So sánh khổ 4 bài mùa xuân nho nhỏ và khổ cuối bài Viếng lăng Bác

I. MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả:

+ Thanh Hải [1930 – 1980] tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì chống Mĩ cứu nước, Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động và là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.

+ Viễn Phương [1928 – 2005], tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.

– Giới thiệu tác phẩm:

+ Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện niềm yêu mến thiết tha cuộc sống, đất nước và ước nguyện của tác giả.

+ Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác trong dịp đó và in trong tập thơ Như mây mùa xuân [1978].

– Khổ 4 bài “Viếng lăng Bác”: diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác.

– Khổ 4,5 bài “Mùa xuân nho nhỏ”: lời tâm niệm chân thành, tha thiết được cống hiến phần tinh túy nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở.

– Trích dẫn các khổ thơ:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đỏa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này “.

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc. ”

II. THÂN BÀI

1. Ước nguyện cống hiến ở khổ 4 bài thơ “Viếng lăng Bác”

– Nghệ thuật: hình ảnh chứa chan cảm xúc “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”, điệp ngữ “muốn làm”.

– Nội dung: diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác. Nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam, và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cành vật ở bên lăng Bác: muốn làm con chim cất tiếng hót, muốn làm bông hoa tỏa hương, và hơn hết, muốn làm “cây tre trung hiếu” nhập vào cùng hàng tre bát ngát bên lăng Bác. Với những ước nguyện cống hiến chân thành của Viễn Plurơng đã cho thấy tình cảm mà tác giả dành cho Bác Hồ kính yêu thật sâu sắc và đầy cảm động.

2. Ước nguyện cống hiến ở khổ 4,5 bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

– Nghệ thuật: điệp ngữ “ta làm” “dù là”, liệt kê những hình ảnh đẹp của thiên nhiên “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm”.

– Nội dung:

+ Đó là khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh tự nhiên, giản dị và đẹp. Đẹp và tự nhiên vì nhà thơ đã dùng nhũng hình ảnh đẹp của thiên nhiên để nói lên ước nguyện của mình. Niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên như con chim mang đến tiếng hót, bông hoa tỏa hương sắc cho đời. Cái hay và sâu sắc của những vần thơ Thanh Hải đó là đề cập một vấn đề lớn của nhân sinh quan – vấn đề ý nghĩa của đời sống cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng – một cách tha thiết, nhỏ nhẹ như điều tâm niệm chân thành của nhà thơ, được thể hiện qua những hình tượng đơn sơ mà chứa đựng nhiều xúc cảm.

+ Hòa chung với những hình ảnh đơn sơ, giản dị mà đẹp đẽ đó là hình ảnh mùa xuân nho nhỏ. Tất cả đều mang vẻ đẹp giàn dị, đầy chân thành và tha thiết của nhà thơ. Mỗi người phải mang đến cho cuộc đời chung một nét riêng, cái phần tinh túy cùa mình, dù nhỏ bé, góp vào cuộc đời chung.

3. Điểm giống và khác nhau

a. Điểm giống:

– Về nội dung, xét về mặt cơ bản, cả hai đoạn thơ đều nói về ước nguyện sống đẹp, sống cống hiến của tác giả và của tất cả mọi người. Hon nữa, chúng đều xuất phát từ những cảm xúc chân thành nhất của các tác giả và tình yêu của họ đối với cuộc sống, đất nước với vị lãnh tụ kính yêu.

– Về nghệ thuật, cả hai tác giả đã sử dụng những hình ảnh mộc mạc, giản dị trong thiên nhiên và nâng chúng lên thành những khát vọng cống hiến cao đẹp. Không chỉ thế, cả hai đoạn thơ còn sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ mới mẻ, sáng tạo độc đáo, làm chúng trở nên thật lôi cuốn, gây nhiều cảm xúc cho ngưòi đọc.

b. Điểm khác:

– Về nội dung, sự khác nhau ấy chính là cảm hứng, hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Thanh Hải đã sáng tác “Mùa xuân nho nhỏ” lúc đang lâm bệnh, không còn sống được lâu nữa nhưng vẫn rất muốn cống hiến một thứ gì đó cho đời. Còn bài “Viếng lăng Bác” được Viễn Phương sáng tác sau khi vào Hà Nội thăm lăng Bác, thể hiện cảm xúc, tâm tư của ông sau chuyến đi ấy.

– Về nghệ thuật, khổ bốn, năm “Mùa xuân nho nhỏ” được viết theo thể thơ năm chữ, giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, tâm tình, bộc lộ tấm chân tình của tác giả trong khi khổ bốn của “Viếng lăng Bác” được viết theo thể thơ tám chữ, giọng thơ trang nghiêm, thành kính, nhịp thơ dồn dập gây cho người đọc nhiều cảm xúc về Bác Hồ.

III. KẾT BÀI

– Hai thi phẩm, hai tác giả nhưng chung một suy nghĩ, chung một ước nguyện.

– Riêng bản thân tôi vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng sê luôn nuôi dưỡng trong lòng mình những đức tính tốt, trui rèn đạo đức, kiến thức để mai sau có thể xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, vững mạnh.

BÀI VĂN THAM KHẢO

BÀI VĂN 1

Trong văn học hiện đại, có rất nhiều nhà văn, nhà thơ đã thể hiện mong muốn được cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước thông qua các tác phẩm của mình. Trong số các tác phẩm ấy, có thể nói khổ bốn bài thơ “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương và khổ bốn, năm bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã thể hiện mong muốn ấy một cách độc đáo, sâu sắc nhất. Vậy ta có suy nghĩ gì về ước nguyện cống hiến của hai nhà thơ trong các đoạn thơ ấy?

Ở “Viếng lăng Bác, nếu khổ một miêu tả hàng tre bên lăng Bác, khổ hai miêu tả mặt trời và đoàn người đến viếng lăng Bác, khổ ba miêu tả cảnh Bác nằm trong giấc ngủ bình yên thì khổ bốn thể hiện ước nguyện của tác giả qua việc miêu tả cảnh vật xung quanh lăng:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. ”

Bằng việc liệt kê các hình ảnh chọn lọc “con chim”, “đoá hoa”, “cây tre”, điệp ngữ “Muốn làm” và nhịp thơ nhanh, đoạn thơ đã thể hiện ước nguyện cống hiến của tác giả. Đây là những hình ảnh ẩn dụ đẹp thể hiện ước nguyện của nhà thơ muốn làm “con chim” đem lại niềm vui cho Bác, làm “đoá hoa” điểm tô cho lăng Bác và làm “cây tre” hoà nhập vào hàng tre bát ngát trước lăng Bác. Ở đây ta thấy có sự kết cấu đầu đuôi tương ứng: bài thơ mở ra bằng hình ảnh “hàng tre” và kết thúc bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”. “Cây tre trung hiếu” thể hiện mong muốn của tác giả được “trung với nước, hiếu với dân” như lời Bác dạy. Đây cũng là lời hứa của tác giả trước anh linh của Bác, hứa sẽ luôn giữ phẩm chất, cốt cách người Việt Nam, hứa sẽ sống như Bác và đi tiếp con đường cách mạng của Bác. Tác giả nói lên ước muốn cùa mình, hay phải chăng đã nói hộ ước muốn của tất cả chúng ta?

Còn ở bài “Mùa xuân nho nhỏ”, nếu khổ một miêu tả cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân thiên nhiên xứ Huế, khổ hai, ba nói về cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước thì ở khổ bốn, tác giả đã nói lên ước nguyện chân thành:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến ”

Bằng giọng thơ nhỏ nhẹ, tha thiết, các hình ảnh chọn lọc “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” và điệp ngữ “ta làm”, khổ thơ trên đã thể hiện ước nguyện cống hiến của Thanh Hải. Nhà thơ muốn làm “con chim” để mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người, muốn làm “cành hoa” là muốn đem lại những gì đẹp nhất cho đời, muốn làm “nốt trầm” là muốn hoà nhập với cuộc đời chung, vì cuộc sống là một bản hoà ca mà mỗi người trong đó đều là một nốt nhạc phải sống trong bản hoà ca đó, không thể lỗi nhịp được. Nhưng tác giả chỉ vì mình như một nốt trầm thôi. Nốt trầm ấy tuy nhỏ bé nhưng lại góp phần quan trọng để làm bản hoà ca trở nên du dương, làm xao xuyến lòng người. Tất cả đã thể hiện rằng tác giả muốn sống đẹp, muốn cống hiến những điều tốt đẹp nhất dù là nhỏ bé, sống với tất cả sức sống của mình như con chim cho tiếng hót hay, cành hoa toả hương sắc cho đời. Ta còn thấy ở đây có một sự chuyển đổi ngôi nhân xưng từ “tôi” sang “ta”. Ở khổ một, tác giả dùng đại từ “tôi” để miêu tả cảm xúc riêng của mình, còn ở đây ông dùng đại từ ta với hai nghĩa: nghĩa số ít và nghĩa số nhiều. Điều này chứng tỏ đó không chỉ là ước nguyện riêng của tác giả mà còn là ước nguyện chung của mọi người. Ước nguyện cống hiến ở trên được thể hiện rõ hơn ở khổ năm:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc. ”

Từ láy “nho nhỏ” và điệp ngữ “lặng lẽ” đã thể hiện sự khiêm tốn của tác giả. Động từ “dâng” đã nói lên thái độ tự nguyện, chân thành cống hiến cho đất nước suốt cuộc đời mình. Không chỉ vậy, các hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” đã nói lên rằng dù trẻ hay già thì mọi người đều có thể cống hiến cho đời: Điệp ngữ “dù là” như muốn thách thức thời gian, tuổi già và bệnh tật. Biết rằng tác giả đang nằm trên giường bệnh khi sáng tác bài thơ này và thấy được thái độ lạc quan, những khát vọng của ông; ta cảm thấy ông thật đáng quý, đáng khâm phục biết bao.

Sự cảm nhận trên đã cho ta thấy ở các đoạn thơ có một số sự tương đồng về nội dung và nghệ thuật, về nội dung, xét về mặt cơ bản, cả hai đoạn thơ đều nói về ước nguyện sống đẹp, sống cống hiến của tác giả và của tất cả mọi người. Hơn nữa, chúng đều xuất phát từ những cảm xúc chân thành nhất của các tác giả và tình yêu của họ đối với cuộc sống, đất nước với vị lãnh tụ kính yêu. về nghệ thuật, cả hai tác giả đã sử dụng những hình ảnh mộc mạc, giản dị trong thiên nhiên và nâng chúng lên thành những khát vọng cống hiến cao đẹp. Không chỉ thế, cả hai đoạn thơ còn sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ mới mẻ, sáng tạo độc đáo, làm chúng trở nên thật lôi cuốn, gây nhiều cảm xúc cho người đọc.
Tuy nhiên, hai đoạn thơ cũng có sự khác nhau về nội dung và nghệ thuật, về nội dung, sự khác nhau ấy chính là cảm hứng, hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Thanh Hải đã sáng tác “Mùa xuân nho nhỏ” lúc đang lâm bệnh, không còn sống được lâu nữa nhưng vẫn rất muốn cống hiến một thứ gì đó cho đời. Còn bài “Viếng lăng Bác” được Viễn Phương sáng tác sau khi vào Hà Nội thăm lăng Bác, thể hiện cảm xúc, tâm tư của ông sau chuyến đi ấy. Về nghệ thuật, khổ bốn, năm “Mùa xuân nho nhỏ” được viết theo thể thơ năm chữ, giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, tâm tình, bộc lộ tấm chân tình của tác giả trong khi khổ bốn của “Viếng lăng Bác” được viết theo thể thơ tám chữ, giọng thơ trang nghiêm, thành kính, nhịp thơ dồn dập gây cho người đọc nhiều cảm xúc về Bác Hồ.
Với tất cả những sự giống nhau và khác nhau đó, mỗi đoạn thơ đều có những âm hưởng riêng, phong cách riêng đã đem lại cái hay, cái đặc sắc riêng của từng bài khiến cho ta vô cùng xúc động trước ước nguyện cống hiến của tác giả và lối sống đẹp đẽ, đầy trách nhiệm của họ, và cũng là lối sống của con người Việt Nam, như Tố Hữu đã từng viết:

“Nếu là con chim, chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình ”

Là học sinh, sau khi hiểu được các đoạn thơ trên, tôi sẽ cố gắng rèn luyện cho mình lối sống đẹp và có trách nhiệm, cố gắng cống hiến những gì tốt đẹp nhất của mình cho quê hương, đất nước.

[Bài làm của HS]

BÀI VĂN 2

Như chúng ta đã biết có rất nhiều nhà văn, nhà thơ đã viết về ước nguyên cống hiến cho cuộc đời. Thế nhưng, có lẽ chưa có ai viết một cách thật chân tình, thân thương như trong khổ bốn bài thơ “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đỏa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này “.

Và khổ bốn và năm trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của thi sĩ Thanh Hải:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc. ”

Qua hai tác phẩm trên, ta có suy nghĩ gì về ước nguyện cống hiến của các tác giả? Ở đầu khổ thơ bốn trong bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã mở đầu bằng: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt ”

Nếu ở khổ thơ thứ nhất nói về hình ảnh hàng tre xanh xanh quen thuộc của làng quê Việt Nam, ở khổ thơ thứ hai nói về hình ảnh mặt trời cùng dòng người đi vào lăng viếng Bác thể hiện niềm tôn kính của nhà thơ và cũng là của mọi người đối với Bác, ở khổ thơ thứ ba thì nói về tâm trạng và sự xúc động khi ở trong lăng Bác thì đến khổ thơ thứ tư này, nhà thơ đã bộc lộ rõ nét nhất về tình cảm của mình khi phải rời xa lăng Bác để trở về với những công việc của mình. Qua cụm từ “thương trào nước mắt”, tác giả dường như khóc rất nhiều khi phải nói lời chia tay với Bác và sau đó nhà thơ đã nêu:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đỏa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này “

Điệp ngữ “muốn làm” kết hợp với nghệ thuật liệt kê, những chi tiết gợi tả “con chim, đóa hoa, cây tre” vói nhịp thơ dồn dập đã nói lên ước nguyện của nhà thơ Viễn Phương muốn hóa thân vào cảnh vật quanh lăng Bác. Tác giả muốn làm con chim hót ru Bác ngủ, muốn làm đóa hoa tỏa hương bát ngát, muốn làm cây tre canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Kết cấu đầu, cuối tương ứng thật độc đáo và khéo léo, bài thơ mở ra hình ảnh hàng tre xanh xanh Việt Nam và kết lại bằng hình ảnh “‘cây tre trung hiếu”. Nếu hàng tre là đại diện cho dân tộc Việt Nam thì cây tre trung hiếu đại diện cho nhà thơ. Tác giả muốn làm một công dân trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh bại. Và tác giả muốn đi theo con đường cách mạng làm theo lời Bác. Đó cũng là ước nguyện của toàn nhân dân ta. Sang đến đoạn thơ thứ hai, khố bốn, năm trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của thi sĩ Thanh Hải, ông đã viết:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc. ”

Nếu ở khổ một là bức tranh thiên nhiên của mùa xuân xứ Huế, ở khổ hai và khổ ba là mùa xuân thiên nhiên của đất nước thì đến đây là ước nguyện cống hiến của nhà thơ:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Với những dòng thơ như tâm tình, thủ thỉ, kết hợp với điệp ngữ “ta làm” đã thể hiện được ước nguyện của nhà thơ. Dù lặp lại hai hình ảnh “con chim, cành hoa” ở khổ một để tạo kết cấu chặt chẽ trong bài thơ nhưng ở khổ một lại là hình ảnh của thiên nhiên thì ở đây được nâng lên là hai hình ảnh ẩn dụ nói lên ước nguyện của nhà thơ. Nếu con chim mang tiếng hát cho đời thêm vui, cành hoa tỏa hương sắc làm đẹp cho đời thì nhà thơ cũng nguyện đem những gì tốt đẹp nhất cho đời. Tác giả còn muốn làm “một nốt trầm xao xuyến”. “Nốt trầm” là nốt thấp trong một bản nhạc nhưng sự hiện diện của nó góp phần làm tăng bậc cao của những nốt còn lại, tạo sự luyến láy làm cho bản đại hòa tấu thêm rộn ràng, tươi vui. Nếu ở khổ đầu tác giả sử dụng đại từ “tôi” nghĩa là chỉ mình ông cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên thì đến đây ông dùng đại từ “ta” vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều nghĩa là không phải chỉ ước nguyện của riêng nhà thơ mà là của toàn dân Việt Nam. Sự hài hòa giữa “tôi” và “ta”, sự gắn bó giữa cái chung và cái riêng.
Và sang khổ thơ thứ năm, nhà thơ lại tiếp tục nói về ước nguyện cống hiến của mình:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc. ”

Nhiều nhà thơ dùng nhiều định ngữ mùa xuân: mùa xuân xanh, mùa xuân chín, xuân lòng…Nhưng “mùa xuân nho nhỏ” là một hình ảnh ẩn dụ, sáng tạo độc đáo, một phát hiện mới của Thanh Hải. Nếu mùa xuân mang đến những thay đổi kì diệu cho đất nước thì nhà thơ cũng nguyện làm mùa xuân sống đẹp, sống với tất cả nhựa sống đang có để góp vào mùa xuân lớn của dân tộc, của cuộc đời chung. Từ láy gợi cảm “lặng lẽ” được đảo lên đầu câu thơ kết hợp từ “dâng” gợi cảm đã thể hiện sự âm thầm không phô trương, nói lên một thái độ cống hiến, một cách cống hiến rất riêng Thanh Hải. Điệp ngữ “dù là” kết hợp hai hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi” và “tóc bạc” đã thể hiện được ước nguyện cống hiến của nhà thơ dù đó là tuổi trẻ đầy thanh xuân hay dù cho đã luống tuổi.

Qua phần phân tích trên, ta cảm nhận ở hai thi phẩm có những nét chung về nội dung và nghệ thuật. Xét về cơ bản, cả hai tác phẩm đều thể hiện ước nguyện sống và cống hiến cao đẹp, mang lại cho đời những gì tốt đẹp nhất và đặc biệt ở hai tác giả, ta thấy những cảm xúc đó đều xuất phát từ tình cảm chân thành yêu cuộc sống, yêu đất nước dạt dào. Còn về mặt nghệ thuật, cả hai bài thơ đều mượn những hình ảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và giàu ý nghĩa.

Tóm lại, hai thi phẩm, hai tác giả nhưng chung một suy nghĩ, chung một ước nguyện. Những điều đó thật đáng cho chúng ta – những thế hệ sau này – trân trọng. Riêng bản thân tôi vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng sẽ luôn nuôi dưỡng trong lòng mình những đức tính tốt, trui rèn đạo đức, kiến thức để mai sau có thể xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, vững mạnh.

[Bài làm của HS]

Related

Tags:"Viếng lăng Bác" · Đề 81 · Mùa xuân nho nhỏ · Ước nguyện cống hiến

Video liên quan

Chủ Đề