So sánh Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và “Vợ nhặt” của Kim Lân là hai truyện ngắn đều viết về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động. Em hãy phân tích hai truyện ngắn trên trong mối quan hệ đối sánh để nêu bật đặc sắc riêng của từng tác phẩm.

Quảng cáo

Xem thêm:

  • Soạn bài Vợ chồng A Phủ siêu ngắn
  • Soạn bài Vợ chồng A Phủ - Ngắn gọn nhất
  • Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

  • Dàn ý
  • Bài mẫu

  • Dàn ý
  • Bài mẫu
Bài khác

“Vợ chồng A Phủ”của Tô Hoài và“Vợ nhặt”của Kim Lân là hai truyện ngắn đều viết về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động.

Em hãy phân tích hai truyện ngắn trên trong mối quan hệ đối sánh để nêu bật đặc sắc riêng của từng tác phẩm.


Dàn ý

1.GIỚI THIỆU CHUNG:

- Giới thiệu tác giả Tô Hoài với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Kim Lân với truyện ngắn“Vợ nhặt”.

+ Tô Hoài là cây đại thụ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đạt kỉ lục về số lượng tác phẩm; phong phú, hấp dẫn về nội dung; đặc sắc về nghệ thuật."Vợ chồng A Phủ"là một truyện ngắn xuất sắc trong đời văn Tô Hoài nói riêng và văn học hiện đại của ta nói chung.

+ Kim Lân - người"một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy nông thôn".Có ý kiến cho rằng nếu chọn ra 10 cây bút tiêu biểu nhất của văn học hiện đại Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám thì không có ông nhưng nếu chọn ra 10 truyện ngắn hay nhất thì Kim Lân có đến 2 tác phẩm là"Làng"và "Vợ nhặt". Trong đó,"Vợ nhặt"là một câu chuyện đầy ám ảnh.

- Hai tác phẩm trên là những sáng tác tiêu biểu của hai nhà văn, đều viết về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động. Bên cạnh những nét tương đồng, ở hai truyện ngắn vẫn có những nét riêng độc đáo.

2.PHÂN TÍCH:[5,0 điểm]:

2.1.Số phận của người lao động trong 2 tác phẩm: [2,5 điểm]

a.Truyện "Vợ chồng A Phủ" phản ánh số phận đau khổ, tủi nhục của những người dân lao động dưới ách thống trị của cường quyền và thần quyền ở vùng miền núi Tây Bắc. Chứng minh qua cuộc đời nhân vật Mị và A Phủ:

- Nhân vật Mị:

+ Thân phận con dâu gạt nợ nhưng thực chất, Mị chỉ như kẻ ở cho nhà thống lí Pá Tra.

+ Bị bóc lột tàn tệ: làm việc quần quật, con trâu con ngựa làm còn có lúc nghỉ ngơi nhưng Mị thì không, trong đêm tình mùa xuân khi sức sống trỗi dậy ngay lập tức bị A Sử dập tắt, bắt trói vào cột…

+ Mị từ một cô gái trẻ trung, yêu đời trở thành "con rùa lùi lũi trong xó cửa", tê liệt cả khả năng phán kháng...

- Nhân vật A Phủ:

+ Chịu đau khổ, bất hạnh: mồ côi cha mẹ, bị đem bán đổi thóc, lưu lạc ở Hồng Ngài rồi vì dám đứng lên bảo vệ công bằng, lẽ phải mà bị đánh đập, phạt vạ, trở thành kẻ ở cho nhà thống lí.

+ Kiếp nô lệ bị bóc lột, chà đạp: bị phạt vạ vô lí, làm việc quần quật mấy năm không hết nợ, đánh mất bò nên bị trói đến chết [tính mạng rẻ mạt]…

b.Truyện "Vợ nhặt" phản ánh số phận khốn khổ, rẻ mạt của con người giữa thời đói:

- Cảnh nười chết đói tràn ngập khắp xóm ngụ cư: Người chết như ngả rạ, người sống thì "vật vờ như những bóng ma",...

- Số phận con người được tô đậm qua nhiều nhân vật cụ thể:

+ Tràng: xấu, nghèo, dân ngụ cư, ế vợ.

+ Người vợ nhặt: quần áo rách tả tơi, mặt xám ngoét, nghèo đói nên cong cớn, chỏng lỏn, chấp nhận theo không Tràng về làm vợ cốt để có miếng ăn.

+ Bà cụ Tứ: cái nghèo khổ in dấu trong dáng hình "lọng khọng" đầy ám ảnh

2.2.Vẻ đẹp tâm hồn của con người qua 2 tác phẩm:

a.Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã tập trung miêu tả sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do cháy bỏng và khả năng cách mạng ở những con người nghè khổ:

Nhân vật Mị:

- Là một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, tâm hồn trong sáng, yêu đời. Mị rất hiếu thảo: vì thương bố Mị chấp nhận làm con dâu gạt nợ, sống cuộc đời tăm tối, tủi nhục.

- Có sức sống tiềm tàng mãnh liệt [phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân]:Không khí ngày xuân ở Hồng Ngài, tiếng sao gọi bạn tình và nhất là hơi rượu đã làm thức dậy tâm hồn Mị. Từ một kẻ lầm lũi, tê liệt khả năng phản kháng, Mị bỗng sống dậy ý thức về thân phận, thấy đau khổ và nghĩ đến cái chết. Rồi Mị lại muốn làm đẹp, muốn đi chơi, muốn được sống như ngày còn trẻ, còn được tự do...

- Là một cô gái giàu tình thương, có khát vọng sống mãnh liệt và có khả năng cách mạng:

+ Mị cắt dây trói cứu A Phủ chính là tự giải thoát bản thân mình.

+ Vùng chạy theo A Phủ rồi sau hau người đã đến với cách mạng.

Nhân vật A Phủ:

- Là một chàng trai khỏe khoắn, chăm lao động, tính tình cương trực: Ai lấy được A Phủ "như có một con trâu tốt trong nhà", dám chống lại những bất công ngang trái,...

- Là người tình nghĩa và có tình yêu tự do và tinh thần cách mạng:

+ Khi Mị cởi trói, A Phủ khuỵu xuống, không bước được rồi ngay sau đó đã "quật sức vùng lên chạy" thoát khỏi gông cùm, xiềng xích.

+ Khi Mị nói "A Phủ cho tôi đi", A Phủ đã không bỏ lại người đàn bà khốn khổ ấy.

+ Tìm đến cách mạng, trở thành cán bộ giỏi

b.Trong "Vợ nhặt", Kim Lân đã cho thấy:

-Dù hoàn cảnh nghèo đói khốn cùng, con người vẫn yêu thương, đùm bọc nhau:

+ Tràng nhặt vợ về cưu mang.

+ Bà cụ Tứ sẵn sàng chấp nhận người con dâu với tất cả tình thương của một người mẹ đã trải đời.

+ Người vợ nhặt sẵn sàng theo không Tràng mong qua cảnh đói nghèo nhưng khi ăn miếng cháo cám "nghẹn bứ trong cổ họng" vẫn điềm nhiên, tỏ ra vui vẻ nghĩa là đã cảm thông, thấu hiểu và sẵn sàng chia sẻ sự nghèo khó với mẹ con Tràng.

- Khao khát hạnh phúc, niềm tin tưởng vào tương lai tươi sáng:

+ Người dân ngụ cư vui khi Tràng có vợ.

+ Tràng tủm tỉm cười, hôm sau xúc động trước cảnh nhà cửa sân vườn được quét dọn sạch sẽ...

+ Người vợ nhặt trở thành người phụ nữ dịu dàng, nữ tính, chu đáo.

+ Bà cụ Tứ dặn dò, chỉ bảo các con, toàn nghĩ đến chuyện tương lai "ai giàu ba họ, ai khó ba đời"...

+ Hình ảnh đoàn người đói đi trên đê sộp và lá cờ Việt Minh dự báo về một cuộc đổi đời

2.3.Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

- Trong "Vợ chồng A Phủ":

+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình, sâu sắc.

+ Giọng kể trầm lắng.

+ Sáng tạo nhiều chi tiết đặc sắc: căn buồng của Mị, tiếng sáo, giọt nước mắt A Phủ,...

- Trong"Vợ nhặt":

+ Giọng điệu đôn hậu, hóm hỉnh

+ Tình huống truyện vừa éo le vừa độc đáo, bất ngờ.

+ Miêu tả tâm trạng nhân vật tài tình.

2.4.So sánh:[2,0 điểm]:

a.Giống nhau:

- Lấy bối cảnh những năm 1945 – 1954

- Phản ánh số phận bi thảm đồng thời cũng khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người lao động

- Tố cáo xã hội thực dân phong kiến chà đạp, đẩy con người vào đau khổ.

- Thể hiện tinh thần nhân đạp sâu sắc: trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng chính đáng của con người, có niềm tin vào sự đổi đời của con người.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tài tình, tinh tế.

b.Khác nhau:

- “Vợ chồng A Phủ”tập trung phản ánh:

+ Số phận: người lao động bị áo bức, bóc lột

+ Vẻ đẹp: sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do.

-“Vợ nhặt”tập trung phản ánh:

+ Số phận: rẻ rúng vì đói nghèo.

+ Vẻ đẹp: khát vọng sống, ước mơ hạnh phúc.

3.ĐÁNH GIÁ CHUNG:

- Nhấn mạnh: hai tác phẩm bên cạnh những nét tương đồng vẫn có những nét riêng biệt, thể hiện phong cách nghệ thuật của tác giả.

- Khẳng định giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của hai tác phẩm cũng như tài năng của hai tác giả.

Bài mẫu

Tô Hoài và Kim Lân đều là những nhà văn nổi tiếng, tài giỏi của nền văn học hiện đại Việt Nam.Các ông đã để lại cho người đọc và nền văn học nước nhà một kho tàng đồ sộ các tác phẩm quý giá. Trong đó nổi bật nhất vẫn là "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt". Tác phẩm đã thể hiện thành công số phậnvà vẻ đẹp của người lao động.

Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là Mị, cô gái trẻ trung, xinh đẹp nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh. Vẻ đẹp của Mị được minh chứng qua việc“trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”Mị mang nhan sắc rực rỡ của người con gái tuổi mới lớn, độ tuổi đẹp đẽ, căng tràn sức sống nhất. Không chỉ xinh đẹp, mà Mị còn rất tài năng, tài thổi sáo của Mị nức tiếng gần xa, biết bao người mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Dù gia cảnh nghèo nàn, vẫn luôn nợ tiền nhà thống lí Pá Tra, nhưng khi biết nhà thống lí muốn bắt mình về làm con dâu để gạt nợ, cô đã lập tức cầu xin cha cho mình được đi làm để trả nợ dần:“Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố”, vì cô tự tin vào khả năng, sức khỏe của mình:“Con nay đã biết cuốc nương làm ngô”và hơn hết cô gái trẻ ấy con mang trong mình cái khát vọng được sống cuộc đời tự do:“Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Dù Mị hội tụ đầy đủ những phẩm chất để được hưởng một cuộc sống tự do, hạnh phúc nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh, bị các thế lực, thần quyền và cường quyền chà đạp, áp bức.

Vì món nợ truyền kiếp, cuối cùng Mị bị A Sử con trai thống lí Pá Tra bắt về làm con dâu gạt nợ. Cũng chính từ giờ phút đó cuộc sống bi kịch đổ ập xuống đời cô. Ban đầu khi mới về nhà thống lí, trong Mị vẫn mong manh xuất hiện ý thức phản kháng: đêm nào cô cũng khóc, và đến cuối cùng cô đã đi đến quyết định ăn lá ngón tự tử. Người ta chỉ muốn chết khi ý thức được nỗi khổ của mình, khi sự chịu đựng đã đạt đến giới hạn. Nhưng tình yêu thương gia đình đã khiến Mị từ bỏ ý định đó, vì nếu cô chết đi, món nợ vẫn còn, cha cô lại phải gánh chịu. Mị chấp nhận quay trở lại với cuộc sống lầm lũi, bất hạnh.

Khi người ta sống trong đau đớn và khổ cực trong một thời gian quá dài, tự nhiên sẽ mất đi cảm giác về cái khổ, cái bất công. Khi Mị làm dâu đã quen, cô quên đi nỗi đau khổ về thể xác. Thời gian của Mị không tính bằng thời gian đơn thuần mà bằng lượng công việc cô làm, việc này nối tiếp việc kia, dường như không có lúc nào người con gái ấy được nghỉ ngơi. Từ một người con gái trẻ trung, đầy sức sống, Mị biến thành công cụ lao động, mất đi ý niềm về thời gian, về tuổi trẻ. Không chỉ vậy Mị còn phải gánh chịu nỗi đau khổ về tinh thần:“Ai có việc ở xa về, có việc vào nhà thống Lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”,“lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và chính Mị cũngtưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựatrong nhà này. Bằng biện pháp so sánh, đã cho thấy nỗi khổ bị đẩy lên đến tận cùng của Mị. Đặc biệt là hình ảnh ẩn dụ về căn buồng mà Mị ở :“kín mít, chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào nhìn ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đây thực chất không phải là nơi để con người sinh sống mà nó như một địa ngục trần gian, dùng để giam hãm cuộc đời Mị. Và nó cũng chẳng khác gì một nấm mồ chôn vùi thanh xuân, tuổi trẻ và hạnh phúc của một người con gái lương thiện, giàu sức sống. Đoạn văn cho thấy hiện thực xã hội thối nát đương thời, đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người. Đồng thời cũng là lời nói cảm thương cho những số phận bất hạnh dưới ách thống trị của bọn phong kiến miền núi.

Nhưng ẩn sâu trong tâm hồn tưởng chừng như đã héo úa, không còn niềm tin ấy nữa lại là sức sống tiềm tàng vô cùng mãnh liệt. Sức sống ấy được thể hiện rõ nhất trong đêm tình mùa xuân. Không phải ngẫu nhiên mà sức sống đó được khơi nguồn, trước hết do Mị nhận sự tác động từ không khí mùa xuân ấm áp, đầy tình tứ, những đồi cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy phơi trên mỏm đá xòe rộng ra như những cánh bướm sặc sỡ. Cùng với đó là âm thanh náo nhiệt, rộn rã của đám trẻ con và đặc biệt là sự xuất hiện của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, ban đầu là ở bên ngoài, sau đó gần như hòa làm một trong Mị:“Rập rờn trong đầu Mị”. Trong hồn Mị sống lại những khát khao được yêu đương, khát vọng được sống hạnh phúc của ngày xưa, từ cõi vô cảm, quên lãng, Mị trở về cõi nhớ. Đồng thời cũng không thể thiếu đi chất xúc tác của hơi men, Mị uống cả hũ rượu, uống ừng ực từng bát, Mị say rồi ngồi lịm đi, mơ màng nhớ về quá khứ tự do.

Những chất xúc tác đó đã tạo nên hành trình vượt thoát, để Mị tìm lại chính bản thân mình. Trong lòng Mị thấy phơi phới trở lại, cái cảm giác mà tưởng rằng bấy lâu nay đã mất. Mị ý thức được rằng:“Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Nhưng sự thật phũ phàng, Mị muốn đi chơi nhưng lại không được đi, nên Mị quay về buồng. Trong hơi men của rượu lại một lần nữa sức sống trỗi dậy. Mị lấy ống mỡ, sắn một miếng thắp lên cho sáng, đây không chỉ là hành động thắp sáng vật lí đơn thuần mà nó còn biểu tượng cho khát vọng, niềm tin được giải thoát, thắp sáng chính cuộc đời Mị. Cô quấn lại tóc, lấy cái váy chuẩn bị đi chơi thì bị A Sử chặn đứng lại bằng hành động vô cùng thô bạo. Mị bị trói đứng ở cột, nhưng A Sử chỉ trói được thân xác Mị, chứ không thể trói được khát vọng, sức sống trong Mị. Trong tâm tưởng cô vẫn thả hồn theo tiếng sáo và những cuộc chơi. Sáng hôm sau Mị tỉnh lại và tiếp diễn chuỗi ngày sống mòn, sống mỏi.

Và để cho cuộc vượt thoát của Mị được thành công, Tô Hoài đã tạo ra tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa Mị và A Phủ. A Phủ là người ở của thống lí, do làm mất bò nên bị trói đứng. Sau đêm tình mùa xuân Mị rơi vào trạng thái tê liệt, nhưng gặp A Phủ đã thức dậy trong cô khát vọng sống. Giọt nước mắt“mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”đã có tác động mạnh mẽ đế Mị, khiến Mị ý thức được nỗi đau khổ của mình, tự thương thân và thương người. Điều đó đã dẫn đến hành động cởi dây trói và bỏ đi theo A Phủ, hướng đến cuộc đời tự do, hạnh phúc phía trước.

Xây dựng nhân vật Mị, Tô Hoài đã phơi bày một cách chân thực số phận cực khổ của người dân lao động Tây Bắc dưới ách áp bức của giai cấp thống trị miền núi. Đồng thời thể hiện niềm cảm thương với số phận khổ đau của nhân vật Mị. Và phát hiện, trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của tâm hồn của Mị với sức sống tiềm tang, mãnh liệt.

Ngoài nhân vật Mị, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật A Phủ. A Phủ là người có số phận bất hạnh, cha mẹ mất, cậu trở thành món hàng trao đổi, mất tự do ngay từ khi còn bé. Khi lớn lên do không có nhà cửa, tiền bạc, ruộng nên không thể lập gia đình. Nhưng dù vậy A Phủ lại mang trong mình những phẩm chất hết sức đẹp đẽ, A Phủ mang trong lối sống phóng khoáng, mạnh mẽ, tự lực kiếm sống, vươn lên hoàn cảnh khắc nghiệt để sống là một con người dũng cảm, tự tin, yêu đời. Nhưng số phận bất hạnh, A Phủ bị biến thành người ở gạt nợ một cách hết sức phi lí. Cậu bị đày đọa về thể xác, bị lợi dụng sức khỏe triệt để, sức khỏe bị rẻ rúng khôn cùng. Nhưng trong con người ấy vẫn luôn tồn tại khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Ngay khi được Mị giải cứu, A Phủ và Mị đã cùng nhau bỏ trốn nơi địa ngục đó để tìm đến một cuộc sống đẹp đẽ, tự do hơn.

Nét nghệ thuật đắc sắc nhất trong tác phẩm là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Mị được xây dựng theo kiểu nhân vật tâm trạng, còn A Phủ là kiểu nhân vật hành động. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, cũng như phong tục tập quán tài tình. Ngôn từ giản dị, linh hoạt, giàu cảm xúc, mang đâm chất dân tộc. Các yếu tố nghệ thuật đó đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

Tác phẩm "Vợ nhặtt" có một nhan đề thật lạ nhưng cũng hết sức hấp dẫn, gây sự chú ý cho bạn đọc. Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là nhặt nhạnh, lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin, lễ nghi đàng hoàng, tử tế. Thông thường, người ta chỉ nhặt cọng rơm, cọng rác chứ không ai nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh này, thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết. Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện bất ngờ nhưng cũng đầy nghịch cảnh, bi hài. Giữa nạn đói, giữa lúc thân mình còn chưa biết có lo nổi hay không thì anh cu Tràng lại nhặt được vợ. Chỉ bằng vài câu nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một anh chàng xấu trai, nghèo khổ lấy được vợ. Và cũng có thể do hoàn cảnh đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng. Đây quả là một sự éo le khi đèo bòng thêm một người giữa nạn đói. Cô dâu đã xuất hiện cùng Tràng vào buổi chiều “xác xơ”, “heo hút” trước ánh mắt ngạc nhiên của biết bao nhiêu người dân xóm ngụ cư. Thậm chí có người còn lo lắng thay cho anh: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không”?

Nổi bật giữa ranh giới của sự sống và cái chết là hình ảnh anh cu Tràng, bà cụ Tứ và người vợ theo không Tràng. Họ đã cưu mang, đùm bọc nhau cùng vượt qua sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Nhân vật anh cu Tràng xuất hiện giữa một không gian u ám, đầy tử khí vì “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Anh được miêu tả là một người ngộc nghệch nên thường bị đám trẻ con xóm ngụ cư trêu ghẹo. Gia cảnh của Tràng có nhiều sự bất hạnh bởi anh là dân xóm ngụ cư, sống cùng với người mẹ già. Vì cái nghèo đeo đuổi nên dù đã nhiều tuổi nhưng anh chưa lấy được vợ. Oái oăm thay, anh cu Tràng lại có vợ ngay trong nạn đói. Đây là một niềm vui lớn đối với anh khiến mặt anh “có một vẻ gì phớn phở khác thường” và “tủm tỉm cười nụ một mình”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Lấy vợ là việc hệ trọng của đời người, cần có sự chuẩn bị từ trước và hai người đến với nhau bằng tình yêu của hai trái tim đồng điệu. Nhưng anh cu Tràng và người vợ nhặt không có cưới xin đường hoàng, lễ nghi tử tế. Họ gặp nhau rất tình cờ và đến với nhau cũng không phải vì tình yêu đôi lứa. Họ gặp nhau và gắn bó với nhau bởi phận nghèo.

Sự xuất hiện của người vợ nhặt trong cuộc đời anh cu Tràng đã khiến tính nết của anh thay đổi. Từ một con người ngộc nghệch, anh trở thành một người có trách nhiệm, biết chăm lo cho gia đình. Tràng rất ga lăng trong việc sửa soạn cho người vợ nhặt trước khi đưa nàng về làm dâu. Anh đưa thị vào chợ tỉnh rồi “bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về”. Không những thế, anh còn mua hai hào dầu thắp. Tràng đã chuẩn bị cả về vật chất và tinh thần cho cuộc sống mới khá đầy đủ. Khi những ánh mắt của người dân xóm ngụ cư đổ dồn về phía anh và người vợ nhặt thì anh “lấy vậy làm thích ý lắm”. Anh đã không kìm nén được niềm hạnh phúc khi có vợ nên đã bộc lộ nó qua “cái mặt cứ vênh lên tự đắc”.

Mấy ai có đủ dũng cảm để đón nhận hạnh phúc của mình ngay giữa nạn đói giống anh cu Tràng? Anh đã giới thiệu với bà cụ Tứ một cách đầy đủ về cái duyên, cái số của mình với người vợ nhặt: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải kiếp với nhau…Chẳng qua nó cũng là cái số cả”. Sự kiện thị theo không Tràng về khiến anh “ngỡ ngàng như không phải”. Nhưng chính sự kiện hệ trọng ấy lại khiến lòng anh tràn ngập một nguồn vui sướng, phấn chấn. Anh cu Tràng thấy mình “nên người” và “có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Hạnh phúc đến với anh hết sức éo le, bất ngờ nhưng cũng vô cùng thiêng liêng. Tràng đã vượt lên trên hiện thực đói khát để đón lấy thứ hạnh phúc bình dị, trần thế. Anh đã trở nên chín chắn, trưởng thành hơn từ trong suy nghĩ đến hành động để có thể chăm sóc tốt cho gia đình của mình.

Việc Tràng có vợ không chỉ gây bất ngờ cho những người dân xóm ngụ cư mà còn gây bất ngờ cho cả bà cụ Tứ - mẹ của anh. Bà rất ngạc nhiên khi có người đàn bà “đứng ngay đầu giường thằng con mình” và “chào mình bằng u”. Đó cũng là tâm lí chung của các bà mẹ khi rơi vào hoàn cảnh như vậy. Sau khi nghe Tràng giới thiệu người vợ nhặt thì “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình” rồi “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà lo lắng không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Bà hiểu và thương cảm cho thân phận của nàng dâu mới, cũng nhờ vậy mà con bà mới có được vợ. Chỉ cần hai vợ chồng hòa thuận, bảo ban nhau làm ăn bà cũng mừng lòng. Bà xót thương cho tình cảnh của người vợ nhặt. Đó là lòng cưu mang, là sự đùm bọc lẫn nhau của những người cùng cảnh ngộ. Bà cụ Tứ thực sự là một người mẹ có tấm lòng bao dung và vị tha cao cả.

Bà có niềm tin vào tương lai và có nghị lực sống mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện trong những suy nghĩ, lời nói, hành động của bà. Bà đã an ủi các con rằng: “Rồi ra may mà ông giời cho khá”, “ai giàu ba họ, ai khó ba đời” để động viên các con cố gắng làm ăn, lo cho tương lai. Sáng hôm sau, bà cảm thấy “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo ú ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong bữa cơm sáng, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói với anh cu Tràng khi nào có tiền thì mua lấy đôi gà và khen món chè khoán ngon. Thực chất đây là món cháo cám đắng chát, bà khen ngon như để an ủi chính bản thân mình cũng như để an ủi các con và giấu đi

Tô Hoài và Kim Lân đều là những nhà văn nổi tiếng, tài giỏi của nền văn học hiện đại Việt Nam.Các ông đã để lại cho người đọc và nền văn học nước nhà một kho tàng đồ sộ các tác phẩm quý giá. Trong đó nổi bật nhất vẫn là "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt". Tác phẩm đã thể hiện thành công số phậnvà vẻ đẹp của người lao động.

Nguồn: Sưu tầm

Loigiaihay.com

  • Nét đặc sắc của Tô Hoài và Kim Lân trong việc thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong hai truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”

  • Phân tích sức mạnh của tình yêu thương giữa con người với con người trong đoạn Mị cứu A Phủ và Tràng đưa Thị về nhà làm vợ

  • Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

  • Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài

  • Diễn biến tâm trạng của Mị trong " đêm tình mùa xuân" [Vợ chồng A Phủ]

Quảng cáo

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 12 - Xem ngay

Báo lỗi - Góp ý

ĐỀ SO SÁNH VỢ CHỒNG A PHỦ- VỢ NHẶT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [59.13 KB, 2 trang ]

CHỦ ĐỀ: SO SÁNH VỢ CHỒNG A PHỦ- VỢ NHẶT
I. ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU VỀ SỐ PHẬN, CẢNH NGỘ CỦA NGƯỜI
NÔNG DÂN LAO ĐỘNG TRONG HAI TÁC PHẨM:
1. Số phận và cảnh ngộ của người nông dân trong hai tác phẩm:
a. Vợ chồng A Phủ:
- Mị.
- A Phủ.
=> Đầy bi kịch.
b. Vợ nhặt:
- Tràng.
- Thị.
- Bà cụ Tứ.
=> Bị dồn vào bước đường cùng vì cái đói dồn đuổi, cái chết bủa vây


2. Nét tương đồng và khác biệt:
a. Tương đồng:
- Sự nghèo khổ, cơ cực của con người trong hoàn cảnh bi đát, bất công.
- Ngòi bút giàu tình hiện thực của hai t/g.
b. Sự khác biệt:
- VCAP: người lao động sau cách mạng bị tước đoạt quyền sống, sức sống; Nỗi
khổ của người lao động do bọn chúa đất phong kiến gây nên.
- VN: người lao động trở nên khốn khổ, cùng đường vì đói nghèo, chết chóc; tất
cảddeeuf do bọn thực dân- phát xít gây ra.
II. ĐIỂM GIỒNG VÀ KHÁC NHAU VỀ TƯ TƯỞNG NHÂN ĐẠO:
1. Giống nhau:
- Niềm cảm thông, chia sẻ trước nỗi đau khổ của con người.


- Lên án, phê phán những thế lực đã tước đoạt, chà đạp lên quyền sống, quyền
hạnh phúc của con người.
- Đi sâu khám phá, phát hiện những nét đẹp ẩn dấu trong tâm hồn con người.
2. Điểm khác:
- VCAP:
+ T/g xoáy sâu vào nỗi khổ của người lao động từ góc đọ bị tước đoạt quyền sống,
sức sống.
+ Ca ngợi con người ở góc độ sức sống tiềm tàng, sức mạnh vùng lên tự giải
phóng.
+ Trực tiếp lên án, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, điển hình là cha con thống lí
Pá Tra.
+ T/g đã đưa nhân vật tìm lại niềm hạnh phúc trong cuộc đời mới bằng sức sống


tiềm tàng mãnh liệt.
- VN:
+ Xoáy sâu vào nỗi khổ của người lao động trong nạn đói năm Ất Dậu.
+ Ca ngợi niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
+ Gián tiếp lên án, phê phán bọn thực dân- phát xít.
+ T/g hé lộ niềm tin tưởng vào ngày mai tươi sáng.
III. CẢNH NGỘ, SỐ PHẬN VÀ KHÁT VỌNG SỐNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
VIỆT NAM QUA MỊ VÀ NGƯỜI VỢ NHẶT:
1. Mị- VCAP.
- Số phận.
+ Bị đày đoạ về thể xác: Bị bóc lột sức lao động, bị hành hạ đánh đập.
+ Bị hành hạ về tinh thần: Xa cách với cuộc sống bên ngoài, không cho đi chơi tết,


phải sống với người không yêu.
- Khát vọng sống: [Phân tích các biểu hiện của sức sống tiềm tàng].
2. Thị- VN.
- Số phận:Khốn khổ, cùng đường do cái đói dồn đuổi nên có phần liều lĩnh.
- Khát vọng sống:
+ Chuyển biến tích cực trên con đường theo Tràng về làm vợ.
+ Hiền thục, dịu dàng cùng mẹ chồng quét tước dọn dẹp nhằm vun đắp cho hạnh
phúc nhỏ nhoi của mình.
3. Nét tương đồng, khác biệt:
- Tương đồng:
+ Số phận bi đát, đau khổ, tủi nhục, cay đắng.
+ Khát vọng sống tốt đẹp.


+ Đều đươc thể hiện bằng ngòi bút giàu tính hiện thực và nhân đạo.
- Khác biệt:
+ VCAP: Mị là nhân vật điển hình cho số phận người phụ nữ vùng cao Tây Bắc
do giai cấp thống trị gây nên; Nỗi khổ của Mị ngiêng về bị tước đoạt quyền sống,
sức sống; vẻ đẹp sức sống tiềm tàng vùng lên tự cởi trói cuộc đời mình.
+ VN: Vợ nhặt là thực trạng của con người trong nạn đói do thực dân Pháp- PX
Nhật gây ra; nỗi khổ của thị do đói nghèo gây ra; niềm tin, niềm hi vọng vào ngày
mai tươi sáng hơn.

Phân tích và so sánh "Vợ chồng A Phủ" với "Vợ nhặt" hay nhất

A. ĐỀ BÀI

Phần I. Đọc hiểu [3 điểm]
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cẩu:
Con mèo nằm thản nhiên
trong mảnh thảm nhung góc nhà
Nó bị xích như xích chó
Thức ăn được phục vụ tại chỗ

Thấy chuột, tôi thả con mèo ra
Mèo nhìn chuột dửng dưng, lạnh lùng
Rồi lại nằm khoèo trên mảnh thảm nhung,
gối đầu lên cái xích…
[Con mèo, Trần Nhuận Minh, Cửa Lục, 2. 1999].
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của bài thơ trên.
Câu 2. Các từ “dửng dưng, lạnh lùng, nằm khoèo” thể hiện điều gì?
Câu 3. Xác định nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn trong bài thơ.
Câu 4.Có ý kiến cho rằng, bài thơ Con mèo của Trần Nhuận Minh đã lên tiếng cảnh báo về một thế hệ thích sống hưởng thụ, ỷ lại, thụ động. Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên. Trả lời trong khoảng 5-7 dòng,
Phần II. Làm vẫn [7 điểm]

Câu 1 [2 điểm]:
“Hôm nay [19/4], là ngày đầu tiên Công viên nước Hồ Tây [Hà Nội] mở cửa miễn phí cho người dân Thủ đô và du khách đến vui chơi và bơi lội. Ngay từ sáng, hàng nghìn người dân đồng loạt kéo đến, khiến công viên rơi vào tình trạng quá tải. Phía Công viên phải phát đi thông báo trên hệ thống loa truyền thanh có nội dung tạm dừng phục vụ nhân dân miễn phí và tiến hành cho lực lượng an ninh đóng cồng ngay sau đó.
Tuy nhiên, nhiều người thay vì chấp hành thông báo trên, đã “quyết” vào trong bằng cách trèo qua hàng rào sắt bất chấp nguy hiểm cho bản thân. Lục lượng an ninh quá mỏng so với “biển người” đang xuất hiện tại đây, khiến việc ngăn cản người dân vượt rào vào trong gặp nhiều khó khăn”.
[Theo Nguyễn Dương - báo Dân trí]
Đoạn văn trên gợi cho anh chị suy nghĩ gì về lối ứng xử thiếu vãn hóa của một bộ phận người Việt hiện nay? Trình bày những suy nghĩ đó bằng một đoạn văn nghị luận [khoảng 200 chữ].
Câu 2 [5 điểm]:
Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hai tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài và "Vợ nhặt" của Kim Lân.

B. GỢI Ý LÀM BÀI

Phần I: Đọc - hiểu [3 điểm]
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính: miêu tả.
Câu 2. Các từ “dửng dưng lạnh lùng, nằm khoèo ” thể hiện thái độ không quan tâm, không cần biết của con mèo đối với loại thức ăn tự nhiên [chuột] mà chúng yêu thích nhất. Thấy chuột thì “dửng dưng” “lạnh lùng" là trái ngược với bản năng động vật của chúng. Việc nhà văn miêu tả như vậy sẽ gợi trí tò mò của độc giả, bắt buộc độc giả phải đi tìm lí do cho thái độ “dửng dưng, lạnh lùng' đó của con mèo.
Câu 3.
- Nghĩa tường minh: Bài thơ là hình ảnh con mèo được nuôi đầy đủ vật chất nên lâu ngày đánh mất bân năng sinh tồn của động vật, nhìn thấy chuột cũng không muôn bắt.
- Nghĩa hàm ẩn: Con mèo ”bị xích”, bị phụ thuộc, thức ăn được phục vụ nên sống ỷ lại, hưởng thụ, thấy chuột dửng dưng không bắt tức là đánh mất bản năng. Hình tượng con mèo là ẩn dụ lớn cho lối sống hưởng thụ, ỷ nại, tuy bị phụ thuộc nhưng không biết đấu tranh, phản khảng.
Câu 4. Có ý kiến cho rằng, bài thơ "Con mèo" của Trần Nhuận Minh đã lên tiếng cảnh báo về một thế hệ thích sống hưởng thụ, ỷ lại, thụ động. Thí sinh có thể trả lời là đồng ý/ hay không đồng ý với ý kiến trên. Tuy nhiên cần phải nêu được lí lẽ thuyết phục cho ý kiến của mình. Câu hỏi mở, giáo viên linh động cho điểm.
Phẩn II. Làm văn [7 điểm]

Câu 1 [2 điểm]
Yêu cầu về hình thức:
- Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.
- Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...
Yêu cầu về nội dung:
- Giải thích:
+ Hiện tượng được phản ánh trong đoạn trích trên là một biểu hiện của lối ứng xử thiếu văn hóa của một bộ phận không nhỏ người Việt hiện nay.
+ Ứng xử thiếu văn hóa là cách ứng xử lỗ mãng, bất lịch sự, thiếu tế nhị, gây khó chịu cho người khác,ứng xử thiếu vẫn hóa đang là căn bệnh của một bộ phận không nhỏ người dân, phản ánh sự xuống cấp về mặt đạo đức cũng như ý thức.
- Phân tích thực trạng, giải thích nguyên nhân, nêu hệ quả và đề xuất một số phương pháp xử lý đối với hiện tượng được nhắc đến. Lập luận phải chặt chẽ, có sức thuyết phục:
+ Thực trạng:
Không chỉ riêng vụ việc vượt rào ở Công viên nước Hồ Tây thời gian vừa qua, mà báo chí cũng đã không ít lần đưa tin về những vụ việc tương tự. Giành giật đồ ăn, áo mưa miễn phí, giẫm đạp lên nhau để đổi mũ bảo hiểm... báo động sự vắng mặt của văn hóa và ý thức trong cộng đổng người Việt
+ Nguyên nhân của ứng xử thiều văn hóa:
++ Nguyên nhân đầu tiên và trực tiếp nhất là do ý thức của người dân chưa cao. Căn bệnh thực dụng, thói tham lam, ích kỉ, chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân minh đã dẫn đến những hành động bất chấp cà lòng tự họng, luật pháp.
++ Do ảnh hưởng tiêu cực của đời sống hội nhập. Con người mà chạy theo đồng tiền, những giá trị vật chất mà không có gốc văn hóa.
+ Do căn bệnh đám đông, một người làm thì nhiều người sẽ làm theo.
+ Giải pháp:
++ Mỗi người phải tự ý thức và điều chỉnh những hành vi, ứng xử của bản thân sao cho phù hợp với chuẩn mực về văn hóa của xã hội.
++ Để nâng cao ý thức ứng xử có văn hóa của người dân, bản thân mỗi người, gia đình và toàn xã hội phải có sự chung tay, hợp sức.
- Bình luận:
+ Cuộc sống hiện đại với vòng quay của đồng tiền khiến những nét đẹp trong văn hóa ứng xử dần bị mai một, tha hóa. Phép lịch sự tối thiểu trong giao tiếp, ứng xử như lời chào, lời xin lỗi, lời cảm ơn dần bị coi nhẹ.
+ Mối quan hệ giữa người với người cũng dần dần bị vật chất hóa, con người chỉ quan tâm đến những giá trị vật chất, trọng người giàu, coi khinh người nghèo. Đó cũng chính là mặt trái của nền kinh tế thị trường.

Câu 2 [5 điểm]:

1. Mở bài:
- Trong nền văn học Việt Nam hiện đại 1945 - 1975, cùng với thơ, truyện ngắn là một trong những thể loại đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Bên cạnh những truyện ngắn có giá trị viết về đề tài chiến đấu và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, còn có những truyện ngắn xuất sắc viết về cuộc sống mới thường ngày, phản ánh số phận người lao động, đặc biệt là số phận người phụ nữ, khám phá những khát vọng và vẻ đẹp tâm hồn họ.
- Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Vợ nhặt của Kim Lân là những tác phẩm tiêu biểu mang giá trị nhân văn sâu sắc về sổ phận con người, thề hiện cái nhìn sâu sắc của nhà văn với cuộc đời. Bên cạnh những nét chung, mỗi tác phẩm lại mang những nét riêng đặc sắc để tạo nên giá trị, tạo nên sức sống lâu bền trong nền văn học nước nhà.

2.Thân bài:
a] Giới thiệu chung:
- Con người là trung tâm của mọi tác phẩm vàn học, cho nên sổ phận con người, nhất là số phận người phụ nữ đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các nghệ sĩ lớn xưa nay. Như Gorki đã có bốn câu thơ tuyệt hay:
"Trời không ánh sáng hoa nào nở
Dạ vắng yêu thương cảnh những sầu
Đời không mẹ hiền, không phụ nữ
Anh hùng thi sĩ hỏi còn đâu...
- Vấn đề số phận người phụ nữ cũng đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn học Việt Nam qua các thời kỳ. Đó là thân phận một nàng Kiều tài hoa và bạc mệnh một người chinh phụ phải sống trong sầu tủi cô đơn; một cung nữ sắc nước hương trời bị vua ghẻ lạnh phải sống trong cảnh lạnh lùng; một Hồ Xuân Hương thông minh, sắc sảo, khát khao hạnh phúc ngọt ngào mà cuộc đời gặp toàn cay đắng, hẩm hiu. Những số phận người phụ nữ trong văn học quá khứ là bất hạnh, khổ đau, bế tắc. Đến các tác phẩm văn học thời kỳ hiện đại, ta sẽ thấy được các nhà văn đã thổi vào số phận của người phụ nữ một luồng sinh khí mới.
b] Nhân vật người phụ nữ trong hai tác phẩm:
- Các nhân vật phụ nữ trong "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt" là những con người lao động có cuộc đời khổ cực, bất hạnh. Nhưng các tác giả Tô Hoài và Kim Lân đã có cái nhìn sự vật hiện tượng theo chiều hướng vận động đi lên nên đã có một cách đánh giá khác về số phận của những người phụ nữ ấy. số phận nhân vật đi từ bóng tối đến ánh sáng, đi từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”.
- Mịtrong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, bị bọn thống trị, đại diện là thống lý Pá Tra áp bức đọa đày. Mị tiêu biểu cho số phận người phụ nữ Mèo ờ vùng rừng núi Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Mị vốn là cô gái Mèo trẻ đẹp, đảm đang, hiếu thảo, Với những phẩm chất tốt đẹp ấy, Mị rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Và thực sự Mị đã sống những giây phút tươi đẹp của tuổi trăng rằm dù trong hoàn cảnh nghèo khó. Song tương lai của tuổi trẻ với hạnh phúc và tình yêu đã không đến được với cô gái Mèo nghèo khổ đó. Chỉ vì một món nợ truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị bắt đem về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Những ngày sống trong nhà ngục thống lý, Mị phải chịu biết bao nỗi đau thương, tủi nhục tăm tối. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đọa về tinh thần. Như vậy, cũng như bao người lao động khác, vì nghèo đói, Mị đã trở thành nô lệ cho bọn giàu có. Thời gian đầu làm con dâu gạt nợ, người phụ nữ này đã phản kháng quyết liệt. Đã có lúc Mị muốn tử tự, nhưng vì thương bố, dù có chết thì món nợ vẫn còn, bố còn khổ hơn cả bây giờ, MỊ đành âm thầm chấp nhận cuộc đời trâu ngựa. Bây giờ Mị nghĩ rằng mình là con vật, thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa.
+ Bị đày đọa khủng khiếp trong địa ngục nhà thống lý, MỊ như bông hoa rừng đang héo tàn theo năm tháng. Người con gái tài hoa, trẻ đẹp, ham sống, yêu đời thuở nào giờ chỉ còn là người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Từ đây, ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Mị ngày càng ít nói, MỊ gần như tê liệt hết sức sống, mất hết cảm giác về thời gian, không gian. Cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ lại qua lỗ vuông cửa sổ bằng bàn tay mờ mờ trắng trắng, không biết là sương hay là nắng, nó cũng mờ đục tăm tối như số phận và tâm hồn Mị vậy, khiến Mị cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở đấy, cuộc đời tăm tối, tủi nhục của Mị được Tô Hoài khắc họa một cách chân thực, cảm động. Hơn nữa, nhà văn không chi dừng lại ở đó, mà còn phát hiện niềm ham sổng, khát khao hạnh phúc tình yêu, hạnh phúc tự do của người đàn bà tội nghiệp này bằng việc miêu tả sinh động sự hồi sinh trong ý thức nhân vật. Không chỉ rạo rực trong đêm tình mùa xuân với những âm thanh náo nức, tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng đã làm sổng dậy tình yêu cuộc đời trong tâm hồn Mị mà lâu nay bị vùi dập bởi cuộc sống trâu ngựa khổ đau. Mị hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp và cảm thấy tâm hồn mình như phơi phới trở lại. Rồi Mị với tay lấy váy hoa, quấn lại tóc sửa soạn đi chơi ngày Tết. Nhưng giữa lúc sức sống bùng lên một cách mãnh liệt thì cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách phũ phàng. Mị bị A Sử thản nhiên trói đóng ở cột nhà như trói một con vật. Như vậy, khát vọng sống của Mị đã bị vùi dập một cách hết sức tàn nhẫn.
+ Rồi một đêm chứng kiến cảnh A Phủ bi đánh, bị trói một cách thảm khốc, Vì niềm đồng cảm của những con người cùng cảnh ngộ, vì lòng thương người, Mị đã vượt qua được nỗi sợ hãi khủng khiếp, dám nghĩ tới một hành động táo bạo: cắt dây trói giải cứu cho A Phủ rồi chạy theo A Phủ để thoát khỏi nhà ngục thống lý. Mị đến Phiềng Sa gặp A Châu, một cán bộ trung kiên của Đảng, được A Châu giúp đỡ, Mị tham gia du kích chiến đấu giải phóng mình và giải phóng quê hương như là một tất yếu.
Như vậy, viết về một số phận người phụ nữ ở đây, Tô Hoài đã đặt ra vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc chân chính của người phụ nữ miền núi và con đường giải phóng cho họ. Với khát vọng cao đẹp và sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, Mị đã đến với cách mạng để trở thành con người làm chủ.

Có thể bạn quan tâm:Phân tích tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"

- Ở tác phẩm "Vợ nhặt", số phận con người chưa hoàn toàn sang trang mới, nhưng ở đoạn kết của tác phẩm đã hé mở cho họ một tương lai tốt đẹp. Ngay ở nhan đề "Vợ nhặt" cũng đã phần nào nói lên được hoàn cảnh khốc liệt của số phận bị cái đói khủng khiếp, đe dọa cướp đi sự sống. Xưa nay, lấy vợ là phải cưới xin, nhưng đằng này lại nhặt được vợ như người ta nhặt được cái rơm, cái rác bên đường mà chỉ nhờ bốn bát bánh đúc. Đó là hậu quả của nạn đói năm 1945 khủng khiếp. Cái nạn đói khiến cho bao người kỉnh hoàng, khiến cho bao số phận của con người trở nên mong manh như chiếc lá vàng trước gió. Đó cũng là bức tranh chân thực của xã hội Việt Nam năm 1945, đặt nhân vật vào tình huống ấy, Kim Lân có điều kiện làm nổi rõ số phận và phẩm chất nhân vật.
+ Số phận người phụ nữ đầu tiên là “vợ nhặt”:
++ Ngay cái tên của chị cũng không có, cái đói đã hủy hoại đi cả hình thể lẫn tâm hồn của Thị: nom chị ta rách rưới quá; áo quần tả tơi như tồ đỉa; chị ta gầy sọp, cái ngực lép kép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt. Chị ngồi với mấy người bạn trước kho thóc trông thật thảm hại. Kim Lân không miêu tả gia cảnh của người đàn bà này mà mở đầu cuộc đời chị là hai người quen nhau: một câu nói vu vơ trêu chọc của Tràng. Cái đói khiến Thị phải gợi ý Tràng cho ăn và cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc rồi lon ton chạy theo về làm vợ nhặt người đàn ông xa lạ kia.
++ Đời người con gái hạnh phúc nhất là khi rước dâu, vậy mà thị phải theo không Tràng về. Cái dáng người lầm lũi, e thẹn đi cách Tràng vài bước trong lời trêu chọc và ánh mắt của trẻ con, người lớn xóm ngụ cư khiến người đọc xót thương. Thương nhất là cảnh chị ngồi mép giường, cái thúng ôm khư khư trước mặt. Thế ngồi của thị cũng chông chênh như cuộc đời, như lòng thị, như tương lai của thị. Nhưng tình thương bao la của người mẹ chồng cùng tấm lòng chân thành của Tràng đã xua đi nỗi e dè, tủi cực của thị. Sáng hôm sau, thị dậy sớm với cử chỉ dịu dàng, chăm chỉ. Đến đây, số phận của thị đã khác. Từ một người bơ vơ đầu đường xó chợ, bị cái đói rình rập làm cho thị trở nên cong cớn, liều lĩnh, chua chát, chỏng lỏn, đã trở thành một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực. ThỊ đã có mái ấm gia đình thực sự với một người chồng và mẹ chồng luôn luôn yêu thương thị.
+ Bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng là một số phận người phụ nữ gây nhiều xót thương cho người đọc. Độc giả có thể tìm thấy ở hình tượng nhân vật này bao bà mẹ Việt Nam nghèo khổ mà cần cù, chịu thương, chịu khó, rất mực thương con và lúc nào cũng hướng về cái thiện, về tương laị tươi sáng.
++ Cái dáng người lọng khọng, cái thân hình còm cõi, cái gương mặt u ám của bà như đã nói với ta tất cả sổ phận nghèo khổ dưới đáy của xã hội xóm ngụ cư. Cho nên khi có người đàn bà xa lạ xuất hiện ở đầu giường của con mình, bà cụ ngạc nhiên đến sững sờ, không hiểu nổi. Và khi hiểu ra đó là đứa con dâu mới của mình thì cụ lại hiểu ra biết bao cơ sự vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình và rồi trong đôi mắt kèm nhèm của bà cụ rụp xuống hai hàng nước mắt. Đó là giọt nước mắt của một người mẹ nghèo vừa mừng vui, vừa âu lo, xót thương, vừa buồn tủi. Tủi vì làm mẹ không lo được cho con. Nay con có vợ rồi lại phải lấy vợ theo cách ấy: không cưới hay bất cứ một nghi thức nào vẫn thường được tôn trọng ở nông thôn ta ngày xưa.
++ Nhưng dù niềm vui hay nỗi buồn, dù nỗi lo toan hay tủi phận thì người mẹ Việt Nam ở bà cụ Tứ vẫn bừng sáng một tấm lòng yêu thương độ lượng. Bữa cỗ cưới ngày đói thật thảm hại: giữa cái mẹt rách cố độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo... Trong bữa ăn bà cụ Tứ toàn chuyện vui chuyện tốt đẹp về sau... bà nhìn cuộc sống bằng đôi mắt lạc quan "không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Cuộc sống khắc nghiệt đầy đọa con người, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật. Nhung nó không thể dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khắc khổ kia. Đó chính là nét đặc sắc của tư tưởng nhân đạo Kim Lân.

Phân tích chi tiếtVợ nhặt
c] Đánh giá: Cùng viết về người phụ nữ, Tô Hoài và Kim Lân gặp gỡ nhau ờ sự nắm bắt rất rõ tâm lý nhân vật cũng như chiều sâu tư tương nhân đạo mói mè, với
tấm lòng yêu thương và đồng cảm với số phận người phụ nữ. Nhưng ở mỗi tác phẩm cũng có nét riêng.
- Viết về "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài không chỉ phản ánh chân thực số phận khổ đau của người phụ nữ, ông còn phát hiện và miêu tả sức sống tiềm tàng trong Mị, từ đó thể hiện một khả năng nắm bắt mới đối với hiện thực đời sống của người lao động trong xã hội cũ. Nhà văn không chỉ còn thấy con người là nạn nhân đau khổ của chế độ xã hội tàn bạo mà còn thấy ở họ sức mạnh và khả năng làm chủ cuộc sống của chính mình. Đó là một thực tế không thể phủ nhận và đã được chứng minh bằng quá trình đấu tranh cách mạng của cả dân tộc, đất nước trong những năm tháng đó. về nghệ thuật, nhà văn đã thể hiện biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật qua giọng điệu trữ tình và ngôn ngữ giản dị, phong phú, sáng tạo, giàu chất thơ, chất tạo hình, gợi cảm.
- Viết về "Vợ nhặt", Kim Lân không chỉ dừng lại ở việc phản ánh chân thực nạn đói khủng khiếp năm 1945, mà tiến lên một bước nữa nhằm khắc họa nét đẹp tâm hồn người lao động, đặc biệt là người phụ nữ. Dù rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, dù kề bên cái chết, họ vẫn hướng về cuộc sống gia đình, hạnh phúc tình yêu với một niềm tin bất diệt, Chọn tình huống “Vợ nhặt” do nạn đói rùng rợn gây nên, Kim Lân không nhằm miêu tả sự sụt giá, tha hóa con người, trái lại nhà văn còn khẳng định khát khao sống và phẩm giá của họ. Tình yêu cuộc sống của những con người nằm bên bờ vực cái chết đã trở thành nguồn sáng, nguồn ấm áp sưởi ấm lòng người, thôi thúc họ đi cứu lấy đời mình, về nghệ thuật, nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật.

3.Kết bài:
Qua việc miêu tả chân thực và rõ nét số phận khổ đau của các nhân vật phụ nữ và phát hiện ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn họ, các tác giả đã đề cập đến các vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa muôn đời của văn học. Đó là vấn đề phấn đấu cho con người được sống trong tự do, hạnh phúc, tình yêu, gia đình.

Trên đây là gợi ý cách làm bài thi môn Ngữ Văn THPT Quốc gia năm 2017 về tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài với "Vợ nhặt" của Kim Lân, cùng với phần đọc hiểu đảm bảo chuẩn cấu trúc đề thi. Thấy hay thì đừng ngại ngần mà nhanh chóng chia sẻ nhé!

Tags thpt quốc gia Vợ nhặt Vợ chồng A Phủ Tô Hoài kim lân so sánh hai tác phẩm văn học thpt quốc gia thử 2017

Bài trước Bài sau


I. Dàn ý Phân tích Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt để thấy được số phận và vẻ đẹp của người lao động

1. Mở bài

- Sơ lược về hai tác giả Tô Hoài và Kim Lân:
+ Tô Hoài là nhà văn lớn có số lượng tác phẩm kỷ lục trong nền văn học Việt Nam. Viết về chủ đề người lao động tiêu biểu nhất của Tô Hoài phải kể đến tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
+ Kim Lân được mệnh danh là một trong số những bút viết về người nông dân Việt Nam sau cách mạng xuất sắc nhất, Vợ nhặt là tác phẩm ấn tượng với số phận và vẻ đẹp của người nông dân thông qua một cốt truyện độc đáo và kỳ lạ hơn cả.
+ Tuy đều viết về người nông dân, nhưng hai tác giả có lối viết, cách xây dựng cốt truyện với điểm nhấn khác nhau, mà cốt chung nhất vẫn là vẻ đẹp và số phận của người nông dân.

b. Thân bài

* Những nét về số phận người lao động trong hai tác phẩm:
- Vợ chồng A Phủ:
+ Nhân vật Mị: Là phận con dâu gạt nợ, sống như kẻ ở trong nhà, bị bóc lột sức lao động, tê liệt khả năng phản kháng, cuộc sống lao động không nghỉ ngơi, tù túng, nhiều lần có ý định chết nhưng không thành...[Còn tiếp]

>>Dàn ý Phân tíchVợ chồng A Phủ và Vợ nhặt để thấy được số phận và vẻ đẹp của người lao động đầy đủ tại đây.

Video liên quan

Chủ Đề