưng tài sắc ấy chỉ
làm cho họ khổ lụy như là hậu quả của việc gây nhân từ kiếp trước. Nhân
vật Đạm Tiên có thể xem là một bằng chứng cho lý thuyết ấy cũng như một
dự báo trước cho Thúy Kiều, một người cũng có tài sắc:


“Chắc vì hồn cảnh khơng may dun dủi vào nơi bể lửa vùi dập ngày
xuân. Vậy thì thuyền trước thuyền sau, biết đâu chị em mình lại chẳng
là kiếp sau của người đó?” [ Kim Vân Kiều Truyện]
Và với Nguyễn Du, ông vẫn giữ lại ý tưởng này nhưng triển khai rộng
hơn nhắm đến thân phận của đàn bà nói chung, trong đó có những kẻ hồng
nhan:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi bấy hóa cơng,
Ngày xanh mịn mỏi má hồng phơi pha”.
Và rằng

“Hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”.

Ngoài ra, trong cả hai cuốn truyện này đều nhấn mạnh số kiếp và định
nghiệp đời Kiều. Định nghiệp có lẽ bắt nguồn từ nghiệp nhân kiếp trước
nhưng bây giờ trước mắt Kiều cái định nghiệp ấy như một thứ ám ảnh đeo

đuổi và không thể chối từ dù bằng cái chết của mình:
Trong Kim Vân Kiều Truyện, Thanh Tâm Tài Tử qua lời Đạm Tiên đã nhắc
nhở Thúy Kiều:

“Huống chi trong lúc mình vừa chợp mắt, rõ ràng Đạm Tiên đã bảo:
“Món nợ oan nghiệt chưa trang trải xong, vội thoát cõi trần sao
được? Như vậy mà cứ liều chết, chẳng những nợ của kiếp trước chưa


hồn, mà nợ oan nghiệt kiếp này cịn chồng chất lên nữa, thì đến kiếp
nào mới trả xong?”. [ Kim Vân Kiều Truyện]
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, ông vẫn giữ nguyên ý kiến của
Thanh Tâm Tài Tử về định nghiệp, nhưng lại khốc vào đó một ngun nhân
tối thượng rất gần với tâm hồn Việt Nam là ông Trời. Song ơng Trời ở đây
có lẽ chỉ nên hiểu như một biểu tượng của màn lưới bao trùm định nghiệp
oan tiền nghiệp chướng ấy:
“Kể rằng: “Nhân quả dở dang,
Để toan trốn nợ đoạn tràng được sao!
Số còn nặng kiếp má đào,
Người dù muốn quyết trời nào đã cho!”
Hoặc:
“Vả trong thần mộng mấy lời,
Túc nhân âu cũng có trời ở trong.
Kiếp này nợ trả chưa xong,
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!”
Nói khác đi, ơng trời ở đây có thể tạm hiểu là một quyền năng của đấng
hóa cơng trong quan niệm “Thiên mệnh” của Nho giáo, nhưng với Nguyễn
Du, ơng trời chỉ là một cách nói nơm na, bình dân của nghiệp nhân nghiệp
quả mà thôi.
2.2.


Điểm khác biệt.

2.2.1. Về nhan đề.


Trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tên tiểu thuyết
là Kim Vân Kiều Truyện đơn thuần chỉ là câu chuyện của ba nhân vật chính,
hợp nhất tên của ba nhân vật Kim Trọng, Vương Thúy Vân, Vương Thúy
Kiều mà thôi.
Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc đã sáng tác Truyện Kiều, truyện thơ
bằng chữ Nôm, một kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm được
nhà thơ lấy tên là Đoạn trường tân thanh với nghĩa là tiếng kêu mới xé lòng
đứt ruột. Ngay trong nhan đề, tác phẩm đã thể hiện được tấm lòng nhân đạo
sâu sắc của thi nhân. Tác phẩm tự sự này xoay quanh kể về cuộc đời nhân
vật chính là nàng Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bị những thế
lực hắc ám vùi dập, đọa đày một cách thương tâm. Đó cũng là sự đại diện
cho số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa.
2.2.2. Về thể loại.
2.2.2.1. Kim Vân Kiều Truyện.
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thuộc thể loại văn
xuôi, thiên về mơ tả sự kiện, nó có điều kiện đi sâu vào mô tả thực tại, khắc
họa chân dung nhân vật một cách cụ thể, chi tiết hơn qua việc phối hợp các
hình thức đối thoại - kể chuyện - phân tích tâm lí một cách tương đối tự do,
linh động. Là một tác phẩm văn xuôi, một tiểu thuyết chương hồi, Kim Vân
Kiều truyện được kết cấu theo tuyến thời gian, theo một trình tự diễn biến
các sự kiện, theo quá trình hành động của các nhân vật chính. Thường trần
thuật một cách liên tục, hết một hồi là hết một truyện nhỏ, một hồi kết thúc ở
chỗ hay, chỗ cao trào hay một "nút thắt". Hồi này móc vào hối kia tạo ra một
thể liên hồn, để tăng thêm phần hấp dẫn, hồi thường kết thúc bằng câu:

"Muốn biết thế nào xem hồi sau sẽ rõ". Song tư duy tiểu thuyết loại này có
đăc điểm riêng, mang rõ dấu ấn chủ quan của người viết, thể hiện rõ qua
điểm “văn dĩ tải đạo”, đan xen giữa cốt truyện và lời phê bình, chỉ dẫn.


2.2.2.2. Truyện Kiều.
Truyện Kiều của Nguyễn Du được thể hiện bằng văn vần, toàn bộ câu
chuyện được tái hiện bằng ngôn ngữ thơ, vừa thông qua cảm xúc chuyển
dịch của chủ quan nhà thơ trên cơ sở một tác phẩm cũ, vừa liên kết xây dựng
văn bản mới với nguồn mạch cảm hứng trữ tình có nhiều thay đổi, động thời
lại vừa phải tn theo vần điệu, nhạc tính, hình ảnh và thể cách của thể thơ
lục bát. Truyện Kiều của Nguyên Du chính là một đỉnh cao rực rỡ của loại
Truyện thơ Nôm. Thể thơ lục bát đến Truyện Kiều cũng được quy chuẩn và
hoàn thiện hơn. Với 3254 câu Lục bát, Nguyễn Du đã huy động hầu hết các
bộ vần trong tiếng Việt vào tác phẩm. Với thể thơ Lục bát Truyên Kiều,
Nguyễn Du đã phát huy tối đa khả năng diễn tả vốn có của câu thơ Lục bát.
Nó có thể miêu tả, có thể kể chuyện, có thể bình luận triết lí…nó có thể đối
thoại, cũng có thể độc thoại…có thể diễn tả cái hùng, cái bi, cái cao thượng,
cái hài hước…Khả năng diễn đạt của Lục bát chẳng kém gì văn xi, thậm
chí cịn có thể hơn văn xuôi.
2.2.3. Về nhân vật.
Khi viết tiểu thuyết Kim Vân Kiều Truyện, Thanh Tâm Tài Nhân đã
sáng tạo ra một hệ thống nhân vật như: Kim Trọng, Thúy Vân, Hoạn Thư,
Thúc Sinh, Tú Bà, sở Khanh, Mã Giám Sinh, Giác Duyên, Tam Hợp đạo cô.
Đến Truyện Kiều, Nguyễn Du thấy hệ thống nhân vật như vậy là đủ, khơng
cần thêm bớt gì nữa. Nhưng đi vào chi tiết thì mức độ sáng tạo của Nguyễn
Du là cao hơn. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật hết sức thành cơng của
mình, Nguyễn Du đã làm cho các nhân vật trở nên quen thuộc với mọi người
Việt Nam. Tên các nhân vật gắn liền với tính cách, chẳng hạn như hai chữ
“Thúy Kiều” được dùng để chỉ những thiếu nữ tài sắc, “Thúc Sinh” để chỉ

những chàng trai hào hoa, “Hoạn Thư” để chỉ những mụ vợ ghen tuông cay


nghiệt, hay những cái tên như “Sở Khanh”, “Tú Bà” thành tên gọi chỉ kẻ xảo
trá và chủ nhà chứa,…
Cá tính nhân vật có sự khác nhau giữa hai tác giả. Ở Thanh Tâm Tài
Nhân tuy có miêu tả chi tiết, cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật nhưng chưa khắc họa
rõ chiều sâu cá tính. Chẳng hạn như việc tác giả muốn thể hiện Từ Hải như
một anh hùng uy vũ nhưng rồi lại tốn khơng ít bút mực miêu tả các chi tiết o
ép sứ giả, người hùng cùng quân binh đại bại như thế nào; việc nắm lấy
người làm giá che đỡ, đến khi chết đứng mà không chịu ngã khiến đám qn
lính khơng dám đến gần. Nhưng do văn của Thanh Tâm Tài Nhân chưa xuất
chúng nên các tình tiết tác giả đưa ra cịn vụn về chưa thể hiện được cá tính
mạnh mẽ của Từ Hải. Còn đến với Nguyễn Du, Từ Hải xuất hiện trong
Truyện Kiều là một trang anh hùng cái thế, hoàn toàn tồn khơng có một
chút biểu hiện của một tên tướng cướp giặc cỏ, từ hình hài dung mạo đến khí
phách phong độ:
-"Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
-Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài,
-Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể sở sơng Ngơ tung hồnh"
Người anh hùng ấy cịn có một tính cách, một tấm lịng bao dung:
"Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng,
-Sao cho muốn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng."
Còn là một tấm lịng ngay thẳng. Vì ngay thẳng mà chết oan chết đứng, chết
không nhắm mắt



Ngồi ra Kim Vân Kiều Truyện cịn khắc họa tâm lý nhân vật rất sơ
lược. Mục đích chính của tác phẩm là kể lại cuộc đời đầy bi kịch của một
thiếu nữ tài cao bạc mệnh. Đồng thời tấn bi kịch đó cũng liên quan đến bi
kịch của các nhân vật khác như Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải. Trong khi
thuật lại những tấn bi kịch đó, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ chú trọng đến việc
miêu tả tình tiết mà không mấy chú ý đến biểu hiện tâm lý nhân vật nên
chưa dễ hấp dẫn đối với người đọc. Chẳng hạn như cách miêu tả nổi đau khổ
của Kim Trọng khi biết được Thúy Kiều lưu lạc chỉ giản lược: “Càng khóc
càng thương, khóc cho đến khi miệng ứa máu tươi, ngất đi rồi tỉnh, tỉnh rồi
lại khóc”.
Đến Đoạn trường tân thanh thì khơng thế. Những chỗ chưa nhất qn
và khơng hợp lí trong ngun tác đều được Nguyễn Du nói lại theo cách của
mình. Nguyễn Du vẫn muốn thể hiện Thúy Kiều như một thiếu nữ đáng yêu
đáng kính song khơng q cường điệu ý nghĩa ln lý mà hết sức chú trọng
miêu tả những biến động và cảnh ngộ chua cay trong cuộc đời của Thúy
Kiều. Trong một vài cảnh ngộ, phản ứng của nàng có khi quyết liệt, có khi
nhẫn chịu, nhưng khơng phải khơng hợp tự nhiên, không khác với ứng xử
của con người đời thường. Điều đó cho thấy sự nhất quán trước sau trong
tính cách Thúy Kiều.
Trong Đoạn trường tân thanh, ngơn ngữ và cử chỉ nhân vật cũng được
miêu tả hết sức sinh động, phù hợp với mỗi thân phận và cá tính cụ thể.
Chẳng hạn như đoạn diễn tả phong thái Thúy Kiều khi bán mình:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng.
Hoặc đoạn diễn tả thái độ nàng trước việc cả nhà khuyên nhủ hãy cùng
chàng Kim tái hợp:
Hết lời, khôn lẽ chối lời,



Cúi đầu, nàng những ngắn dài thở than…
Ngoài ra, ngay cả ngôn ngữ, cử chỉ nhân vật phụ cũng được thể hiện khá phù
hợp, ví như Mã Bất Tiến:
Trước thầy sau tớ lao xao…
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…
Hay như Tú Bà:
Lão kia có giở bày bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
Khơng chỉ có thế, mỗi nhân vật cũng đều có cá tính rất rõ ràng. Điều
đó giải thích ngun nhân vì sao tên tuổi các nhân vật kia trở thành những
danh từ tiêu biểu trong kho tang ngôn ngữ tiếng Việt. Chẳng hạn mỗi cử chỉ,
hành động, lời nói của Từ Hải đều biểu hiện rõ ràng tính cách anh hào, mạnh
mẽ, khơng chịu trói buộc, tuy có say đắm Thúy Kiều nhưng khơng vì thế mà
đánh mất tráng chí bốn phương:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lịng bốn phương.
Trơng vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Sau khi lấy Thúy Kiều làm phu nhân, khác với Từ Hải trong nguyên
tác chỉ chăm chú tới vinh hoa phú quý, Từ Hải bộc bạch:
Cười rằng: “Cá nước duyên ưa,
Nhớ lời nói những bao giờ hay khơng?
Anh hùng mới biết anh hùng,
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”


Một điểm khác nữa, tác giả Kim Vân Kiều Truyện chưa chú trọng đến
miêu tả ngoại hình nhân vật mà chỉ nói một cách giản lược “người kiều

diễm, đang độ thanh xuân” [Thúy Kiều], “vẻ tựa Phan Anh, tài ngang Tử
Kiến” [Kim Trọng]…Nguyễn Du ngược lại, với nhân vật nào cũng đều nhập
thần với bút pháp tô điểm, ước lệ, khắc họa chân dung và phong thái cực kì
độc đáo. Chẳng hạn như khi miêu tả Thúy Kiều:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Hay như miêu tả Từ Hải:
"Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
-Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.”
Có khi miêu tả Tú Bà:
Thoắt trơng lờn lợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!
Nhưng thành tựu nghệ thuật to lớn nhất của Nguyễn Du chính là đã
thể hiện được thế giới tình cảm và tâm lý nhân vật. Thi nhân không hề tiếc
bút mực để trau chuốc, khắc họa cho được tâm trạng Thúy KIều nương theo
mỗi cảnh ngộ cụ thể. Chẳng hạn việc diễn tả tâm lí Thúy Kiều khi bị giam
giữ chốn lầu xanh tưởng nhớ Kim TRọng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời gốc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?


Cho đến mười mấy năm sau, một lần nữa nổi niềm thương nhớ Kim Trọng
lại được thể hiện sâu sắc, khơng hề trùng lập:
Tiếc thay! Chút nghĩa cũ càng,

Dẫu lìa ngó ý cịn vương tơ lịng.
2.2.4. Về tình tiết và nội dung.
Cũng như các tiểu thuyết tài tử giai nhân khác, Kim Vân Kiều Truyện
được kể thành hồi [20 hồi] với mơtíp thơng dụng của đơi tài tử giai nhân yêu
nhau rồi đau khổ, chia ly, lưu lạc để đến hồi đồn tụ. Chỉ có điều nhân vật ra
tay cứu nạn ở đây lại là người anh hùng Từ Hải và cảnh đồn tụ lại có khúc
bi ai giữa Th Kiều và Kim Trọng. Trong những tiểu thuyết tài tử giai nhân
chỉ có sự việc và sự việc, chúng tập trung ở từng hồi một thành những mưu
mô. Những mưu mơ này lại móc xích với nhau một cách khá lỏng lẻo để mỗi
mưu mơ có tính độc lập riêng với nhiều tình tiết tỉ mỉ, chi li và người đọc có
thể đọc hồi sau, khơng cần biết hồi trước nói gì mà vẫn hiểu được. Kim Vân
Kiều Truyện cũng được kết cấu như vậy nên có rất nhiều mưu mơ như Kim
Trọng tìm cách chiếm được trái tim Kiều, bọn sai nha lo xoay sở tống tiền,
Thuý Kiều bàn tính để cha mẹ bằng lịng cho được bán mình… Các mưu mơ
ở đây được trình bày khéo léo nên lôi cuốn được người đọc.
Các chi tiết nhỏ nhặt, Thanh Tâm Tài Nhân đều giải thích đầy đủ,
nhưng Nguyễn Du bỏ hết, ông chọn những chi tiết nào thật cần thiết mới giữ
lại và cũng trình bày theo cách kể của ông. Nguyễn Du vay mượn hệ thống
nhân vật cũng như sự kiện nên không tránh khỏi việc tiếp thu những yếu tố
này nhưng ông không đơn thuần chỉ theo nguyên truyện mà sáng tạo lại và
phát huy những điểm mạnh để làm cho đúng theo ý đồ nghệ thuật của mình.
Tuy nhiên từ Kim Vân Kiều Truyện bước sang Truyện Kiều là một thế giới
khác hẳn, Nguyễn Du hầu như bỏ hết các sắp đặt tính tốn, để cho sự việc


Trở lại câu chuyện So sánh Kim Vân Kiều với Truyện Kiều

GS. Nguyễn Huệ Chi
06:12 CH @ Thứ Hai - 05 Tháng Mười Hai, 2005

Năm 1989, tôi là người có cái may mắn tiếp xúc với hai cuốn Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng tập 4 [1986] và tập 5 [1987] trong đó có bài So sánh “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du in liền hai kỳ của ông Đổng Văn Thành mà nhà Trung Quốc học người Nga Riftine nhã ý trao cho đọc tại Moskva rồi sau đó nhờ tôi đem về tặng lại chị Phạm Tú Châu. Vừa đọc, tôi đã nhận thấy đây là một bài viết có ngữ khí không bình thường, có vẻ là một hồi chuông “cảnh mê”, hay một gáo “nước xối sau lưng” cho người ta tỉnh lại, như lời Huỳnh Thúc Kháng nói về bài Ngô Đức Kế cũng về chuyện đánh giá Truyện Kiều 70 năm về trước. Lời lẽ của Đổng Văn Thành kể như là lời tâm huyết của một “tráng sĩ” muốn “ra tay tế độ” khi chứng kiến cảnh “trầm luân” của một sản phẩm thuộc “kho báu” tinh thần của đất nước mình, bị đồng loại [người Trung Hoa] quên lãng, trong khi đó thì người chị em sinh đôi với nó tại một quốc gia khác - Truyện Kiều - lại được hết thảy người Việt và rộng hơn, rất nhiều người đọc trên thế giới, kể cả một số học giả Trung Quốc rất mực trân trọng, đề cao, coi đó như kiệt tác của một thiên tài. Tôi cảm thông với nỗi phẫn hận chính đáng của nhà nghiên cứu họ Đổng và kính trọng công phu kiên trì tìm kiếm bóng dáng nguyên bản Kim Vân Kiều truyện của ông, cũng như hứng thú đón nhận những thông tin mới mẻ về Kim Vân Kiều truyện mà ông cung cấp, cả những lời bàn giải về nhiều mặt khả thủ ông gợi ra từ tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng lại rất không đồng tình với cách ông bênh vực Kim Vân Kiều truyện bằng việc hạ thấp Truyện Kiều. Tôi thầm hẹn với lòng thế nào cũng phải có ngày hầu chuyện ông. Vì thế, mặc dù từ bấy đến nay kể cũng đã lâu, đã có nhiều người như Phạm Tú Châu, Hoàng Văn Lâu, Nguyễn Khắc Phi và cả Trần Ích Nguyên ở Đài Loan lên tiếng1, xem ra tiếng chuông của Đổng Văn Thành gióng lên mười tám năm về trước vẫn còn gây hiệu ứng trên văn đàn Trung Quốc, Đài Loan, có thể ở Việt Nam và biết đâu ở một số nước khác nữa2, nên xin tiếp tục có mấy lời mạo muội trao đổi vớiĐổng tiên sinh.

1. Tôi rất tán đồng với Nguyễn Khắc Phi rằng muốn so sánh Kim Vân Kiềutruyện với Truyện Kiều một cách khoa học nhất thiết phải có những thao tác nghiêm chỉnh và tỷ mỉ nhằm đối chiếu chỗ dị đồng giữa hai bên thật rành mạch chứ không thể tùy tiện. Tôi cũng không kém tán đồng Phạm Tú Châu và Hoàng Văn Lâu rằng muốn làm so sánh cho chính xác, không chỉ phải thành thạo cổ Hán ngữ mà còn phải rất thành thạo tiếng Việt nhất là tiếng Việt thế kỷ XIX, cái mà ông Đổng Văn Thành chỉ mới có được một vế. Đến nỗi khi so sánh, ông đã vô tình rơi vào lầm lẫn vì phải dựa vào bản dịch Truyện Kiều ra chữ Hán chưa mấy chuẩn xác của ông Hoàng Dật Cầu3. Tôi sẽ không nhắc lại ở đây những gì họ Đổng đã thất thố khi không vượt qua nổi “cái bẫy” của bản dịch mà Phạm Tú Châu và Hoàng Văn Lâu đã thẳng thắn chỉ ra, khiến cho những chỉ trích của ông, chẳng hạn nói rằng Nguyễn Du đã hạ thấp tính cách hai nhân vật Thúy Kiều và Từ Hải, hoặc Nguyễn Du đã dùng điển không chỉnh... đều trở nên vô nghĩa. Tôi cũng chưa thể làm cái việc so lại từng đoạn từng câu thật kỹ lưỡng giữa Kim Vân Kiềutruyện và Truyện Kiều như Nguyễn Khắc Phi mong muốn. Việc ấy Phạm Đan Quế đã thực hiện từ năm19914, sau đó Nguyễn Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan và Lô Úy Thu lại tiếp tục tuy nhằm chủ đích khác nên chỉ thu gọn trong “một số nhận xét”5. Tuy nhiên, tôi cũng tự mình đối chiếu ở một chừng mực nhất định giữa hai tác phẩm, với một mục tiêu hạn chế, nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong bài này.

Chỗ quan trọng trước hết, theo tôi, là hãy nhìn sâu vào chủ ý của ông Đổng Văn Thành. Ông muốn đề xuất điều gì cấp thiết khi so sánh Truyện Kiềuvới Kim Vân Kiều truyện? Nguyễn Khắc Phi cho rằng “không thể phủ nhận ý định đề cao, thậm chí rất cao Truyện Kiều của Nguyễn Du” trong bài của ông6. Đọc đi đọc lại bài Đổng Văn Thành nhiều lần tôi thấy không hẳn đã như thế. Nguyễn Khắc Phi không thích cách lấy tiêu chí của một tác phẩm Trung Quốc như Hồng lâu mộng để làm thước đo giá trị Truyện Kiều của Việt Nam. Rất đúng, nhưng mà thôi cũng cứ được đi, nếu Đổng Văn Thành thực tâm muốn sánh Truyện Kiều với Hồng lâu mộng. Đọc lại câu văn của ông Đổng Văn Thành, thì nào đâu có phải. Ông chỉ nói đó là dư luận từ trước đến nay về Truyện Kiều chứ không phải ý kiến của bản thân ông. Thậm chí ông còn dẫn lời ông Trương Triều Kha trong sách Sơ giản lịch sử văn học Á Phicho rằng “Người dân Việt Nam so Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều, với Pouskine của Nga, Balzac của Pháp và Tào Tuyết Cần của Trung Quốc”7. Vậy “cái thước đo” mà Nguyễn Khắc Phi e ngại thực chất theo Đổng Văn Thành là của người Việt đấy, tuyệt không phải của người Trung Hoa và người nước ngoài. Như sau đây ta sẽ thấy, dẫn ra những lời này, Đổng Văn Thành muốn kín đáo hoàn lại thước đo ấy cho người Việt theo kiểu cái gì của César thì trả về cho César. Đó mới là chỗ dụng ý thâm trầm của tiên sinh họ Đổng. Vì sao tôi dám nói vậy? Hãy xem trình tự phân tích trong bài của Đổng Văn Thành.

Sau khi hết lời phàn nàn sự bất công của dư luận trong nước đã bỏ quên Kim Vân Kiều truyện suốt mấy trăm năm, thậm chí “sổ toẹt”, họ Đổng bèn so sánh Kim Vân Kiều truyện với Truyện Kiều theo một tiến trình hai chặng. Chặng thứ nhất chia làm hai bước nhỏ là so sánh cốt truyện và so sánh chủ đề tư tưởng giữa hai tác phẩm, chặng thứ hai là so sánh những tình tiết sai dị giữa hai tác phẩm, từ đó rút ra kết luận cũng theo một tiến trình hai cấp, nâng luận điểm lên dần dần. Tiến trình đầu, có ba kết luận cơ bản được rút ra: a. “Nhân vật chính cùng tình tiết cốt truyện ở hai bộ Truyện Kiều của Trung Quốc và Việt Nam hoàn toàn giống nhau, kể cả kết cấu tự sự cũng không chút thay đổi. Chỗ khác nhau chỉ là Truyện Kiều Trung Quốc có bản 12 hồi và có bản 20 hồi, còn Truyện Kiều Việt Nam chỉ có bản gồm 12 quyển, không có bản gồm 20 quyển. Tiểu thuyết Truyện Kiều Trung Quốc lưu truyền cuối đời Minh, tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân in đầu đời Thanh còn Truyện Kiều của Việt Nam được Nguyễn Du hoàn thành vào năm thứ hai sau chuyến đi sứ Trung Quốc lần thứ nhất [năm 1815, niên hiệu Gia Khánh năm thứ 20], muộn hơn Truyện Kiều của Trung Quốc ít nhất trên 160 năm. Rõ ràng Nguyễn Du chịu ảnh hưởng tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân chứ quyết không thể là chuyện ngược lại”8; b. “Nhìn tổng thể, tôi - tức Đổng Văn Thành - thấy Truyện Kiều của Nguyễn Du bất luận về nội dung hay về nghệ thuật đều không vượt được bản gốc - Truyện Kiều của Trung Quốc - mà nó mô phỏng”9 [một chỗ khác trong Minh Thanh tiểu thuyết giám thưởng từ điển, Đổng quân còn nói trắng ra rằng Truyện Kiều là “bản dịch” từ Thanh Tâm Tài Nhân như Nguyễn Khắc Phi đã lưu ý]; c. “Truyện Kiều của Nguyễn Du bảo tồn được phần lớn tinh hoa của nguyên tác tiểu thuyết Trung Quốc, tuy có tăng giảm về nội dung và nghệ thuật song phần nhiều vẫn bảo tồn được nguyên tác, vì vậy có cống hiến cho sự giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm đáng được khẳng định”10. Tiến trình đầu tiên gồm ba luận điểm này thật chặt chẽ và lôgic. Cốt truyện thì không thay đổi, ai cũng chấp nhận. Chủ đề tuy có thay đổi nhưng không đi xa nguyên tác, mà Nguyễn Du lại viết Truyện Kiều sau Kim Vân Kiều truyện những 160 năm là ít, vậy Nguyễn Du không “mô phỏng”, không “dịch lại” Thanh Tâm Tài Nhân thì là gì. Hẳn ít ai, dù có muốn cũng khó thoát ra khỏi tình thế lưỡng đao của kết luận thứ hai. Truyện Kiều của Nguyễn Du có giá trị đấy, “đáng được khẳng định”, nhưng nhìn cho kỹ giá trị ấy chỉ nằm trong phạm vi “bảo tồn được nguyên tác” và đóng góp vào sự “giao lưu văn hóa Trung Việt”, nói cụ thể là “bất luận nội dung hay nghệ thuật đều không thể vượt lên trên nguyên tác” được. Chỉ qua hai thao tác so sánh đơn giản, ông Đổng Văn Thành đã đặt người ta vào cái thế phải thu hẹp lại phạm vi ý nghĩa Truyện Kiều, từ chỗ là một tác phẩm độc lập và có giá trị nhân loại để đời đến chỗ phải nằm trong tương quan với Kim Vân Kiều truyện mới thấy rõ giá trị, thế có đáng để chúng ta thán phục hay không.

Nhưng xin chớ vội lạc quan. Ngay sau mấy lời khẳng định thế rồi, ông Đổng Văn Thành chuyển sang đánh giá về Kim Vân Kiều truyện.Vâng, đánh giá là việc cần làm, và chúng tôi nghĩ rất nên hoan nghênh những tìm tòi thấu đáo để đi tới sự đánh giá khách quan đúng mức. Nhưng ở đây ta hãy lưu ý tới một ý kiến chốt lại của ông, rằng Kim Vân Kiều truyện là “một tác phẩm loại hai” trong kho tàng tiểu thuyết Minh Thanh, từ đó liên hệ trở lại với những kết luận ông rút ra ở phần trước, thì sẽ thấy dụng ý sâu xa của một lời phán quyết vô ngôn trong mạch ý tứ của tác giả. Xin thử chắp nối hai ý: nếu “bất luận về nội dung hay về nghệ thuật Truyện Kiều không thể nào vượt được bản gốc”, mà bản gốc thuộc vào hàng những tác phẩm loại hai, từ lâu đã bị bạn đọc Trung Hoa xếp xó, thì cái tác phẩm gọi là “mô phỏng bản gốc” ấy làm sao đáng được xem là một sản phẩm thiên tài, có thể đem sánh với Hồng lâu mộng như người Việt đã làm? Chẳng phải Đổng tiên sinh đã cho chúng ta một bài học thâm thúy về cách dùng tam đoạn luận cũng rất thâm thúy đấy sao.

Song đâu đã hết. Ông Đổng Văn Thành sẽ còn bước sang chặng so sánh thứ hai về những sai dị giữa hai tác phẩm như trên tôi đã đề cập, để cuối cùng dành cho độc giả tự phán đoán lấy, thông qua những kiến giải có vẻ không nỡ nói thật cạn ý, nhưng ai chịu khó nghiền ngẫm chắc còn bàng hoàng sửng sốt hơn. Ông nói: a. “Nguyễn Du đã in dấu ý thức chủ quan của mình cho một số nhân vật, làm tổn hại sự thống nhất về tính cách của những nhân vật ấy ở mức độ nhất định”11; b. “Nguyễn Du đã làm sâu thêm quan niệm số mệnh phong kiến”12; c. “Nguyễn Du còn thêm chân cho rắn khiến chúng mâu thuẫn với hoàn cảnh và tình tiết trong toàn bộ nguyên tác”13. Nghĩa là bất luận về phương diện nào, tuy nói Truyện Kiều không thua Kim Vân Kiều truyện, cứ đi sâu vào thì rõ là thua trông thấy, mà thua là do chủ quan Nguyễn Du đã thay đổi tình tiết cốt truyện; do “thành phần giai cấp quý tộc” của Nguyễn Du khiến Nguyễn Du quá nương nhẹ trong việc kết án giai cấp thống trị; và do Nguyễn Du chưa nhuyễn điển cố văn học Trung Quốc, còn “hổng về kiến thức”, lại “thích khoe khoang” nên nhiều chỗ đã “dùng sai” “dùng gượng” “dùng chồng chất” các thứ điển, làm ảnh hưởng tới giá trị tác phẩm của ông. Thiết tưởng, với ba kết luận bổ sung đó, còn ai dám coi Truyện Kiều đứng ngang Kim Vân Kiều truyện được nữa không, hay đành phải chấp nhận lời phê phán nhẹ nhàng mà không kém “sâu sắc nước đời” của họ Đổng: “những tình tiết Nguyễn Du đổi khác so với nguyên tác tuy không nhiều nhưng tuyệt đại đa số đều không được như mức độ tư tưởng và mức độ nghệ thuật của nguyên tác”14. Nói khác đi, nếu Kim Vân Kiều truyện là tác phẩm loại hai thì Truyện Kiều với những sửa chữa “biến lành thành què” của Nguyễn Du lại phải đặt xuống loại ba hoặc thấp hơn nữa, nhất định là thế, và cái điều mà ta buộc phải liên tưởng như một hệ luận tất yếu, là một tác phẩm lâu nay vẫnđược thế giới nhìn nhận là kiệt tác thì than ôi đấy chỉ là... bé cái nhầm. Tuy không nói hẳn ra, “gáo nước lạnh” ông Đổng Văn Thành xối sau lưng độc giả, rốt cuộc, lại phải nói như cụ Huỳnh Thúc kháng, đã trở thành tiếng “sét phang trước trán” thật rồi.

2. Nhưng chân lý có đứng về phía ông Đổng Văn Thành hay không? Đó mới là điều cần trao đổi với nhau. Chỗ lầm lẫn đầu tiên của ông Đổng Văn Thành theo tôi là ông đã so sánh Kim Vân Kiều truyện với Truyện Kiều của Nguyễn Du trên cấp độ cốt truyện [tuy ông nói ông “so sánh nhân vật-cốt truyện” nhưng xét kỹ chỉ là so sánh cốt truyện và một số tình tiết cốt truyện xoay quanh hai nhân vật Thúy Kiều, Từ Hải mà thôi]. Chính ông cũng biết giữa hai tác phẩm có một khác biệt hết sức cơ bản: thể loại của chúng khác nhau. Một bên là văn xuôi tự sự [Kim Vân Kiều truyện], còn một bên là truyện thơ [Truyện Kiều] mà ông gọi đó là thơ trường thiên. Thể loại đã khác nhau thì thông điệp nghệ thuật của mỗi tác phẩm làm sao có thể giống nhau, bởi vì nói như Ferdinand Brunetière [1849-1906], thể loại văn học cũng giống như các loài sinh vật tiến hóa theo thuyết Darwin, luôn luôn phải phục tùng quy luật tiến hóa đa dạng của đời sống văn học. Đó “là một trong những vấn đề rất cũ của thi pháp học” và “việc nghiên cứu thể loại phải được tiến hành từ đặc trưng cấu trúc nghệ thuật của nó”15 chứ đâu phải là từ cốt truyện? Thiết tưởng những kiến thức này là điều sơ đẳng, nhà nghiên cứu văn học ai cũng phải nắm vững. Vậy mà ông Đổng Văn Thành lại sử dụng một thao tác kỳ lạ: sử dụng lời tóm tắt Kim Vân Kiều truyện của Thư viện Đại Liên do Nhà xuất bản Xuân phong in năm 1983 trong khoảng vài chục dòng rồi đem đối sánh với đoạn tóm tắt Truyện Kiều của ông Hoàng Dật Cầu cũng trong khoảng vài chục dòng để dẫn tới một lời khẳng quyết rằng “giá trị nội dung và nghệ thuật” của tác phẩm này [Truyện Kiều] là “bảo lưu” nói cách khác bắt nguồn từ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm kia [Kim Vân Kiều truyện], tức là truyện này là dịch hay mô phỏng của truyện kia, thật dễ dàng làm sao!

Trái với Đổng Văn Thành, chúng tôi cho rằng nếu đi tìm sự dị biệt giữa Kim Vân Kiều truyện với Truyện Kiều trên cấp độ cốt truyện thì vấn đề sẽ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Việc Truyện Kiều của Nguyễn Du được “đoạt thai hoán cốt” từ tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và trên cơ bản, theo sát cốt truyện, thậm chí tình tiết cốt truyện của bản gốc, thì người Việt Nam từ lâu rồi ai mà chẳng thừa nhận. Nói rộng hơn, giao lưu văn hóa trên thế giới xưa nay là chuyện muôn thuở và trong khu vực văn hóa Đông Á nhiều thế kỷ đã qua, Việt Nam và một số nước láng giềng với tư cách những nền văn hóa ngoại vi đã hướng về Trung Hoa như một tâm điểm, là điều không có gì lạ. Công lao “gợi ý” của Kim Vân Kiều truyện đối với Truyện Kiều trong trường hợp này quả là lớn chứ không phải nhỏ. Có điều, bằng thể loại truyện thơ, Truyện Kiều đã chinh phục độc giả Việt Nam tuyệt không như Kim Vân Kiều truyện đến với độc giả Trung Hoa, bởi lẽ hai yếu tố truyện và thơ đã kết hợp một cách kỳ diệu thông qua thiên tài sáng tạo của Nguyễn Du, từ phương thức tư duy thuần túy trần thuật bước sang địa hạt tư duy tự sự-trữ tình, nâng cấp lên tư duy trừu tượng-biểu cảm, khiến cho cảm xúc của người đọc được nhân lên gấp bội và cứ thế lan tỏa không giới hạn, vượt qua cõi hữu thức mà đi vào đến tận cõi vô thức, vượt qua việc đọc Kiều, kể Kiều, ngâm Kiều, lẩy Kiều, tập Kiều, đố Kiều, họa Kiều, vịnh Kiều, bình Kiều, giảng Kiều, diễn xướng Kiều mà đi đến cả bói Kiều, từ truyền cảmnghệ thuật đã tiến sát vùng biên giới của tín ngưỡng. Đó là điều Thanh Tâm Tài Nhân không thể nào làm được với cuốn truyện chương hồi của ông. Ngay trong văn học thế giới, theo lời Hoài Thanh, trừ Homère ra cũng không ai giành được một địa vị trong công chúng theo kiểu như Nguyễn Du. Thử hỏi, chỉ so sánh cốt truyện giữa Kim Vân Kiều truyện với Truyện Kiều không thôi thì làm sao thấy được cái ranh giới không thể lẫn lộn kia? Trong văn học phương Tây, đề tài “Le Cid” vốn có từ thế kỷ XI và tính đến thế kỷ XVII chẳng phải đã lần lượt xuất hiện ít nhất bốn tác phẩm khác nhau: 1. Bản anh hùng ca Bài ca về Cid[El Cantar de Mío Cid] của Tây Ban Nha, hoàn chỉnh khoảng năm 1142; 2. Vở hài kịch Tuổi trẻ của Cid [Las Mocedades del Cid] của Guillén de Castro [Tây Ban Nha], ra mắt năm 1618; 3. Vở chính kịch Những kỳ công của Cid [Las Hazañas del Cid] cũng của Guillén de Castro, hoàn thành trong khoảng thời gian ít lâu sau vở trước; 4. Vở bi kịch Le Cid của Pierre Corneille [Pháp] công bố vào năm 1637. Cả bốn tác phẩm đều lấy đề tài từ câu chuyện lịch sử về chàng Rodrigo Diaz [1043- 1099] người Tây Ban Nha đã được truyền thuyết hóa, do chiến công lừng lẫy nên được một bộ tộc bị chinh phục tôn xưng là “Đức Ông” [Mío Cid], trong đó vở kịch danh tác của P. Corneille chịu ảnh hưởng rất sâu sắc từ vở Tuổi trẻ của Cid của Guillén de Castro. Thế nhưng trong văn học so sánh của thế giới trước nay, chẳng ai lấy tiêu chí cốt truyện giống và khác nhau giữa bốn tác phẩm trên để định giá sự hơn kém giữa bốn tác phẩm. Vì sao? Đơn giản chỉ vì cốt truyện không thể nào hàm chứa phát ngôn nghệ thuật của từng thể loại riêng [anh hùng ca, hài kịch, chính kịch, bi kịch] mà những tác phẩm này là hình thức biểu hiện cụ thể. Đem cốt truyện Truyện Kiều so sánh với cốt truyện Kim Vân Kiều truyện để định hơn kém, ông Đổng Văn Thành đã làm cái việc thế giới không hề làm. Đấy là điều chúng tôi thành tâm muốn chất chính ông.

3. Cũng cần nói rõ hơn, sự khác nhau về thể loại giữa Kim Vân Kiều truyện và Truyện Kiều thực chất là khác nhau về loại hình ngôn ngữ: một bên là văn xuôi một bên là thơ. Đây mới là một khu biệt có chiều sâu cần được nói kỹ hơn sự khu biệt về thể loại, bởi nói đến văn xuôi kể chuyện theo lối cổ như Kim Vân Kiều truyện là nói đến cái ngữ nghĩa thông báo đơn nhất mà ngôn từ chứa đựng, cụ thể ở đây là nội dung của câu chuyện được kể lại. Còn nói đến thơ thì ngoài ngữ nghĩa đọc ra từ ngôn bản, còn phải nói đến tiết tấu, vần và nhịp điệu, nói đến khả năng cộng hưởng của tất cả những thứ ấy, nó hướng tới chỗ thiết lập một sự tương ứng giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, hay như lời Mallarmé là thơ sinh ra bởi một cuộc “tôi luyện đan dệt bằng nghĩa và sự âm vang” [retrempe alternée en le sens et la sonorité]. Chính ông Đổng Văn Thành cũng thừa nhận ưu thế cộng cảm phi thường trong lời thơ trữ tình của Nguyễn Du mà ông chọn lấy hai đoạn tác giả thêm vào sau lúc Thúy Kiều đi thanh minh trở về và lúc ở lầu Ngưng Bích làm dẫn chứng. Ông nhận xét: “Trong lúc trữ tình, nhà thơ đã gửi gắm vào đó cả thể nghiệm cuộc đời của mình, nên những đoạn đó chân thực tha thiết, làm cảm động lòng người”16. Nhưng ngay sau một lời khen thành thật, họ Đổng đã lèo luôn vào một câu gần như phủ định sạch trơn điều ông vừa khẳng định tức thì: “Nhưng đồng thời, có lúc nhà thơ mải mê gửi gắm tình cảm chủ quan của mình nên đã làm tổn hại đến sự hoàn chỉnh và thống nhất của nhân vật” 17. Việc Đổng Văn Thành vừa thừa nhận vừa phủ định giá trị trữ tình ngoại đề của tác phẩm Nguyễn Du chúng tôi sẽ bàn ở phần dưới. Chỉ xin nói rằng trữ tình ngoại đề là sở trường của tác giả Truyện Kiều mà ông Đổng Văn Thành chắc chưa thể nắm hết các thủ pháp độc đáo của nhà thơ bằng người am tường Việt ngữ, chẳng hạn trữ tình theo dòng hồi tưởng của nhân vật, cũng bấy nhiêu nỗi niềm nhớ cha nhớ mẹ nhớ người tình cũ mà mỗi lần là một Thúy Kiều ngổn ngang trăm mối tơ lòng hiện lên trước mắt ta không chút lặp lại; trữ tình thông qua âm thanh của tiếng đàn, cũng chừng ấy tiếng tơ tiếng trúc mà mỗi lần Kiều gảy lại một lần hiện diện một thế giới kỳ lạ chất chứa bên trong tâm hồn nàng, ám ảnh mãi người xem; trữ tình gói trong lời bình xen vào trần thuật, mỗi lần là một chân lý sống hiển nhiên dội vào tâm trí khiến người ta sửng sốt, có giá trị kéo nhân vật về với hiện tại trước mắt... Tuy nhiên, trữ tình ngoại đề chỉ mới là một phương diện đặc sắc của Truyện Kiều. Chất thơ trong Truyện Kiều còn biểu hiện ở hai phương diện khác, nó làm nổi rõ sự khác nhau về đẳng cấp của Truyện Kiều so với Kim Vân Kiều truyện: đó là Truyện Kiều đã đem thiên nhiên vào tác phẩm, tạo nên một không gian nghệ thuật kỳ thú cho câu chuyện của mình, trong khi Kim Vân Kiều truyện hoàn toàn vắng mặt thiên nhiên, và thứ hai là lời thơ Nguyễn Du làm cho ngôn từ trần thuật lung linh màu sắc, trở nên có nhiều tầng nghĩa, nghĩa bề ngoài và nghĩa bên trong, nghĩa nổi và nghĩa chìm, nghĩa siêu hình và nghĩa hiện thực, mặt khác có giá trị gắn kết mọi trạng thái cảm xúc phức hợp trong tâm hồn nhân vật lại, đưa lại cho người đọc những cảm nhận nhiều chiều nhiều vẻ. Đó là điều văn xuôi Kim Vân Kiều truyện không có được.

Với việc khắc họa thiên nhiên, Nguyễn Du không phải chỉ xây dựng một bức tranh phong cảnh. Ông có tâm hồn của một người từng tắm mình trong nguồn suối thi vị của cảnh trí thơ Đường để chuyển tải nó vào sáng tạo của riêng mình. Mặc dầu thế, vẻ đẹp thơ mộng của Đường thi chỉ chiếm một phần trong cái nhìn thiên nhiên của ông. Phần lớn hơn, ông tái tạo một thiên nhiên thứ hai, được cá thể hóa, gắn vào đó tâm trạng của nhân vật, biến đổi theo nhân vật, mỗi nơi một khác, làm nên không gian trữ tình để từ trong đó nhân vật có một chiều kích mới mẻ và khiến cho nhân vật gần lại với chúng ta, như đang giao tiếp với chúng ta, dắt chúng ta bước vào khung cảnh của câu chuyện lúc nào không hay. Thiên nhiên ở đây là chủ thể thứ ba làm cầu nối giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận. Đó chính là thiên nhiên của tiểu thuyết, không phải loại tiểu thuyết cổ mượn phong cảnh như một công thức sáo mòn để đưa đẩy, chuyển đoạn cho câu chuyện kể, mà là tiểu thuyết với nghĩa hôm nay. Nếu nhìn tổng quát, ngoại trừ rất nhiều trường hợp Nguyễn Du lồng thiên nhiên vào chỉ bằng một hai câu thơ ngắn nhưng cũng đủ hoán cải nội dung câu chuyện so với Kim Vân Kiều truyện, như hình ảnh “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/Đinh ninh đôi miệng một lời song song” trong đêm thề nguyền giữa Thúy Kiều và Kim Trọng để cho mối tình đôi lứa có thêm một nhân vật chứng giám [Kim Vân Kiều truyện chỉ viết: “Hai người cùng lạy trời đất, đọc rõ bài minh thệ, đọc xong mời nhau chén tạc chén thù rất là vui vẻ。讀。盟。甚], hay hình ảnh “Đêm khuya khắc lậu canh tàn/Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương/Lối mòn cỏ lợt màu sương/Lòng quê đi một bước đường một đau” trong cái đêm Sở Khanh lừa Kiều đi trốn khỏi lầu Ngưng Bích, mở ra con đường hun hút vô vọng trên từng bước chân của Thúy Kiều trong cuộc trốn chạy [Kim Vân Kiều truyệnchỉ viết: “Lúc bấy giờ vào khoảng tháng chín, trong kỳ sương giáng, cảm thấy hơi lạnh rợn người, lại không có trăng, cảnh vật thật là thê thảm。天。便。又。好] v.v... mà ta không thể đếm xuể, thì ít nhất có 9 trường đoạn Nguyễn Du lồng rất đậm thiên nhiên vào trong Truyện Kiều mà Kim Vân Kiều truyện hoàn toàn không thấy: đoạn chị em Kiều đi thanh minh, đoạn Thúy Kiều sau khi đi thanh minh trở về giữa đêm khuya ngồi trước hiên lầu nghĩ ngợi, đoạn Kim Trọng bị tiếng sét tình yêu thúc đẩy phải tìm trở lại nơi lần đầu gặp gỡ cho khuây bớt nhớ nhung, đoạn đường Mã Giám Sinh đưa Kiều về Lâm Truy, đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích28, đoạn Thúc Sinh từ biệt Kiều về thăm Hoạn Thư, đoạn Kiều trốn khỏi Quan Âm các, đoạn Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường, đoạn Kim Trọng trở lại vườn Thúy. Ở đây chỉ xin so sánh một trường hợp để thấy chỗ khác nhau về bút lực giữa Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân:

Ngay mở đầu thiên truyện, trong cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, gặp mộ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng, Thanh TâmTài Nhân chép rất kỹ việc Kiều đề thơ trước mộ nàng ca kỹ, việc Đạm Tiên hiển linh thành ngọn gió Tây u ám làm mọi người hoảng sợ và nỗi cảm thương của Thúy Kiều đối với con người hồng nhan bạc phận, việc Kim Trọng nhìn thấy hai chị em Thúy Kiều xinh đẹp liền tơ tưởng ngay đến chuyện làm sao lấy cho được cả hai... Nhưng đáng tiếc, bối cảnh của những cuộc gặp gỡ ấy, vốn đóng vai trò then chốt chi phối hai phương diện tình yêu và vận mệnh của nàng Kiều về sau, ông lại hoàn toàn bỏ qua, chỉ chép có mấy dòng vắn tắt: “Một hôm nhằm tiết thanh minh, cả nhà họ Vương cùng đi tảo mộ, rồi luôn dịp dự hội đạp thanh. Thúy Kiều cùng hai em là Vương Quan và Thúy Vân thong thả dạo chơi đây đó. Bỗng đi đến bờ suối, thấy một ngôi mộ đơn độc, bèn hỏi Vương Quan rằng [...] Thúy Kiều vạch bài thơ xong, hãy còn nấn ná chưa ra về, bỗng thấy một chàng thư sinh cưỡi ngựa từ xa đi đến. Vương Quan nhận ra là người bạn đồng song chí thiết Kim Trọng, nhưng không ngờ anh chàng lại chủ ý tìm tới đây nên vội nói với Thúy Kiều: “Có anh Kim đến, hãy tạm lánh đi”. Thúy Kiều thoạt nghe, ngước mắt nhìn, thấy Kim Trọng vẻ người hào hoa, phong lưu thích thảng, đang giong ngựa tiến đến, liền cùng Thúy Vân lảng qua phía sau mộ. Kim Trọng tới trước mộ, xuống ngựa chào Vương Quan...”19. Đơn giản thế thôi. Trong khi đó, bằng linh cảm của một nghệ sĩ lớn, Nguyễn Du có lẽ đã nhận thức dược tầm vóc của trường đoạn thanh minh nó khởi đầu mọi nút thắt cho toàn bộ tấn bi kịch bằng thơ của mình. Vì thế ông đã chủ tâm dựng lên cả một không gian rộng lớn, vừa hư vừa thực, để làm môi giới cho những mặt ẩn kín trong tính cách con người Thúy Kiều có dịp phát lộ: một con người rất đa cảm, trong một thời khắc đặc biệt và trước cái đẹp của tạo vật đang hồi sinh mơn mởn, nàng bất thần được chạm trán cùng một lúc với thần số mệnh và với hạnh phúc rợn ngợp của mối tình đầu:

Câu39“Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.

Gần xa nô nức yến oanh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.

Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thong thả dan tay ra về.

Bước lần theo ngọn tiểu khê,

Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Sè sè nắm đất bên đường,

Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh [...]

Câu133Dùng dằng nửa ở nửa về,

Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.

Trông chừng thấy một văn nhân,

Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.

Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau lưng theo một vài thằng con con.

Tuyết in sắc ngựa câu giòn,

Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời.

Nẻo xa mới tỏ mặt người,

Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.

Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.

Chàng Vương quen mặt ra chào,

Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa [...]

Câu163Người quốc sắc kẻ thiên tài,

Tình trong như đã mặt ngoài còn e.

Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,

Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn.

Bóng tà như giục cơn buồn,

Khách đà lên ngựa người còn ghé theo.

Dưới cầu nước chảy trong veo,

Câu 170Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”

Có thể nói, theo dõi cả 9 trường đoạn có sự tham gia tích cực của thiên nhiên trong Truyện Kiều và tất nhiên hoàn toàn vắng mặt thiên nhiên trong KimVân

Kiều truyện,ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, Thanh Tâm Tài Nhân là nhà văn chỉ dàn dựng con người và sự việc theo thời gian tuyến tính, còn Nguyễn Du đã dàn dựng nhân vật và sự kiện trong phối cảnh nghệ thuật sống động với cả không gian và thời gian, đan chéo giữa không gian và thời gian hiện thực với không gian và thời gian tâm lý, giữa không gian và thời gian vũ trụ với không gian và thời gian tâm linh.

Còn về những câu thơ Kiều có khả năng tạo nên âm hưởng đa thanh so với Kim Vân Kiều truyện thì khó lòng nói hết, dường như nhặt ở đâu cũng có. Có khi là những câu thơ giúp ta lật đi lật lại nhiều góc cạnh của vô vàn trải nghiệm về cuộc sống - nội dung những câu này không hề có trong Kim Vân Kiều truyện:

Câu217“Một mình lưỡng lự canh chầy,

Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh”

Câu247“Sầu đong, càng lắc càng đầy,

Ba thu dồn lại, một ngày dài ghê”

Câu443“Bây giờ rõ mặt đôi ta,

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”

Câu1147“Thân lươn bao quản lấm đầu,

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”

Câu1197“Dẫu sao bình đã vỡ rồi,

Lấy thân mà trả nợ đời cho xong”

Câu 1515“Thương nhau xin nhớ lời nhau,

Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy”

Câu1547“Lo gì việc ấy mà lo,

Kiến trong miệng chén có bò đi đâu”

Câu 1975“Dẫu rằng sông cạn đá mòn,

Con tằm đến thác cũng còn vương tơ”

Câu2151“Chém cha cái số hoa đào,

Cởi ra rồi lại buộc vào như chơi”

Câu2155“Tiếc thay nước đã đánh phèn,

Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần.

Hồng quân với khách hồng quần,

Đã xoay đến thế còn vần chưa tha”

Câu2163“Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”v.v...

Có khi nhà thơ phù phép vào vần thơ đều đều lục bát, biến chúng thành những câu thơ điệp thanh, điệp chữ, thay đổi cách ngắt nhịp, gieo vần, phối hợp với những hình ảnh liên kết hoặc đối lập, đối ứng, có giá trị tu từ rất đắt, tạo nên âm hưởng trùng điệp, dồn dập, nhấn nhá, buông lửng, kéo dài... hằn rõ hơn, mở rộng hơn, hoặc gây ấn tượng đột ngột về những điều mình muốn gửi gắm trong tâm tư người đọc:

Câu221“Nỗi riêng/lớp lớp sóng dồi,

Nghĩ đòi cơn/lại sụt sùiđòi cơn

Câu451“Tóc tơ/căn vặn tấc lòng,

Trăm năm/tạc một chữ đồng/đến xương.

Chén /sánh giọng quỳnh tương,

Giải hươnglộn/bìnhgươngbónglồng

Câu481“Trong/như tiếng hạc bay qua,

Đục/như tiếng suối mới sa nửa vời.

Tiếng khoan/như gió thoảng ngoài,

Tiếng mau sầm sập/như trời đổ mưa.

Ngọn đèn/khi tỏ/khi mờ,

Khiến người ngồi đó/cũng ngơ ngẩn sầu.

Khi tựa gối/khi cúi đầu,

Khichín khúc/khichau đôi mày”

Câu557“Cònnon/ cònnước/ còndài

Còn về/còn nhớ/đến người hôm nay”

Câu585“Điều đâu bay buộc/ai làm,

Này/ai đan dậm/giật dàm/bỗng dưng

Câu697“Phận dầu/dầu vậy/cũng dầu

Câu701“Thềhoa/chưa ráo chén vàng,

Lỗi thề/thôi/đã phũ phàng/với hoa

Câu851“Nỗi riêng/tầm tã tuôn mưa,

Phần/căm nỗi khách/phần/dơ nỗi mình”

Câu883“Khi về/bỏ vắng trong nhà,

Khi vào dùng dắng/khira vội vàng.

Khi ăn/khi nói/lỡ làng,

Khi thầy/khitớ/xem thường xem khinh”

Câu923“Thoắt trông/nhờn nhợt màu da,

Ăn chi/cao lớn/đẫy đà làm sao

Câu973“Lão kia giở bài bây,

Chẳng văngvàomặt/mà mày lại nghe”

Câu981“Thôi thì thôi/có tiếc gì,

Sẵn dao tay áo/tức thì giở ra”

Câu1053“Buồn/trông/gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm/tiếng sóng/kêu quanh ghế ngồi”

Câu1211“Chơi/cho liễu chán/hoa chê,

Cho lăn lóc đá/cho mê mẩn đời”

Câu1234“Khi tỉnh rượu/lúc tàn canh,

Giật mình/mình lại thương mình/xót xa.

Khi/sao phong gấm rủ là,

Giờ/saotan tác/như hoa giữa đường.

Mặt/saodàygiódạn sương,

Thân/saobướm chán/ong chường/bấy thân.

Mặc/người mưaSở/mâyTần,

Những mình/nào biết có xuân/là gì”

Câu1271“Đã cho lấy chữ hồng nhan,

Làm cho/cho hại/cho tàn/cho cân”

Câu1307“Dưới trăng/quyên đã gọi hè,

Đầu tường/lửa lựu lập lòe/đâm bông”

Câu 1427“ Phận đành/chi dám kêu oan,

Đào/hoen quẹn má/liễu/tan tác mày”

Câu 1617“Làm cho/chomệt/cho mê,

Làm cho/đau đớnê chề/cho coi”

Câu1837“Bắt khoan/bắt nhặt/đến lời,

Bắt quỳ tậnmặt/bắt mời tận tay

Câu 1875“Chước đâu/rẽ thúy chia uyên,

Ai/ra đường nấy/ai/nhìn được ai

Câu 1883“Một mình/âm ỉ/đêm chầy,

Đĩa dầu vơi/nước mắt đầy/năm canh”

Câu 2269“Hỏa bài/tiền lộ ruổi mau,

Namđình/nghe/động/trống chầu/đại/doanh”

Câu 2579“Nghecàng đắm/ngắmcàng say,

Lạ cho mặt sắt/cũng ngây vì tình” v.v...

Khi phân tích cách gieo vần thần tình giữa vần pace với vần sface, vần piena với vần pena trong những bài thơ tình tặng nàng Laure của nhà thơ nổi tiếng Phục hưng Italia Pétrarque [1304-1374], nhằm “làm sống dậy những nỗi thống khổ của tình yêu”, nó “gợi lên một sự trùng hợp ngược đời nơi trái tim của chàng tình nhân, giữa một niềm an lạc và một sự hủy diệt, một nỗi khổ đau và một trạng thái sung mãn”, Michel Collot đã đi đến kết luận rằng “không thể nào tóm tắt, chú giải hoặc dịch ra ngôn ngữ khác một áng thơ mà không làm cho nó mất đi không những tính nhạc mà còn một phần ý nghĩa của áng thơ đó”20. Tiếc thay, điều Michel Collot cảnh báo lại rơi đúng vào trường hợp ông Đổng Văn Thành. Ông đã ba lần “đánh mất” chứ không phải một: dựa vào một bản dịch mà mình không nắm chắc được sai đúng, đấy là lần thứ nhất, sử dụng phương pháp tóm tắt thơ Kiều để định vị Truyện Kiều, thêm một lần “đánh mất” thứ hai, không chú ý đến sức lan tỏa của tiếng nói âm nhạc dồn nén trong lời thơ đưa đến những hiệu quả thẩm mỹ ngoài ngôn ngữ, đấy là lần “đánh mất” thứ ba.

4. Với những thêm bớt của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Đổng Văn Thành tỏ ý không hài lòng, cho rằng Nguyễn Du đã đem chủ quan của mình vào, hạ thấp nhân vật của nguyên tác. Nhiều chi tiết ông Đổng Văn Thành chê bai, cứ chịu khó suy nghĩ chắc ông cũng có thể tự phản tỉnh, chẳng hạn việc Nguyễn Du tô đậm “dòng dõi thư hương” của gia đình Thúy Kiều ở một số tình tiết, theo ông là không đúng vì vào đầu truyện, tác giả đã giới thiệu đó là một gia đình “thường thường bậc trung”. Nhưng xin ông hiểu cho, truyền thống gia đình cổ xưa và cả hiện đại ở Việt Nam [và hẳn Trung Quốc cũng thế thôi], “thường thường bậc trung” không có nghĩa là thiếu nền nếp, thất học, trái lại phần lớn những nhân vật hiển hách về chữ nghĩa vẫn xuất thân trong các gia đình không giàu có song luôn luôn giữ được “nếp nhà” tức là nếp học hành lễ nghĩa mà ta có thể đổi cách gọi là “tầng lớp trung lưu” cho dễ hiểu. Phải bắt nguồn từ một gia đình thanh bạch có học thì nết na và tài năng của mấy chị em họ Vương mới làm người ta yêu mến, và mới có được những phẩm cách ưu trội của một Thúy Kiều làu thông cả thi ca nhạc họa, nhập thần đến mức “Tay tiên một vẩy đủ mười khúc ngâm”, “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”, được Hoạn Thư khen là “Ví chăng có số giàu sang/Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên”... chứ. Thêm nữa, về sau Vương Quan chẳng đỗ Tiến sĩ và làm quan to đấy sao. Bắt bẻ chữ nghĩa tiểu tiết như ông chẳng là quá câu nệ ư? Rồi việc Kim Vân Kiều truyện ghi thành phần của Kim Trọng là “chàng tú sĩ nhà giàu trong làng” [Đổng Văn Thành giải thích rõ hơn là “con trai một tài chủ nhà quê”] nhưng Nguyễn Du lại đã biến cải chàng thành dòng dõi trâm anh, họ Đổng cho là vô lý, vì theo lôgic của ông, đã là nhà trâm anh thế phiệt thì sao khi gia đình họ Vương gặp nạn “nhà kia lại không đem tiền bạc, thế lực ra giúp bạn cũ mà đành trơ mắt nhìn họ Vương bán đứt con gái yêu của mình?”21. Đọc lại Truyện Kiều, chúng tôi đâu có thấy giữa hai nhà Kim-Vương từng có mối thâm giao bằng hữu. Thì ra, vì dựa vào bản dịch, ông đã hiểu câu thơ 153 “Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân” [bạn học thân thiết] thành ra “Hàng xóm nhiều đời giao hảo”. Cũng đành phải “thông cảm” với ngộ nhận của nhà học giả chứ biết nói sao. Nhưng không chỉ thế, Nguyễn Du còn cho Kim Trọng lên Bắc Kinh “du học” thì quê quán của chàng tuy không xa Bắc Kinh đi nữa, tất không phải ở ngay Bắc Kinh, trong làng nơi gia đình Thúy Kiều cư ngụ, như trong Kim Vân Kiều truyện. Mà quan hệ giữa Kim và Kiều dẫu đã thề nguyền hẹn ước song đâu có công khai cho hai gia đình biết; trong một tình thế khẩn cấp, chàng Kim lại đang đến Liêu Dương hộ tang chú, “sơn khê cách trở”, thời bấy giờ chưa có điện tín, hỏi làm cách nào báo tin cho chàng được để về cứu nạn Thúy Kiều? Vả chăng, đòi hỏi nhà họ Kim quý phái phải bỏ tiền ra cứu giúp nhà họ Vương chẳng hóa đâm ra lẩn thẩn, coi đường dây phát triển nội tại của tiểu thuyết cũng dễ dãi như truyện cổ tích thần kỳ, cứ ước gì được nấy, gặp cảnh ngộ không may là có người hiện ra giải thoát, cuối cùng bọn bất nhân bị đánh đổ, người phúc hậu được hưởng giàu sang, thì còn gì là tiểu thuyết? Vân vân... Từ một vài chi tiết bắt bẻ của Đổng Văn Thành, suy ra, họ Đổng chỉ muốn Nguyễn Du không được tham gia phần ý tưởng của riêng mình trong khi cải tạo lại cốt truyện mà ông chuyển tác. Về phương pháp luận, cách nghĩ ấy khỏi phải nói cũng thấy là bất ổn. Sản phẩm nghệ thuật bao giờ cũng mang tính chủ quan của nhà nghệ sĩ trong khi nhìn thế giới, nó là bằng chứng cá tính sáng tạo của nghệ sĩ, để một nghệ sĩ thật sự tài năng khẳng định sự tồn tại của mình, không thể lấy một mẫu gốc nào đó ra để áp đặt cho cái đi xa mẫu gốc. Nguyễn Du không phải là típ nhà văn mà ông Đổng Văn Thành quan niệm.

Chính từ đây, chúng tôi muốn nói đến sự khác nhau trong xây dựng nhân vật giữa Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân. Nhìn chung, cuốn tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân được triển khai theo dòng tiểu thuyết đạo lý. Tính cách của nhân vật ngay từ đầu đã được định sẵn, mọi biến cố của cuộc đời chỉ làm cho tính cách ấy có dịp bộc lộ ra bằng hành động theo dạng này dạng khác, bằng ứng xử lúc cương lúc nhu tùy tình thế bắt buộc, bằng đối thoại thường khi là phát ngôn của tác giả nên không tự nhiên như ngôn ngữ của người trong cuộc, quá nhiều lý lẽ, và cũng rất dài lời. Tính cách đó không thay đổi, cũng không phải là thuộc tính có một không hai của những con người cá thể, mà là một tập hợp thang bậctheo loại của hai hệ thống đạo đức không điều hòa với nhau: một bên là những cái tốt, cái đẹp theo chuẩn mực chính thống của xã hội được thêm bớt, pha phách đậm nhạt chỗ này chỗ khác bởi nhà văn, và bên kia là những cái xấu xa, hèn mọn dồn đọng lại dưới đáy xã hội cũng được nhà văn loại hình hóa. Trình độ của tiểu thuyết đạo lý nói chung ít khi tạo nên được những nhân vật thực sống mà nhiều lắm cũng chỉ tạo nên những “tấm gương”, biểu tượng của từng loại hình đạo đức xã hội nào đấy. Người kể chuyện trong tác phẩm thường đứng bên ngoài nhân vật, chỉ đạo nhân vật vượt qua hết nạn nọ đến nạn kia để chứng tỏ cho độc giả thấy hạng người như Thúy Kiều là người giàu tài năng và đức hạnh, càng được “mài xát” thì càng sáng rỡ.

Mặt khác, tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân đồng thời cũng là kiểu tiểu thuyết truyện kể, rất ly kỳ ở tình tiết, ly kỳ đến độ nhiều chi tiết vẽ ra quá tỷ mẩn, ví dụ kể chuyện Vương Viên Ngoại bị bọn sai nha hành hạ thì tả rõ “bốn chân tay bị treo quặt lên, mặt và bụng ở phía dưới, trên lưng đè một hòn đá, ba trăm sáu mươi đốt xương, đốt đốt rời lìa, tám vạn bốn nghìn lỗ chân lông, thảy đều đổ mồ hôi, mặt mày tái mét”22. Tình tiết ly kỳ làm cho nhân vật càng phơi bày tính cách có sẵn bằng những hành vi cụ thể, nên trong truyền thống thưởng thức nghệ thuật của phương Đông xưa cũng có một sức hấp dẫn đáng kể. Dưới ngòi bút của Thanh Tâm Tài Nhân, Thúy Kiều là một con người rất chủ động. Trong cơn gia biến, nàng hầu như làm hết mọi việc. Nàng hoàn toàn tỉnh táo, chạy vạy khắp đây đó, lo vực dậy tinh thần cho em cho mẹ, lo bàn tính với đám sai nha, nhờ vả Chung Công để cứu cha cứu em ra khỏi vòng nước lửa, rồi kế đó dứt khoát bán mình, tự ngã giá cho đến khi được 450 lạng bạc mới ưng thuận, lại thăm dò gia thế Mã Giám Sinh để tính con đường làm lẽ sau này. Khi gặp được Từ Hải, nàng cũng chủ động dựa vào thế lực của Từ để trừng phạt kẻ thù và trừng phạt đến nơi đến chốn, không bỏ sót một ai, như quấn chiếu lại, đâm nát nhừ thân thể Bạc Hạnh “khiến người xem kinh hoàng muốn chết”, và sai trộn xương thịt của y vào cỏ cho ngựa ăn; lột sạch quần áo Hoạn Thư chỉ chừa một cái khố, quấn tóc lên xà nhà, cho hai cung nữ đánh đủ một trăm roi, “một người từ trên quất xuống, một người từ dưới quất lên, đánh cho như cá rơi than nóng, lươn phải nước sôi。鱔”; dựng ngược Tú Bà lên, tẩm dầu thông từ chân đến cổ, căng người Mã Giám Sinh trên một cái giàn, nấu một vạc dầu nhựa thông sôi sục rồi cùng lúc đốt cây sáp người Tú Bà, dùng dao nhọn róc gân Mã Giám Sinh, lấy móc sắt lôi hết gân ra và dội nhựa thông sôi bỏng vào mình Sở Khanh, lóc từng mảng da mảng thịt của y cũng bằng móc sắt, “chỉ một chốc lát lóc sạch thân thể Sở Khanh, còn lại hình dạng một cục máu nhầy nhụa。將”... Người đọc, nhất là người đọc bình dân vốn mê truyện dân gian, sẽ rất khoái trá, cảm phục trước tính cách tiết liệt của Thúy Kiều, một tính cách “đại trượng phu”, có “phẩm chất sát phạt, quyết đoán”23 đúng như ông Đổng Văn Thành nhận định. Nhưng cũng phải nói đây là một kiểu tính cách tiết liệt được đẩy tới cùng, đoan chính cũng đoan chính cùng tột, ham muốn cũng ham muốn cùng tột, oán thù cũng oán thù cùng tột, không còn là một con người với tất cả những trở trăn hai ba phía, cao cả và hèn yếu, mạnh dạn và rụt rè, hăm hở và chán chường, lo toan và buồn nản... như ta thường gặp trong đời. Vì thế, khi ông Đổng Văn Thành cho rằng nhân vật Thúy Kiều là “một điển hình nữ tính giàu nội hàm tư tưởng” 24, một hình tượng “cao hơn hẳn cuộc sống hiện thực và có ý nghĩa điển hình tương đối lớn”25, thậm chí một “tính cách hướng nội” 26 thì khó ai có thể đồng tình. Khái niệm “hướng nội” chỉ một nhân vật thường sống nhiều với thế giới bên trong. Xét toàn bộ Kim Vân Kiều truyện, tính cách Thúy Kiều không hề biểu hiện ở một chỗ nào khuynh hướng “quay vào” ấy. Nàng là người luôn luôn hành động, rất giỏi suy nghĩ, toan tính, đối thoại có lý có lẽ, nhưng hiếm có một lúc nào nàng tự đối diện với chính mình. Lỗi hiển nhiên không phải do nàng mà do tác giả, đúng hơn, do thời đại quy định. Nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ mới là nhân vật truyện kể, người kể chuyện trong tác phẩm chỉ mới đứng từ ngoài hay đứng từ trên để chỉ đường đi nước bước cho nhân vật, thủ pháp sử dụng độc thoại nội tâm chưa được biết tới, thì làm sao nói đến nhân vật hướng nội ở đây? Ngay chỉ một chỗ ở hồi thứ tư, tác giả tả Thúy Kiều trong cái đêm đầu tiên gia đình rơi vào khốn quẫn, nàng nằm mơ thấy Kim Trọng đang đuổi theo con ngựa chở mình đi, giấc mơ khá thú vị nhưng cũng chỉ gói gọn trong một ước vọng duy nhất: Kim Trọng bất thình lình trở về cứu nàng và gia đình nàng. Nói cho đúng, cũng có một số bức thư, tờ cung, và không ít bài thơ bài ca được tác giả xen vào trong trần thuật, thế nhưng chúng lại thường quá nặng về từ chương học nên không liền mạch với tình cảm nhân vật cho lắm, dường như là cách tác giả khoe tài văn chương của Kiều thì đúng hơn. Cho nên, nói hình tượng Thúy Kiều là “một điển hình tương đối lớn” “cao hơn hẳn cuộc sống hiện thực” có phải là đánh giá Thanh Tâm Tài Nhân đã đạt đến một chủ nghĩa hiện thực ở mức cao? Đánh giá thế nào là quyền của ông Đổng Văn Thành, còn chúng tôi thì cho rằng không thể đặt Kim Vân Kiều truyện cũng như Tam quốc diễn nghĩa, Tây du ký, Nho lâm ngoại sử... - là những tác phẩm được ông xếp vào hàng tiêu biểu, vượt trên Kim Vân Kiều truyện nhiều - vào phạm trù chủ nghĩa hiện thực được. Không phải cứ chủ nghĩa hiện thực mới là sáng giá, song đã nói đến chủ nghĩa hiện thực nhất thiết phải có những tiêu chí rõ ràng trong khắc họa tính cách, đặt vào những hoàn cảnh thích đáng cho tính cách ấy phát triển, chứ không thể muốn nói sao thì nói.

Trong xây dựng nhân vật, Nguyễn Du đã tham bác, kế thừa mặt mạnh của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng ông không đi theo hướng của Thanh Tâm Tài Nhân. Nhân vật của ông cũng có nhiều nét ước lệ, tượng trưng, vì bút pháp của nhà thơ trước sau không phải là hiện thực chủ nghĩa. Rất nhiều chi tiết rườm rà của Kim Vân Kiều truyện đã được Nguyễn Du lược gọn lại. Thi ca không cho phép kể lể rậm rạp đã đành, cái chính là giữa Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân có một khoảng cách trong khuynh hướng miêu tả nghệ thuật. Tuy thế, cũng không nên cạn nghĩ rằng cứ tượng trưng ước lệ là yếu tố tự sự nhất định phải yếu kém. Sự trần thuật của thơ khác với trần thuật của văn xuôi là ở chỗ, bằng thủ pháp tượng trưng ước lệ, nhiều khi thông báo nghệ thuật của thơ có giá trị liên tưởng cao hơn hẳn văn xuôi. Cũng vì cứ bám vào cách kể chuyện tỷ mỉ theo kiểu Thanh Tâm Tài Nhân mà ông Đổng Văn Thành tưởng lầm là hiện thực, ông đã dẫn ra một đoạn khá dài trong Kim Vân Kiều truyện kể chuyện Từ Hải giáp chiến với quân lính triều đình, thấy họ đùn đẩy nhau, Từ vừa “hét vang một tiếng như sấm rền” vừa một mình một ngựa xông lên vung búa chém đứt đầu viên phó tướng Không Hỗn và đuổi các tướng Bốc Tế, Cừu Nhiêu chạy dài... rồi so sánh với đoạn thơ Nguyễn Du mô tả chiến công của Từ Hải:

Câu 2439“Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,

Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.

Triều đình riêng một góc trời,

Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.

Đòi phen gió táp mưa sa,

Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi Nam”

và nói dứt khoát rằng “tiểu thuyết nguyên tác phơi bày không nể nang và châm biếm chua cay sự bất tài của tướng soái quan quân”27, còn “dưới ngòi bút của Nguyễn Du, ưu thế áp đảo tuyệt đối quân đội triều đình của Từ Hải [vốn có trong Kim Vân Kiều truyện] bị giảm nhẹ rất nhiều”28. Chẳng lẽ lại phải giải thích để họ Đổng hiểu rằng lối đặc tả chiến trận giữa các tướng soái địch và ta, có hò hét, có vung kiếm vung đao, có khích bác chê bai bên địch, có chém băng đầu một vài đối thủ và cuối cùng có một bên thắng một bên bại như Kim Vân Kiều truyện tả đấy thì còn kém xa Tam quốc diễn nghĩa, giỏi lắm cũng chỉ như các “miếng tuồng” trên sân khấu kinh kịch, sân khấu hát bội của người Việt là cùng, làm sao sánh được với sáu câu thơ hàm súc ca ngợi không chỉ chiến công mà cả khí thế cuồn cuộn, uy danh lừng lẫy của Từ Hải của nhà thơ Việt Nam? Bút pháp ước lệ là thế, trúc chẻ ngói tan là đi đến đâu kẻ thù nát vụn đến đấy; binh uy ran như sấm thì còn gì chấn động và vang xa hơn được nữa; rạch đôi sơn hàlàđã chiếm được cả một vùng rộng lớn đối trọng hẳn với triều đình; gió táp mưa sa là thế quân như trận bão Katrina vừa mới rồi đổ vào nước Mỹ, cái thế không cần phải vung giáo vung gươm mà đạp đổ năm tòa thành dễ như trở bàn tay. Nguyễn Du không mô tả cụ thể tình cảnh luống cuống của quan quân trong khi đối phó với Từ Hải nhưng chỉ bằng bấy nhiêu mỹ từ hoán dụ và ám dụ người đọc cũng đã dư sức hiểu đội quân nhà vua hèn nhát và thất bại như thế nào rồi, cần gì phải thêm một vài lời châm biếm mới đủ tăng sức nặng cho uy thế của họ Từ.

Một chỗ khác, ông Đổng Văn Thành còn kỳ công trích dẫn cả một đoạn dài không kém để làm bằng chứng cho hình tượng Từ Hải “ôm chí lớn ngút trời” trong Kim Vân Kiều truyện: “Có một hảo hán họ Từtên Hải, hiệu là Minh Sơn hòa thượng, người đất Việt đến chơi. Người này có lòng ưu ái, phóng khoáng đại lượng, ôm chí lớn lao, coi giàu sang nhẹ tựa lông hồng, xem người bằng vai như cỏ rác. Khí tiết hơn hẳn người cùng lứa, cao lớn hùng vĩ trùm đời, hiểu rõ lược thao, giỏi giữ ngay thẳng. Thường nói: “Trời cho ta tài năng ắt cho ta sử dụng. Hữu tài vô dụng là trời phụ ta vậy. Nhược bằng hoàng thiên phụ ta thì ta cũng phụ lại hoàng thiên. Đại trượng phu ở đời phải làm sao cho được lỗi lạc, lập được những sự bất hủ trên đời, sao có thể chết già bên cửa sổ như những kẻ sống vì miếng ăn? Còn nếu có tài mà vô mệnh, anh hùng không có đất dụng võ, không để lại được tiếng thơm cho trăm đời thì phải tự mình tạo ra mệnh. Khinh suất gây binh đao nơi ngòi đầm chỉ tổ để lại nỗi sỉ nhục đến vạn năm. Nếu không được như thế thì bầu nhiệt huyết trong người này làm thế nào sử dụng được?” Hồi nhỏ học hành nhưng không thành đạt bèn bỏ đi buôn, của cải sung túc, thích kết giao với bạn bè” 29. Trích xong, ông đem so sánh với đoạn Nguyễn Du mô tả Từ Hải trong Truyện Kiều mà theo ông, từ một người “chí lớn ngút trời” đã bị “thay đổi thành võ sĩ giang hồ lưu lạc khắp nơi”:

Câu 2165“Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi.

Râu hùm hàm én mày ngài,

Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào,

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.

Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,

Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng”

Về phần chúng tôi, cân nhắc giữa cả hai đoạn, chúng tôi thấy dụng ý của hai nhà văn có chỗ khác nhau. Giới thiệu Từ Hải, Nguyễn Du trước tiên chưa muốn để lộ thân thế của Từ mà hãy để Từ đột ngột hiện ra với diện mạo và phong thái một con người phi phàm, gây một ấn tượng đặc biệt cho cả Thúy Kiều và người đọc. Chỉ bằng mấy câu thơ ước lệ ông đã làm điều đó hết sức thành công. Để cho hình tượng của Từ càng được thăng hoa, nhà thơ không chịu trần tục hóa người anh hùng thành kẻ đi buôn như Kim Vân Kiều truyện, vì đi buôn thì có khác gì Thúc Sinh là người “quen thói bốc rời”, Kiều đâu có lạ. Ông cấp cho họ Từ một hành tung đi mây về gió, một con người đầy lãng mạn, nâng cao thêm trí tưởng tượng của độc giả: “Giang hồ quen thú vẫy vùng/Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo”. Về phần Thanh Tâm Tài Nhân, nhà văn lại làm ngược với những thao tác của Nguyễn Du. Ông không bận tâm gì nhiều đến hình dạng, cốt cách của Từ Hải [đó cũng là đặc điểm chung dễ thấy ở tất cả mọi nhân vật khác trong Kim Vân Kiều truyện], nhưng chỉ sau vài câu vào đề ngắn gọn, ông cho Từ nói ra một lời bộc bạch chí khí, tỏ ra mình luôn ôm ấp trong lòng ý muốn “vá trời lấp biển”. Hiềm nỗi, câu nói đầy khí phách, ý tứ tiền hô hậu ủng kia lại không phải là diễn ngôn “sống” của một Từ Hải bằng xương bằng thịt, chỉ là lời nói lặp lại trong sách vở, kể từ Mã Viện đời Hán cũng đã nói không khác là bao, nên trở thành một thứ văn lắp ráp khuôn sáo, nghe ra vẫn có vẻ “phường tuồng”, cũng giống như đoạn tả cảnh Từ đánh nhau với quan quân mà họ Đổng đã soát xét kỹ càng mới chọn trích. Điều kỳ hơn nữa là tiếp ngay sau lời bộc bạch, nhà văn nói toẹt luôn nghề nghiệp của Từ Hải là “học hành dang dở nên đành bỏ đi buôn, của cải sung túc, thích kết giao bầu bạn”. Thế thì những lời “thổ lộ can tràng” của Từ cũng chưa có gì làm bằng cứ, mới chỉ nằm trong mộng ước mà thôi. Về mặt nghệ thuật, một cách “tỏ chí” ồn ào kiểu đó làm sao thể hiện được khí phách vừa ngang tàng vừa tự nhiên bằng một cái vẫy tay và một lời nói đầy tự tin của chàng Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du khi đứng trước Thúy Kiều: “Lại đây xem lại cho gần/Phỏng tin được một vài phần hay không”. Có cần tự giới thiệu gì nhiều về mình đâu, song chỉ một cử chỉ thế là đủ chứng tỏ con người ấy rồi đây sẽ làm nên một sự nghiệp kinh thiên động địa.

Xin nói thêm, cũng do không chú ý đến ước lệ thi ca, khi đọc câu thơ “Một tường tuyết trở sương che” ông Đổng Văn Thành tưởng là Nguyễn Du đang tả cảnh mùa đông thật, liền chê nhà thơ tả sai thời tiết30, có biết đâu đấy cũng là một biện pháp tu từ để nói về những ngăn trở do phép nhà nghiêm ngặt khiến Thúy Kiều và Kim Trọng chỉ sống cách nhau một bức tường mà không biết được tin nhau: “Tin xuân đâu dễ đi về cho năng”. Không nắm được ngôn ngữ tượng trưng của thi ca thành ra cứ lâm tình trạng “ông chằng bà chuộc”, âu cũng là một nỗi khổ tâm trong đối thoại với ông.

Nhưng ước lệ trong xây dựng nhân vật không ngăn trở Nguyễn Du có những đổi mới thật sự trong khi tiếp thu Thanh Tâm Tài Nhân. Nhà thơ đã chuyển đổi có ý thức loại hình tiểu thuyết đạo lý sang loại hình tiểu thuyết tâm lý. Các nhân vật của Truyện Kiều không phải là cái cớ để Nguyễn Du thuyết minh một quan niệm về đạo đức, mặc dù ở cuối truyện ông có nói “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Bút lực của nhà thơ giúp họ sống giữa cuộc đời như những con người chịu mọi xô đẩy của hoàn cảnh thực, trong đó có các biến thái của quá trình tâm lý bên trong. Không những ông hơn Thanh Tâm Tài Nhân trong việc tìm kiếm các dạng thái tinh tế của độc thoại nội tâm, dường như người kể chuyện trong thơ ông cũng không đứng ngoài nhân vật mà có lúc nhập thân vào nhân vật, từ phía trong nhân vật mà phát ngôn; không đẩy nhân vật đi theo phác đồ định sẵn mà tự nhân vật “ma đưa lối quỷ dẫn đường” vô thức tìm lấy. Thúy Kiều gặp Kim Trọng, “Người quốc sắc kẻ thiên tài/Tình trong như đã mặt ngoài còn e”, đấy mới là thông báo khách quan của người kể chuyện, nhưng “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê/Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn” thì đã là hoạt động tâm lý xẩy ra ngay trong thời khắc hiện tại của cả đôi bên, người kể chuyện đã đứng ở điểm nhìn bên trong nhân vật mà nói. Trong cuộc hội ngộ giữa Kiều-Kim bên nhà Kim Trọng, tình yêu cũng theo tâm lý mà thay đổi. Lúc đầu Kiều còn nói những lời kiểu cách, tỏ ra nàng còn e ngại: “Nàng rằng: Trộm liếc dung quang/Chẳng sân ngọc bội cũng phường kim môn”. Kim Trọng cũng hứa một cách kiểu cách không kém: “Ví dù giải kết đến điều/Thì đem vàng đá mà liều với thân”. Nhưng rồi sau một ngày trò chuyện không dứt, cả hai đã bước được một bước rất dài, mọi e dè lo lắng không còn, tâm trạng giữa đôi bên thật sự cởi mở: “Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng”. Lời thông báo này cũng không còn là lời thông báo bên ngoài mà đã nằm ngay trong nhân vật. Kiều quay về nhà, thấy cha mẹ chưa về, lại “xăm xăm băng lối vườn khuya” trở sang. Nhìn thấy Kim Trọng đã thiu thiu ngủ trong khi mình vẫn một lòng một dạ vì yêu, nàng không khỏi có chút hờn dỗi: “Bây giờ rõ mặt đôi ta/Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”. Người kể chuyện đến đây tế nhị ẩn hẳn đi, để cho nhân vật tự phơi trải lòng mình. Cho đến sau khi hai bên đã thề nguyền, Kiều đã đánh đàn cho Kim Trọng nghe, không còn chút mặc cảm nào giữa trai tài gái sắc, người kể chuyện lại xuất hiện trở lại, thông báo tiếp một bước biến đổi tâm lý cao hơn: “Hoa hương càng tỏ thức hồng/Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu”...

Quả là với quan niệm tính cách được biểu hiện thông qua các trạng thái tâm lý, Nguyễn Du đã không cố định hóa tính cách nhân vật như Thanh Tâm Tài Nhân. Ông Đổng Văn Thành thắc mắc: vì sao nàng Kiều trong Truyện Kiều đối với Thúc Sinh và Từ Hải vẫn nặng tình như đối với Kim Trọng, mà lẽ ra theo đúng nguyên tác Kim Vân Kiều truyện, “Thúy Kiều chỉ thực sự yêu có một mình Kim Trọng, còn đối với Thúc Sinh và Từ Hải thì chủ yếu chỉ cảm cái ơn họ chuộc mình ra khỏi lầu xanh”31. Đây cũng chính là lý do khiến ông chê nhiều đoạn trữ tình ngoại đề của Nguyễn Du “đã làm tổn hại đến sự hoàn chỉnh và thống nhất của nhân vật” mà ở trên chúng tôi nói phần sau sẽ xin lý giải32. Bây giờ đã đến lúc có thể nói rõ: Nguyễn Du không hề buộc chặt nhân vật Thúy Kiều vào một thứ “phẩm tiết kiên trinh” như Thanh Tâm Tài Nhân. Được Hoài Thanh coi là người “đi guốc trong ruột nhân vật”, Nguyễn Du hiểu hơn ai hết mối tình với Kim Trọng dầu sao cũng chỉ là mối tình đầu của Kiều. Với thời gian xa cách chừng ấy năm, lại trải biết bao nhiêu bầm dập, trong tâm lý Kiều ví thử vẫn cứ còn giữ nguyên vẹn tình cảm với Kim Trọng như thuở nào để suốt ngày mình dằn vặt mình thì thật ít ai hiểu nổi. Chúng tôi khác ông Đổng Văn Thành, không thể nào coi Kim Vân Kiều truyện là một tác phẩm hiện thực, một phần cũng chính vì lẽ ấy. Nhưng Nguyễn Du thì mới đúng là một ngòi bút hiện thực tâm lý, khi ông cho nàng Kiều nhớ đến Kim Trọng như nhớ đến một kỷ niệm cũ, không còn thắm nữa nhưng vẫn chưa phai: “Xót thay chút nghĩa cũ càng/Dẫu lìa ngó ý còn vương tấc lòng”. Nguyễn Du cũng không thể buộc Thúy Kiều hờ hững với Thúc Sinh vì trong hoàn cảnh đang sống dưới địa ngục trần gian của nhà mụ Tú Bà, Thúc Sinh không chỉ là người phò nguy cứu nạn, mà còn là con người hết sức đa tình, đã hiến dâng cho nàng cả tâm hồn và của cải, cả tình yêu “đá vàng” lẫn tình yêu xác thịt: “Miệt mài trong cuộc truy hoan/Càng quen thuộc nết càng dan díu tình”. Kiều giờ đây không còn ở cái tuổi cài trâm e lệ như thuở mới yêu Kim Trọng. Nàng đã thất thân với Mã Giám Sinh rồi với Sở Khanh, lại đã lăn lóc chốn lầu xanh, mùi đời đã trải. Bắt nàng cứ thờ ơ lạnh nhạt trước một mối tình chứa chan hạnh phúc như của chàng Thúc e chỉ là giả dối nếu không là ngốc nghếch về tâm lý. Thế nhưng mối tình của Thúy Kiều đối với Thúc Sinh, cũng như sau này đối với Từ Hải, vẫn khác mối tình đầu giữa nàng với Kim Trọng. Một bên e ấp, trong sáng, thuần túy tình yêu platonique, một bên dạn dĩ, tỉnh táo, vừa là ơn nghĩa, vừa biết tính toán thiệt hơn, nên tuy có nhớ nhung: “Cầm tay dài ngắn thở than/Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời” vẫn đinh ninh những chuyện rất thực tế: “Đôi ta chút nghĩa đèo bòng”. Cũng vậy, với Từ Hải, người đã cứu mình khỏi chốn bùn nhơ một lần thứ hai, lại giúp mình đền ơn trả oán phân minh, cho mình được sống những ngày hả hê nhất, mà nói Kiều lấy Từ không phải vì tình thì dễ chỉ có Thanh Tâm Tài Nhân mới nghĩ ra được, và cũng dễ chỉ có Đổng Văn Thành mới coi đó là một “tính cách nhất quán” đáng trọng của nàng Kiều. Kiều của Nguyễn Du phát triển theo xu thế tâm lý cuộc đời thực đã không thể làm như vậy. Nàng yêu Từ Hải với tấm lòng của người tri kỷ: “Khen cho con mắt tinh đời/Anh hùng đoán giữa trần ai mới già”, cũng là với cái nghĩa của người chịu ơn sâu nặng: “Thưa rằng lượng cả bao dung/Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”. Vì thế nàng vẫn dành cho Từ Hải một góc trong trái tim thương nhớ sau khi đã hồi tưởng hết cha mẹ, các em, đến người tình cũ:”Cánh hồng bay bổng tuyệt vời/Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”. Không thể nói với những mối tình gắn bó sau này, Kiều đã tự đánh mất mình, như cách nói “làm tổn hại đến sự hoàn chỉnh và thống nhất của hình tượng nhân vật” của Đổng Văn Thành. Chính Kim Trọng là người hiểu rất rõ tâm hồn của nàng trước sau vẫn toàn vẹn: “Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”. Đặt vấn đề “tính nhất quán” của tính cách Thúy Kiều không trên cơ sở nhìn sâu vào những va động của hiện thực đã vùi dập nàng xuống tận bùn đen và nàng đã phải chống trả bằng mọi cách để tìm đường sống, tình cảm cũng ba chìm bảy nổi, có lẽ về mặt thấu tình đạt lý còn thua cả một người chỉ biết sách vở mà ít trải đời như Kim Trọng. Đó là vấn đề thứ tư chúng tôi thấy bất cận nhân tình trong lập luận của ông Đổng Văn Thành.

5. Sau tất cả những lời chỉ trích Truyện Kiều nặng nhẹ tùy lúc tùy nơi, ông Đổng Văn Thành dồn sự phê phán của mình vào một mục tiêu lớn nhất: ông “kết tội” Nguyễn Du đã xuất phát từ lập trường giai cấp quý tộc của bản thân mà có những “xuyên tạc và xóa nhòa mối quan hệ đối lập giai cấp” vốn rất rõ trong Kim Vân Kiều truyện. Ông đưa ra khá nhiều “thiết chứng”: a. Kim Vân Kiều truyện nói việc bán mình của Thúy Kiều là do “bọn cướp bị bắt câu kết với quan lại” “bóp nặn bức hại gia đình họ Vương mà sinh ra”, thế mà nhà thơ lại “sửa thành thằng bán tơ”, biến câu chuyện “đòi đút lót” vốn là “hành động tàn bạo của lũ công sai và người đầu bọn” thành một “việc nghĩa” của ông lại già họ Chung: “Cũng trong nha dịch lại là từ tâm/Thấy nàng hiếu trọng tình thâm/Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay/Tính bài lót đó luồn đây/Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”33; b. Đem việc Hoạn Thư vả miệng bẻ răng hai tên gia nô mách lẻo tiêu biểu cho hành động “áp bức giai cấp” đổi sang vả miệng bẻ răng hai người quen chỉ còn thuần ý nghĩa ghen tuông34; c. Ngay hai tên Ưng, Khuyển, trong nguyên tác gọi rất rõ là Hoạn Ưng và Hoạn Khuyển để “ngụ ý chúng là lũ ưng khuyển của nhà quan” mà Nguyễn Du cũng đang tâm bỏ mất chữ “Hoạn” ở đầu, “làm mờ nhạt hàm nghĩa phê phán thân phận chó săn cho kẻ quyền quý của chúng” 35; d. Nguyễn Du còn “giảm tội” cho mụ mẹ Hoạn Thư và Hoạn Thư bằng thủ pháp miêu tả giảm đẳng hành vi thâm độc của họ đối với nàng Kiều; bà mẹ không “đánh nàng đến máu chảy trôi chày” [“Hai bên thị nữ dạ ran, tức thì vật Thúy Kiều xuống đất, người giữ tay để đánh vào tay, người giữ chân để đánh vào chân, kẻ đè đầu để đánh vào đầu, một người át giọng quất đánh, một người quỳ xuống ghi số. Một gậy vụt xuống Thúy Kiều kêu lên một tiếng, mông đít như lửa đốt, hồn xiêu phách tán. Cái gậy tre vô tình kia cứ dồn vào một chỗ, chỉ dăm ba gậy thì Thúy Kiều đã nứt da bật máu” 36] mà chỉ truyền đánh ba chục roi; cô con cũng không dọa nàng một cách hùng hổ: “Nếu mày còn loanh quanh giấu giếm nữa, ta sẽ cho mày một trận đòn ở đây đã, rồi tống cổ trả mày về bên cụ lớn đánh cho kỳ chết” 37, lại không trực tiếp đứng ra tra vấn nàng về lai lịch mà để cho Thúc Sinh tra hỏi, và khi nghe đến tiếng đàn tuyệt kỹ của nàng thì lại “Khôn uy dường có bớt vài bốn phân” 38; đ. Nhưng tệ hại nhất là ở đoạn báo ân báo oán của nàng Kiều, một dịp “trả thù giai cấp” rất đắc địa thì Nguyễn Du lại “nhẹ nhàng bỏ qua Hoạn phu nhân, căn bản không hề cho người đi bắt mụ đó” 39. Riêng “đối với “thủ phạm” bức hại Thúy Kiều là Hoạn Thư, Nguyễn Du lại cũng khoan dung, để cho lọt lưới: ... Tha ra thì cũng may đời/ Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen/ Đã lòng tri quá thì nên/ Truyền quân lệnh xuống trướng tiền thả ngay”. Đến nỗi “lần bị điệu đến này, Hoạn Thư chẳng những không xây xát một mảy lông mà còn nhờ chồng là Thúc Sinh được thơm lây. Hai vợ chồng nhận “gấm trăm cuốn bạc nghìn cân” của Thúy Kiều trả ơn Thúc Sinh, chở nặng mà về”40. Ông Đổng Văn Thành phân tích “khuyết điểm” của Nguyễn Du ở phần cuối cùng này rất sát sao, chặt chịa: “Sở dĩ Nguyễn Du viết như thế đương nhiên xuất phát từ sự đồng tình với những nhân vật thuộc giai cấp quý tộc là giai cấp xuất thân của mình. Ông đã tìm mọi cách che đậy cho tội áp bức của giai cấp ấy, sửa chữa cuộc đấu tranh giai cấp nghiêm túc đó thành cuộc tranh chấp thuần túy giữa vợ cả vợ lẽ ghen tuông với nhau trong gia đình. Thúy Kiều đòi hỏi trả thù nhưng khi thấy kẻ thù thì lại khâm phục tài ăn nói và khen ngợi cô ta biết sửa lỗi lầm” 41. Sau hết, ông dành cho Nguyễn Du một lời “kết án” nghiêm khắc: “Cách cải biên ấy rõ ràng đã bóp méo, xuyên tạc nghiêm trọng nội dung có tính chính trị sâu sắc của nguyên tác” 42.

Về nhiều chi tiết Đổng Văn Thành “mời ra” làm đối chứng trước “tòa án văn chương” do ông thụ lý, phải nhắc lại, ông lại rơi đúng vào cái vòng “bất kham” của chữ nghĩa mà chúng tôi đã gọi là “ông chằng bà chuộc” ở một phần trước. Câu chuyện thằng bán tơ chẳng hạn, thì giữa Kim Vân Kiều truyện nào có thấy khác gì Truyện Kiều? Kim Vân Kiều truyệnnói thằng bán tơ vốn là ăn cướp giả danh, trọ trong nhà ông dượng, khi bị bắt thì khai liều, liên lụy đến gia đình ông dượng và cả gia đình Vương Viên Ngoại bấy giờ đang ăn giỗ ở đấy. Nguyễn Du cũng chỉ nói “Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ”, ta hiểu thằng bán tơ là đầu mối, chứ nhà thơ có đổ tất cả tai họa của gia đình Kiều cho thằng bán tơ đâu. Xem lại các bản Kim Vân Kiều truyện hiện lưu giữ tại Việt Nam, chủ yếu là bản do Quán hoa hiên tàng bản [A.559] chúng tôi không thấy có đoạn sau đây được ông Đổng Văn Thành dẫn xuất: “Dương Binh mã thuộc Ty Binh mã trong thành chỉ dựa vào lời phạm nhân khai là có dính dáng đến Vương Viên Ngoại, không cần xét thật giả đã lập tức lợi dụng khẩu cung gian dối này làm cớ, sai ngay bảy tám tên sai nha xông vào nhà họ Vương vơ vét của cải, dùng cực hình tra hỏi” 43. Phải chăng nói như Nguyễn Đăng Na, có hai loại văn bản Kim Vân Kiều truyện khác nhau, loại in từ trước thế kỷ XX và loại in từ thế kỷ XX về sau, trong đó, loại thứ hai như “các bản do Đinh Hạ hiệu điểm hoặc bản do Xuân phong văn nghệ xuất bản... về cơ bản cũng gồm 20 hồi như các bản Quán hoa hiên, Đại Liên [in trước thế kỷ XX]... nhưng dài hơn, có nhiều chi tiết hơn” 44, “điều này tạo nên sự phức tạp, thậm chí rối loạn khi nghiên cứu so sánh giữa Đoạn trường tân thanh [Truyện Kiều] với Kim Vân Kiều truyện” 45. Duy trong trường hợp đang bàn thì chẳng phải vì Nguyễn Du dựa vào một bản thuộc loại thiếu nhiều chi tiết [do ông sống trước thế kỷ XX không được tham khảo các bản đầy đủ in về sau] mà đi đến “rối loạn nhận định” như ông Đổng Văn Thành. Nguyễn Du vẫn lên án quan lại sai nha gay gắt đấy chứ:

Câu575“Hàn huyên chưa kịp dãi dề,

Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.

Người nách thước kẻ tay đao,

Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.

Già giang một lão một trai,

Một dây vô lại buộc hai thâm tình.

Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,

Rụng rời khung cửi, tan tành gối may.

Đồ tế nhuyễn của riêng tây,

Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”...

Thậm chí, nhà thơ còn châm biếm bọn chúng sâu cay nữa là khác:

Câu997“Một ngày lạ thói sai nha,

Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”

Trong yêu cầu cô đúc của nghệ thuật thi ca, thiết tưởng thế là quá đủ, còn nếu thấy liều lượng “chưa đã” thì... cũng đành phó mặc sở thích riêng của mỗi người, miễn ta chấp nhận với nhau không phải Nguyễn Du cố tình giảm nhẹ tội cho đám công sai. Có điều, trong bọn “đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi” ấy lại nẩy ra một Chung Công [Chung công sai = Chung Sự] có tấm lòng từ ái. Việc vòi vĩnh ba trăm lạng, theo Kim Vân Kiều truyện đúng là do bọn lính tráng đến nhà Vương Viên Ngoại đề xuất trước. Nhưng chính Thanh Tâm Tài Nhân cũng khẳng định vai trò quyết định của Chung Công trong việc tính liệu “lót đó luồn đây” với ba trăm lạng bạc đó: “Già Chung này tuy làm việc chốn quan nha nhưng suốt đời ăn chay, việc gì làm được mới làm, việc gì không làm được thì nhất quyết không dám làm xằng [...]. Đồng tiền của cô là đồng tiền thế nào mà tôi dám phung phí. Ba trăm lạng bạc này hãy để ở nhà tôi, tôi đưa hai ông con nhà đến tận mặt quan, xin giấy chiếu làm chứng cho nhà cô được vô can, rồi sau mới đem tiền đến. Gặp mấy tên cướp, tôi sẽ bảo rõ không được vướng đến nhà cô, rồi cho chúng một số. Còn bọn chúng tôi có mười người đầu mục liên quan đến tra xét vụ này, tôi sẽ chia bạc cho họ, và bảo cho họ biết việc ở nhà họ Vương do tôi đảm bảo, nếu có hơi tăm gì ở nha môn thì nhờ họ che giấu” 46. Thanh Tâm Tài Nhân còn để cho Chung Công ân cần giúp đỡ Thúy Kiều nhiều việc trong những ngày gia đình nàng bấn loạn, và vào hôm nàng cùng Mã Giám Sinh về Lâm Truy, chính Chung Công đã đến tận trường đình đưa tiễn, mở một tiệc nhỏ thết hai người cùng gia đình họ Vương rồi mới ra về. Nguyễn Du không chủ tâm biến Chung Công từ người xấu thành người tốt [hay ngược lại] khác với Kim Vân Kiều truyện; nếu việc ấy là có lỗi, xin ông Đổng Văn Thành cứ trách cứ Thanh Tâm Tài Nhân.

Cả việc Nguyễn Du gọi hai tên gia nô của Hoạn Thư là Khuyển, Ưng chứ không gọi dài dòng là Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển có lẽ một phần cũng do sự ràng buộc của câu thơ lục bát: “Sửa sang buồm gió lèo mây/Khuyển Ưng lại chọn một bầy côn quang”. Một phần nữa, dùng hai chữ Khuyển và Ưng vừa đủ nói rõ thú tính của hai kẻ tay sai vừa hàm ý chúng là chó săn chim mồi của họ Hoạn, thế thì bỏ tiền tố “Hoạn” trong tên của chúng không có hại, mà đưa vào thơ đôi khi lại giảm ý vị, có thể bị coi là “bới bèo ra bọ” cũng nên. Một nhà thơ như Nguyễn Du tất biết “bỏ” và “lấy” như thế nào thì mới thích hợp với ngôn ngữ của thơ.

Một tình tiết nữa là việc Hoạn Thư bẻ răng hai tên mách lẻo. Đấy là hai tên gia nô hay hai người quen của họ Hoạn thì cũng đều chứng tỏ uy thế gớm ghê của cô con gái viên quan Bộ Lại, xét cho cùng cũng đều là “áp bức giai cấp” như ông Đổng Văn Thành nói cả. Mà bẻ răng hai tên gia nô là chuyện trong nhà họ Hoạn, thời Trung cổ các gia đình quyền quý Trung Hoa làm việc đó nào có gì lạ, có khi họ còn gây nhiều tội ác tày trời nữa ấy chứ, bẻ răng vẫn còn là quá nương tay. Song đến người quen mà cũng đè nghiến ra bẻ răng thì cái hành vi hống hách của cô gái họ Hoạn này mới thật là quá quắt. Thử hỏi giữa Thanh Tâm Tài Nhân và Nguyễn Du, ai xử lý tình tiết thâm trầm hơn ai?

Tuy nhiên, điều chúng tôi mong muốn bàn với ông Đổng Văn Thành ở phần cuối cùng này vượt lên trên những sự tranh cãi lặt vặt về tình tiết. Qua những ý kiến đánh giá của ông về Kim Vân Kiều truyện và Truyện Kiều, Chúng tôi nghĩ, nên trao đổi thêm về phương pháp luận nghiên cứu văn họccủa ông. Đối với Đổng Văn Thành, bài học rút ra từ các tác phẩm quá khứ tuồng như chủ yếu là vấn đề đấu tranh giai cấp. Từ đầu chí cuối chỉ thấy ông phân loại thành phần cho nhân vật của Kim Vân Kiều truyện và coi đây là cuốn tiểu thuyết “miêu tả rõ ràng, nổi bật sự đối lập giữa các giai cấp” - một “giới hạn chính trị có tính nguyên tắc” 47 của Thanh Tâm Tài Nhân. Xem xét một lĩnh vực vô cùng đa nghĩa như văn học mà chỉ bó hẹp trong một tiêu chí là đấu tranh giai cấp, liệu có phải là dùng một thước đo chưa thích đáng, là dùng “dao mổ trâu” để giải phẫu cơ thể phức tạp của con người hay không? Đành rằng con người không thoát ly quan hệ giai cấp, nhưng con người còn rất nhiều quan hệ khác, là “tổng hòa mọi mối quan hệ xã hội” nói như K. Marx, và ngày nay chúng ta đã có thể bổ sung thêm: không những là sự tổng hòa mọi quan hệ xã hội, con người còn thường xuyên mở rộng giới hạn giao tiếp của mình ra những quan hệ nằm ngoài xã hội nữa. Có bao nhiêu cái chưa biết trong cuộc đời này và vũ trụ này không liên quan gì đến xã hội, con người vẫn cứ phải tham dự như một chủ thể. Đối tượng của tiểu thuyết là con người, là sự sống nhiều mặt của con người, thế nên tiếng nói trong tiểu thuyết rộng hơn quan hệ giai cấp rất nhiều. Cũng không thể coi tiếng nói của tiểu thuyết là một tiếng nói đơn nghĩa mà phải nói như Milan Kundera, nhà văn đương đại nổi tiếng người Pháp gốc Tiệp, đó là một thứ “ngôn ngữ tương đối và nước đôi” 48 trong ý nghĩa tích cực của nó. Con người trong tiểu thuyết có cái phần là con người giai cấp, nhưng còn có vô số phần khác là con người nhân loại, con người mang tính người thuần túy, con người siêu hình, hư vô, con người sinh lão bệnh tử, thậm chí con người sinh vật với các nhu cầu “vật-người” ở giữa thế gian này.

Ông Đổng Văn Thành thích tiếp nhận những nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân dưới góc độ chúng là hiện thân của tính giai cấp, song người khác vẫn có thể tìm ra từ những nhân vật ấy nhiều phương diện đa đoan, lý thú hơn. Đặc biệt, với Nguyễn Du, nhà tâm lý bậc thầy, nhân vật của ông không bao giờ lại là những mô hình khô cứng, thuyết minh cho một tín điều nào cả. Nhân vật của ông là sự sống được cụ thể hóa nên phong phú ý nghĩa. Hoạn Thư vừa có thể ác nghiệt với Kiều vì máu ghen của “con quan Lại bộ” “Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen”, vừa có thể nghe tiếng đàn Kiều gảy mà chợt động tâm, cái phần người trỗi dậy, và biệt đãi với Kiều hơn hẳn đám tôi đòi khác; đến khi xem rõ lời khai về cuộc đời chìm nổi của Kiều thì lại càng động tâm, “ngẩn ngơ chút tình” hơn chút nữa. Lại khi cần tra vặn chuyện chồng cũ của Kiều, là việc cô ta đã biết tỏng, một thoáng xấu hổ nào đó chợt hiện ra ám ảnh khiến cô đành đẩy sang cho Thúc sinh “Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao”... Đó mới là “người”, là “cái hiền minh lưỡng lự” 49 của tiểu thuyết chứ sao? Cũng vậy, khi Kiều trả thù, có thể nàng vẫn căm phẫn bà phu nhân già họ Hoạn, nhưng một bà già tuổi tác như bà ta lại cũng có thể làm cho nàng - vốn là một cô gái hết sức nhạy cảm - động lòng trắc ẩn. Ngay Kim Vân Kiều truyện tuy có cho điệu bà ta đến nhưng rồi cũng tha kia mà. Trong các bộ luật hiện đại của nhiều nước văn minh, có điều luật đặc cách đối với những kẻ phạm pháp đã già nua không bắt phải thi hành án. Thời đại Thúy Kiều là thời Gia Tĩnh triều Minh, luật lệ còn man rợ, nhưng Nguyễn Du cứ để cho Kiều không thèm truy xét bà mẹ Hoạn Thư, chứng tỏ cái nhìn viễn kiến vượt lên trước thời đại của nhà thơ. Riêng Hoạn Thư, trong Kim Vân Kiều truyện bị treo lên xà nhà đánh đủ một trăm roi, thì trong Truyện Kiều lại được biệt đãi. Phải nhìn vào cuộc đối thoại giữa hai con người tình địch và tâm trạng Thúy Kiều trong thời điểm ấy. Khi nói với Thúc Sinh nàng đã hiểu giữa mình và Hoạn Thư là hai đối thủ không vừa “Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau”. Hoạn Thư bị dẫn ra, nàng chủ động lên tiếng trước, lời lẽ xã giao, lịch sự, nhưng chứa đầy thách thức: “Thoắt trông nàng đã chào thưa/Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây/Đàn bà dễ có mấy tay/ Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan/ Dễ dàng là thói hồng nhan/Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”. Nàng có ngờ đâu Hoạn Thư “hồn lạc phách xiêu” mà vẫn trấn tĩnh được, đáp lại thật nhũn nhặn, và lại biết giữ thể diện, nhận phần lỗi về mình “Trót lòng gây việc chông gai/Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”, đồng thời cũng khéo léo nhắm vào những chỗ yếu của lòng người để khơi gợi đối thủ: “Rằng tôi chút phận đàn bà/Ghen tuông thì cũng người ta thường tình/Nghĩ cho khi các viết kinh/Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo/Lòng riêng riêng những kính yêu/Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai...”. Kiều phải thừa nhận Hoạn Thư là người “Khôn ngoan hết mực nói năng phải lời”. Cuộc đối thoại chấm dứt bằng sự tha bổng là điều ai cũng thấy trước, một thách đố cam go, trong đó Hoạn Thư đã đánh rất trúng tâm lý người đối thoại: “Tha ra thì cũng may đời/Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”. Chỉ tiếc vì không hiểu tiếng Việt, ông Đổng Văn Thành đã không thể theo dõi hết các biến thái tâm trạng trong màn đấu lý căng thẳng mà hấp dẫn vốn là một trong những đoạn thành công nhất của Truyện Kiều.

Từ một vài phân giải sơ lược của chúng tôi về giá trị Truyện Kiều của Nguyễn Du, chúng tôi nghĩ, chỗ khác nhau cơ bản giữa chúng tôi với ông Đổng Văn Thành là cách nhìn nhận sức mạnh đích thực của tiểu thuyết. Tiểu thuyết không phải bày ra trước chúng ta một câu chuyện thật ly kỳ để chúng ta thưởng thức cho thỏa thích mà khi đọc xong không cần bận tâm đến nữa vì đó là chuyện đã được nói rồi, không có gì khám phá mới mẻ, và cũng chẳng liên quan đến vận mệnh của một người nào. Tiểu thuyết cũng không phải treo một tấm gương đạo đức cho người ta nhìn ngắm với lòng ngưỡng mộ và noi gương học hỏi, lại cũng không nhất thiết phải là bài học đấu tranh sát sườn giữa thiện và ác, giữa thống trị và bị trị, giữa bóc lột và nô lệ... để rút kinh nghiệm cho “trận cuối cùng” của nhân loại trên con đường hành hương về miền đất hứa. Đó là những loại tiểu thuyết đã từng xuất hiện một thời, dưới các cơ chế toàn trị, nhưng cũng đã biến đi rất chóng. Tiểu thuyết tự nó giữ một vị trí khiêm tốn hơn nhiều lắm. Nó là những chuyện bịa, dắt người ta vào vô số cuộc phiêu lưu không định hướng, và cũng không răn dạy gì to tát cho bất kỳ ai. Nhưng những điều mà nó mách bảo, dù chỉ rất ít vẫn là những điều con người không lường trước. Tiểu thuyết không nói với con người cái tất định mà là cái đang tiếp diễn con người chưa thể biết - “Mỗi cuốn tiểu thuyết nói với độc giả: Sự vật ở đời phức tạp hơn anh tưởng”50. Nó nói về sự mong manh của thân phận con người trước rất nhiều ngả của dòng đời tuôn chảy, đặt cho con người những mối hoài nghi, những băn khoăn thấp thỏm về chính cõi người. Nó gợi lên những câu hỏi nước đôi, những giấc mơ và sự thật, hiện hữu và cái phi lý của hiện hữu. Nó giúp con người tự phân thân, tách mình ra để nhìn lại cái bề ngoài của mình tưởng không liên quan đến mình. Nó cũng giúp con người khám phá vào thế giới bên trong sâu thẳm và nhiều khi đối với mình là một sự lạ lẫm. Tiểu thuyết vì thế, không đẩy con người quay về quá khứ mà hướng con người đi tới. Trong một chừng mực nào đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã làm được vai trò nhỏ nhoi nhưng thực đáng giá đó của một cuốn tiểu thuyết. Mượn lại một câu chuyện xẩy ra vào triều Minh xa lắc, Nguyễn Du đã làm cho bao nhiêu thế hệ người Việt từ hơn hai thế kỷ nay mê man say đắm, vì ông đã làm cho nàng Kiều hóa thân vào từng thế hệ, trở thành nỗi ưu tư, buồn khổ, thành “cái tôi” dằn vặt, những dấu hỏi về vận số, thành khát vọng sống của mọi giới người, nói như Mộng Liên Đường Chủ nhân: “Tố Như Tử dụng tâm đã khéo, tả cảnh như hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy” 51. Chính khả năng hướng tới hiện đại của nhà thơ đã quy định số phận khác nhau giữa Kim Vân Kiều truyện và Truyện Kiều. Toàn bộ câu chuyện kể của Thanh Tâm Tài Nhân, không phải không hay, rất hấp dẫn là khác, nhưng đó là một câu chuyện của quá khứ, từ rất lâu rồi không còn để một ngờ vực băn khoăn gì cho con người hiện tại. Số phận của nó đã kết thúc. Còn tác phẩm của Nguyễn Du, mỗi lần đọc vẫn đưa lại một vài khám phá mới, “một mẩu của sự sống” [un fragment de la vie] mà theo Herman Broch, chỉ có tiểu thuyết mới khám phá ra được. Nó vẫn còn hiện diện ở giữa cõi nhân gian, vẫn là cuốn tiểu thuyết đối thoại được với chúng ta.

Công lao của Thanh Tâm Tài Nhân không nhỏ. Không có Thanh Tâm tài Nhân thì ắt hẳn không thể có Truyện Kiều của Nguyễn Du như cái hình thức mà nó tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù có thể có một truyện thơ khác. Nhưng cũng lại phải nói cho công bằng, chính nhờ Truyện Kiều của Nguyễn Du ngày một nổi tiếng, vượt ra khỏi biên giới nước mình, mới là một động cơ để những học giả như ông Đổng Văn Thành cố gắng làm cho Kim Vân Kiều truyện được độc giả trong và ngoài Trung Hoa quan tâm trở lại. Sự đời có nhân có quả chính là như vậy.

1. Xin xem: a. Phạm Tú Châu. Đọc “Truyện Kiều” bản dịch Trung văn. Văn nghệ số 44, 1990; b. Phạm Tú Châu. Sóng gió bất kỳ từ một bản dịch; Tạp chí Văn học nước ngoài, số 5-1997. In lại trong 200 năm nghiên cứu bàn luận “Truyện Kiều”. Nxb. Giáo dục, 2005; c. Hoàng Văn Lâu. Cũng là một kiểu “so sánh văn học”. Tạp chí Hán Nôm, số 3-1998. In lại trong 200 năm nghiên cứu bàn luận “Truyện Kiều”. Sđd; d. Nguyễn Khắc Phi. Nhân đọc bài “Kim Vân Kiều truyện” của Đổng Văn Thành. In trong Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn so sánh. Nxb. Giáo dục, 2001. In lại trong 200 năm nghiên cứu bàn luận “Truyện Kiều”. Sđd; đ. Trần Ích Nguyên. Nghiên cứu so sánh “Kim Vân Kiều truyện” của Trung Quốc, Việt Nam và tranh luận. In trong Vương Thúy Kiều cố sự nghiên cứu. Lý Nhân thư cục, Đài Bắc, 2001. Được Phạm Tú Châu dịch ra tiếng Việt dưới nhan đề Nghiên cứu câu chuyện Vương Thúy Kiều. Nxb. Lao động, Hà Nội, 2004. In lại trong 200 năm nghiên cứu bàn luận “Truyện Kiều”. Sđd.

2. Chẳng hạn luận văn Thạc sĩ của Vương Thiên Nghi ở Sở Nghiên cứu văn học Trung Quốc thuộc Trường Đại học Đông Hải, Đài Loan, 1988. Chuyển dẫn theo Trần Ích Nguyên trong bài đã dẫn.

3. Nhân dân văn học xuất bản xã xuất bản, Bắc Kinh, 1959. Cần nói thêm rằng bản dịch này tuy có nhiều mặt chưa đạt đến chỗ tinh thâm của nguyên tác, nhưng tấm lòng trân trọng nguyên tác của người dịch, muốn giới thiệu cho nhân dân Trung Quốc một áng văn “cực kỳ vi diệu khúc chiết” mà mình cảm thấy bất lực trong việc chuyển ngữ là điều thấy rõ và đáng được ghi nhận.

4. Xem Phạm Đan Quế. Truyện Kiều đối chiếu; Nxb. Hà Nội, 1991.

5. Xem Nguyễn Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan, Lô Úy Thu. Một số nhận xét về “Kim Vân Kiều truyện” với “Đoạn trường tân thanh”. Sông Hương, số 2-1994.

6. Xem Nguyễn Khắc Phi. Nhân đọc bài “Kim Vân Kiều truyện” của Đổng Văn Thành. In trong Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn so sánh. Bài đã dẫn; tr. 1578.

7. Bài Đổng Văn Thành đã dẫn. Chuyển dẫn theo bản dịch của Phạm Tú Châu trong 200 năm nghiên cứu bàn luận “Truyện Kiều”. Sđd; tr. 1544.

8. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1548. Chúng tôi có đối chiếu với nguyên văn và chỉnh lý tí chút cho câu văn xác thiết hơn.

9. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1552.

10. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1552.

11. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1553.

12. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1564. Cần nói thêm, sách 200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiềuđã in sai mục này và mục dưới nên đã biến thành hai mục d, đ của phần 2, trong khi lẽ ra đây là mục B và mục C tương ứng với mục A “Nguyễn Du đã in dấu ý thức chủ quan của mình...”.

13. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1566.

14. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1567.

15. Xin xem Oswald Ducrot & Tzvetan Todorov. Dictionnaỉe encyclopédique des sciences du langages. Édition du Seuil, 1972; tr. 193. Nguyên văn: “Le problème des genres est l’un des plus anciens de la poétique” và “l’étude des genres doit se faire à partir des caractéristiques structurales”.

16, 17. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1570.

18. Chỉ riêng đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích này thì Kim Vân Kiều truyện có nói lướt qua về địa giới và có gửi gắm hình ảnh thiên nhiên trong một bài thơ: “Ngôi lầu này, từ phía Đông trông ra biển xanh, phía Bắc nhìn lên kinh kỳ, phía Nam ngó lại Kim Lăng, phía Tây trông ra dãy núi Kỳ Sơn陵。西”; “Đề xong [mấy câu ca] lại thấy nước mới đầy khe, cỏ gò vương khói, tiếng triều rào rạt, cánh buồm thấp thoáng, nàng lại nghĩ thành một bài thơ luật rằng: Bên song nước suối thoảng mùi hoa/Sương khói mung lung ngọn núi xa/gần biển, triều dâng bờ đá ướt/Cách thành, buồm ngả bóng chiều tà/Gió nâng vóc liễu trên từng gác/Sóng giục người đi biệt đất nhà/Việc cũ can chi mà nhỏ lệ/Đốt lò nhắp thử vị hương trà畢。又溪。阜拕 嵐 。潮 聲 嘘 坐。拂闌。又。入。阜。近。隔闌斜。風閣。浪。往 ”.Những trích dẫn Kim Vân Kiều truyện trong bài này chúng tôi theo bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999. Trong khi trích có đối chiếu với nguyên văn in cuối bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm; Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa thuộc Nha Văn hóa Việt Nam cộng hòa xuất bản, Sài Gòn, 1971, và chỉnh sửa câu chữ bản dịch ở những chỗ thấy cần thiết. Trích dẫn nguyên văn cũng rút từ bản in Tô Nam Nguyễn Đình Diệm.

19. Nguyên văn: “。王。就。翠。妹。各。忽。看塚。 ...。尚。忽。王。不。忙。金。快。翠了。抬。雅蹁躚。乘。因。金 ...”.

20.Xem Encyclopedia Universalis. Version 10, 2005, mục “Poésie”. Nguyên văn: “Lorsque, pour évoquer les tourments de l'amour, Pétrarque fait rimer pace avec sface, piena avec pena, il suggère la coïncidence paradoxale, au cœur de l'amant, d'une paix et d'une destruction, d'une peine et d'une plénitude. Il n'est donc pas possible de résumer, de paraphraser ou de traduire un poème sans lui faire perdre non seulement sa musicalité, mais une part de sa signification”.

21. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1564.

22. Nguyên văn: “。面。背。壓。節。八。孔。面 ”.

23. Minh Thanh tiểu thuyết giám thưởng từ điển. Hàng Châu, 1994; tr. 509-510. Chuyển dẫn theo Nguyễn Khắc Phi, bài đã dẫn; tr. 1576.

24, 25. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1550.

26. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1571.

27, 28. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1556-1557.

29. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1553. Trong các bản Kim Vân Kiều truyện chữ Hán ở thư viện Việt Nam, đoạn này có bị lược đi một số câu nên chúng tôi không trích nguyên văn.

30. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1566.

31, 32. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1570.

33. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1558-1559.

34. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1560.

35. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1561.

36. Nguyên văn: “。把。拏。拏脚。按的打。一。一。翠。臀。魂。那。不。皮 ”.

37. Nguyên văn: “支胡。我 ”.

38. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1561-1562.

39. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1562.

40. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1562-1563.

41, 42. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1563.

43. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1558.

44, 45. Xin xem Nguyễn Đăng Na. “Lời dẫn về văn bản”. In đầu bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh, Sđd; tr. 21.

46. Nguyên văn: “。却。做。做 [...]。怎。放。先。與。然。就。我。不。把。我。把。説。是。凡。有。都 ”.

47. Như trên, bản dịch của Phạm Tú Châu; tr. 1560.

48, 49, 50. Milan Kundera. Nghệ thuật tiểu thuyết. Nguyên Ngọc dịch. Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001; tr. 13, 14 và 26.

51. Tựa Truyện Kiều, 1820. Trần Trọng Kim dịch. Nguyên văn: “。敘。冩。談。自。心。未 ”.

LinkedInPinterestCập nhật lúc:05:38 CH @ 06/09/2008

Video liên quan

Chủ Đề