So sánh các nền văn minh cổ đại

Tải miễn phí [h1:21x8sqwb]So sánh nền văn minh phương Đông cổ đại và phương Tây cổ đại [Tiểu luận 9 điểm][/h1:21x8sqwb]Trong buổi bình minh của lịch sử, các dân tộc phương Đông và phương tây đã sáng tạo nên nhiều thành tựu văn hoá rực rỡ mà ngày nay chúng ta vẫn đang được thừa hưởng.Những thành tựu rực rỡ của văn minh cổ đại được ghi vào lịch sử nhân loại như những ánh hào quang rực rỡ nhất. những giá trị của văn minh thời kì cổ đại đã đặt một nền tảng khá vững chắc cho văn minh phương đông, phương tây nói riêng và mang đến cho nền văn hóa thế giới nói chung những thành tựu bất hủ mọi thời đại. Giá trị và tầm ảnh hưởng của nền văn minh cổ đại được khẳng định và thừa nhận, xét cho cùng chính là những giá trị có tầm ảnh hưởng đến thời đại ngày nay.


Phần 1. Về điều kiện hình thành nền văn minh phương Tây và phương Đông cổ đại


1.1. Điều kiện hình thành nền văn minh phương Đông cổ đạiLoài người ra đời cách đây hàng triệu năm, và từ đó loài người đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Nhưng mãi đến cuối thiên kỉ IV TCN, xã hội nguyên thủy bắt đầu tan rã ở Ai Cập, nhà nước bắt đầu ra đời, từ đó loài người mới bắt đầu bước vào thời kì văn minh.Trong thời cổ đại, tức là từ cuối thiên kỉ IV, đầu thiên kỉ III TCN, đến những thế kỉ trước sau CN, ở phương Đông tức là ở châu Á và ở Đông Bắc châu Phi có bốn trung tâm văn minh lớn, đó là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Có một tình hình chung nổi bật là cả bốn trung tâm văn minh này đều nằm trên những vùng chảy qua của những con sông lớn. Đó là sông Nin ở Ai Cập, sông Ơphrat và sông Tigrơ ở Tây Á, sông Ấn [Indus] và sông Hằng [Gange] ở Ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc. Chính nhờ sự bồi đắp của những dòng sông lớn ấy nên đất đai ở những nơi này trở nên màu mỡ, nông nghiệp có điều kiện phát triển trong hoàn cảnh nông cụ còn thô sơ, dẫn đến sự xuất hiện sớm của nhà nước, do đó cư dân ở đây sớm bước vào xã hội văn minh, và hơn thế nữa đã sáng tạo nên những nền văn minh vô cùng rực rỡ.Xã hội có giai cấp và nhà nước đã xuất hiện đầu tiên ở phương Đông, trên lưu vực các dòng sông lớn ở châu Phi và châu Á như sông Nin ở Ai Cập, sông Ơ-phơ-rát và Ti-gơ-rơ ở Lưỡng Hà, sông Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ, Hoàng Hà ở Trung Quốc v.v Ở đây có những điều kiện thiên nhiên rất thuận lợi cho đời sống của con người.Những nơi này có nhiều đất canh tác, có mưa đều đặn theo mùa, có khí hậu nóng ẩm [trừ Trung Quốc nhưng cũng không lạnh như ngày nay], dân cư sống tập trung khá đông theo từng bộ lạc, trên các thềm đất cao gần sông, dễ trồng vườn, trồng lúa và chăn nuôi.Khoảng 3500 năm đến 2000 năm trước công nguyên, cư dân ở Tây Á, Ai Cập và cư dân ở lưu vực các sông còn lại đã sinh sống trên đồng bằng ở ven các con sông. Họ sống bằng nghê nông là chủ yếu và biết trồng mỗi năm hai vụ. Đồng bằng ven sông đã bù đắp rất nhiều cho con người. Vào mùa mưa hàng năm, nước sông dâng cao, phủ lên các chân ruộng thấp một lớp phù sa màu mỡ và làm cho đất rất mềm, dễ làm với cả những chiếc cày bằng gỗ.Cư dân phương Đông sống bằng nghề nông là chủ yếu nên trước tiên họ phải lo đến công tác thuỷ lợi. Họ đã biết đào các hệ thống kênh, lập hệ thống gầu để múc nước ở chân ruộng thấp và đưa nước lên chân ruộng cao những khi cần. Ngoài ra, họ còn biết đắp đê để ngăn lũ nhờ thế con người có thể thu hoạch lúa ổn định hằng năm. Công việc trị thuỷ khiến moi người gắn bó và ràng buộc với nhau trong tổ chức công xã.

1.2. Điều kiện hình thành nền văn minh phương Tây cổ đại1.2.1. Hi Lạp cổ đạiHi Lạp cổ đại nằm ở phái Nam bán đảo Balkans, giống như cái đinh ba của thần biển từ đất liền vươn ra địa Trung Hải. Thế kỉ IX TCN, người Hi Lạp gọi tên nước mình là Hellad hay Ellad dựa theo tên tộc người của họ. Qua phiên âm từ Trung Quốc, ta gọi là Hi Lạp.

các bạn tải tại link nàyXem link download tại Blog Kết nối!

pass: Ket-noi.com

các đặc điểm chung của các nền văn minh cổ đại chúng bao gồm các khía cạnh liên quan đến chính trị, cấu trúc xã hội, kinh tế và văn hóa.

Từ văn minh dùng để chỉ các xã hội loài người với cấu trúc phức tạp, được nhóm lại trong các thành phố.

Hầu hết các nền văn minh sơ khai, hoặc các nền văn minh cổ đại, đã định cư gần các nguồn thông thường hoặc hàng hải.

Bởi vì họ là mảnh đất màu mỡ, họ được phép phát triển nông nghiệp và họ tạo điều kiện cho việc vận chuyển và trao đổi hàng hóa.

Thung lũng sông Nile ở Ai Cập cổ đại, hòn đảo của đảo Crete ở biển Aegean và sông Euphrates và sông Tigris ở Mesopotamia là cái nôi của một số nền văn minh này.

Đặc điểm chung trong hệ thống chính trị xã hội của các nền văn minh cổ đại

Mặc dù không có hệ thống chính trị chính thức, các nền văn minh cổ đại đã chia sẻ một số ý tưởng xác định tổ chức xã hội của họ.

Quyền lực và sự giàu có tuân theo các cấu trúc kim tự tháp. Các cusp đã bị chiếm đóng bởi một tầng lớp thiểu số. Các cơ sở bao gồm hầu hết dân số.

Do đó, trên đỉnh kim tự tháp là nhà vua và hoàng tộc. Sau đó là các nghệ nhân, thương nhân và quản lý của chính quyền nhà nước. Nhóm lớn nhất được đại diện bởi nông dân.

Mặt khác, họ là những chính phủ thần quyền. Đó là, các nhà lãnh đạo được coi là các nhà lãnh đạo tôn giáo đại diện, hoặc được hướng dẫn bởi, các vị thần.

Nhu cầu chinh phục các lãnh thổ khác và bảo vệ vùng đất của chính họ đã dẫn đến việc thành lập lực lượng quân sự vũ trang.

Đặc điểm chung trong hệ thống kinh tế

Trong kỷ nguyên cổ đại, chủ nghĩa định canh ngày càng phát triển ủng hộ sự phát triển của nông nghiệp và chăn nuôi. Trong nhiều trường hợp, thặng dư lương thực được ưa chuộng, đến lượt nó, thương mại và một số ổn định kinh tế.

Thặng dư thực phẩm cũng cho phép mọi người chuyên về các lĩnh vực khác ngoài nông nghiệp. Nhiều người đã dành riêng cho gốm, đồ trang sức, các hoạt động dệt may, trong số những người khác.

Họ cũng phát triển luyện kim. Nhiều kim loại để tạo ra các vật thể khác nhau bao gồm đồng, bạc, vàng, sắt, thiếc và đồng.

Mặt khác, một hệ thống thuế và cống nạp hoạt động trong các nền văn minh cổ đại. Thuế là một loại hình chuyển giao của cải từ các cá nhân sang nhà nước.

Những cống phẩm phải được trả bởi những chính phủ yếu nhất cho những người quyền lực nhất.

Đặc điểm chung về khía cạnh văn hóa

Các nền văn minh cổ đại có hệ thống chữ viết, một số rất thô sơ. Chúng được phục vụ, chủ yếu, để liên lạc đường dài và lưu giữ hồ sơ.

Tuy nhiên, chỉ những nhóm ưu tú thống trị nghệ thuật viết lách.

Một đặc điểm khác biệt của những nền văn minh sơ khai này là kiến ​​trúc của họ. Nó nhấn mạnh cụ thể việc xây dựng các di tích vĩ đại, làm bằng đá hoặc đất sét.

Nhiều tòa nhà trong số này được xây dựng cho mục đích tôn giáo. Mặc dù những nơi khác phục vụ như một nơi gặp gỡ, không gian thể thao, tổ chức chính phủ, cung điện và các mục đích khác.

Từ các quan sát đến các ngôi sao, họ đã tạo ra lịch âm hoặc mặt trời. Điều này cho phép họ kiểm soát tốt hơn các loại cây trồng.

Bởi vì văn hóa của họ bị ảnh hưởng rất nhiều bởi tôn giáo, họ cũng sử dụng những quan sát này như một hệ thống để thần thánh trong tương lai và để chi phối các hoạt động tôn giáo.

Tài liệu tham khảo

  1. Văn minh [2017, ngày 23 tháng 2]. Bách khoa toàn thư thế giới mới. Lấy từ newworldencyclopedia.org.
  2. Văn minh [2011, ngày 21 tháng 2]. Bách khoa toàn thư địa lý quốc gia. Lấy từ nationalgeographic.org
  3. Khát khao, K. [2017, ngày 02 tháng 7]. Kiến trúc tượng đài cổ - Các loại và đặc điểm
  4. Bản chất công cộng của các tòa nhà lớn. Lấy từ thinkco.com.
  5. Khát khao, K. [2017, ngày 12 tháng 7]. Đặc điểm hàng đầu của nền văn minh cổ đại - Sự phức tạp ở mức tồi tệ nhất của nó. Lấy từ thinkco.com.
  6. Huddleston, L. [2001, tháng 2]. Sự xuất hiện của nền văn minh ở vùng Cận Đông cổ đại. Lấy từ lịch sử.unt.edu.
  7. Olson, R. [2009]. Công nghệ và khoa học trong nền văn minh cổ đại. California: ABC-CLIO
  8. O'Neil D. [2006, ngày 10 tháng 7]. Chánh pháp và các tiểu bang. Được phục hồi từ anthro.palomar.edu.
  9. Dân chủ [2014 tháng 11 năm 2014]. Bách khoa toàn thư Britannica. Phục hồi từ britannica.com
  10. Kích hoạt, B. [2005]. Hiểu về nền văn minh sớm: Một nghiên cứu so sánh. Cambridge: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.

PHẦN MỞ ĐẦULịch sử văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thầncủa xã hội loài người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Loài ngườira đời và đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần cách đây hàngtriệu năm.Ở phương Đông [tức ở Châu Á và Đông Bắc Châu Phi], từ cuối thiên niênkỷ IV - đầu thiên niên kỷ III trước CN, có bốn trung tâm văn minh lớn, đó là AiCập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Cả 4 trung tâm này đều nằm trên lưu vựcnhững con sông lớn như sông Nile ở Ai Cập, sông Euphrates và sông Tigris ởLưỡng Hà, sông Ấn [Indus] và sông Hằng [Gange] ở Ấn Độ, Trường Giang vàHoàng Hà ở Trung Quốc. Nhờ sự bồi đắp của những con sông này nên đất đai ởđây màu mỡ, rất thuận lợi cho nền nông nghiệp xuất hiện và phát triển và hơn thếnữa là sáng tạo những thành tựu văn minh rực rỡ. Phương Đông cũng là cái nôi củavăn minh nhân loại, nơi mà lần đầu tiên con người đã biết sáng tạo ra chữ viết, vănhọc, nghệ thuật và nhiều tri thức khoa học khácỞ phương Tây xuất hiện nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Tuy muộn hơnphương Đông [từ thiên niên kỷ III đến thiên niên kỷ II trước CN] nhưng Hy Lạp đãđạt được những thành tựu to lớn. Đến thế kỷ VI TCN, nhà nước La Mã bắt đầuxuất hiện. Kế thừa và phát huy văn minh Hy Lạp, La Mã trở thành một trung tâmvăn minh lớn ở phương Tây. La Mã chinh phục Hy Lạp [thế kỷ II TCN] và tiếp đóchinh phục các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp ở phương Đông, trở thành đếquốc rộng lớn, hùng mạnh. Văn minh La Mã vốn chịu ảnh hưởng của văn minh HyLạp, vốn có cùng một phong cách, giờ đây lại hòa đồng và tiếp biến với nó, nênngười ta gọi chung hai nền văn minh này là văn minh Hy - La. Những thành tựurực rỡ của văn minh Hi-La cổ đại được ghi vào lịch sử nhân loại như những ánhhào quang rực rỡ nhất. đã đặt một nền tảng khá vững chắc cho văn minh châu Âunói riêng và mang đến cho nền văn hóa thế giới nói chung những thành tựu bất hủmọi thời đại. Giá trị và tầm ảnh hưởng của văn minh phương Tây cổ trung đạiđược khẳng định và thừa nhận xét cho cùng chính là những giá trị có tầm ảnhhưởng đến thời đại ngày nay.Nói đến văn minh Phương Đông không thể không đặt nó trong mối tương quan vớivăn minh Phương Tây. Nếu chỉ nhìn văn minh Phương Đông với riêng nó sẽ thiếutính khách quan, cần đặt Phương Đông trong sự liên hệ với Phương Tây. Giữa 2nền văn minh này có nhiều điểm giống và khác nhau, tìm ra những điểm ấy củavăn minh đông – tây cũng là tìm ra mấu chốt, là chìa khoá để mở ra cánh cửa đóngkín từ lâu của thế giới cổ đại đầy bí ẩn. Với tiểu luận này, tôi xin trình bày một sốđiều mình nghĩ về sự giống và khác nhau giữa các quốc gia cổ đại phương đông,phương tây trong thế giới cổ đại.PHẦN NỘI DUNG1. Điều kiện hình thành nền văn minh phương Tây và phương Đông cổđại1.1. Điều kiện hình thành nền văn minh phương Đông cổ đạiLoài người ra đời cách đây hàng triệu năm, và từ đó loài người đã sáng tạo ranhững giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Nhưng mãi đến cuối thiên kỉ IV TCN,xã hội nguyên thủy bắt đầu tan rã ở Ai Cập, nhà nước bắt đầu ra đời, từ đó loàingười mới bắt đầu bước vào thời kì văn minh.Trong thời cổ đại, tức là từ cuối thiên kỉ IV, đầu thiên kỉ III TCN, đến những thế kỉtrước sau CN, ở phương Đông tức là ở châu Á và ở Đông Bắc châu Phi có bốntrung tâm văn minh lớn, đó là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Có mộttình hình chung nổi bật là cả bốn trung tâm văn minh này đều nằm trên nhữngvùng chảy qua của những con sông lớn. Đó là sông Nin ở Ai Cập, sông Ơphrat vàsông Tigrơ ở Tây Á, sông Ấn [Indus] và sông Hằng [Gange] ở Ấn Độ, Hoàng Hàvà Trường Giang ở Trung Quốc. Chính nhờ sự bồi đắp của những dòng sông lớnấy nên đất đai ở những nơi này trở nên màu mỡ, nông nghiệp có điều kiện pháttriển trong hoàn cảnh nông cụ còn thô sơ, dẫn đến sự xuất hiện sớm của nhà nước,do đó cư dân ở đây sớm bước vào xã hội văn minh, và hơn thế nữa đã sáng tạo nênnhững nền văn minh vô cùng rực rỡ.Xã hội có giai cấp và nhà nước đã xuất hiện đầu tiên ở phương Đông, trên lưu vựccác dòng sông lớn ở châu Phi và châu Á như sông Nin ở Ai Cập, sông Ơ-phơ-rátvà Ti-gơ-rơ ở Lưỡng Hà, sông Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ, Hoàng Hà ở Trung Quốcv.v Ở đây có những điều kiện thiên nhiên rất thuận lợi cho đời sống của con người.Những nơi này có nhiều đất canh tác, có mưa đều đặn theo mùa, có khí hậu nóngẩm [trừ Trung Quốc nhưng cũng không lạnh như ngày nay], dân cư sống tập trungkhá đông theo từng bộ lạc, trên các thềm đất cao gần sông, dễ trồng vườn, trồnglúa và chăn nuôi.Khoảng 3500 năm đến 2000 năm trước công nguyên, cư dân ở Tây Á, Ai Cập vàcư dân ở lưu vực các sông còn lại đã sinh sống trên đồng bằng ở ven các con sông.Họ sống bằng nghê nông là chủ yếu và biết trồng mỗi năm hai vụ. Đồng bằng vensông đã bù đắp rất nhiều cho con người. Vào mùa mưa hàng năm, nước sông dângcao, phủ lên các chân ruộng thấp một lớp phù sa màu mỡ và làm cho đất rất mềm,dễ làm với cả những chiếc cày bằng gỗ.Cư dân phương Đông sống bằng nghề nông là chủ yếu nên trước tiên họ phải lođến công tác thuỷ lợi. Họ đã biết đào các hệ thống kênh, lập hệ thống gầu để múcnước ở chân ruộng thấp và đưa nước lên chân ruộng cao những khi cần. Ngoài ra,họ còn biết đắp đê để ngăn lũ nhờ thế con người có thể thu hoạch lúa ổn định hằngnăm. Công việc trị thuỷ khiến moi người gắn bó và ràng buộc với nhau trong tổchức công xã.1.2. Điều kiện hình thành nền văn minh phương Tây cổ đại1.2.1. Hi Lạp cổ đạiHi Lạp cổ đại nằm ở phái Nam bán đảo Balkans, giống như cái đinh ba của thầnbiển từ đất liền vươn ra địa Trung Hải. Thế kỉ IX TCN, người Hi Lạp gọi tên nướcmình là Hellad hay Ellad dựa theo tên tộc người của họ. Qua phiên âm từ TrungQuốc, ta gọi là Hi Lạp.Đất đai Hi Lạp cổ đại bao gồm Hi Lạp ngày nay, các đảo trong biển Aegean tớiphía Tây Tiểu Á, và phía Bắc của Bắc Hải, nhưng vùng quan trọng nhất là vùnglục địa Hi Lạp ở phía Nam Balkans. Lục địa Hi Lạp gồm 3 phần: miền Bắc là vùngđồng bằng rộng lớn và quan trọng nhất Hi Lạp; miền Trung ngăn cách với phía bắcbởi đèo Thermopil hiểm trở, nơi đây có 2 đồng bằng lớn là Attique và Beotie trùphú với thành thị Athens nổi tiếng; miền Nam là bán đảo Peloponesus như hìnhbàn tay bốn ngón xòe ra Địa Trung Hải – đây là nơi xuất hiện nhà nước thành bangđầu tiên của Hi Lạp – nhà nước Sparta.Mặc dù có nhiều đồng bằng rộng lớn nhưng nhìn chung đất đai Hi Lạp không phìnhiêu lắm, chủ yếu trồng nho, ô liu và phát triển các nghề thủ công, còn lương thựcchính là lúa mì phần lớn được nhập từ Ai Cập.Địa hình Hi Lạp tương đối trở ngại về giao thông đường bộ nhưng có sự thuận lợituyệt vời với con đường giao thông trên biển, bờ biển có nhiều cảng, vịnh, thuậnlợi cho tàu bè hoạt động. Từ đây, người Hi Lạp dễ dàng tới vùng Tiểu Á, Bắc Hảiđể giao thương.Nằm giữa vùng tiếp giáp giữa 3 châu, Hi Lạp sớm tiếp thu những thành tựu củanền văn minh phương Đông cổ đại và tạo ra một nền văn minh Hi Lạp cổ đại độcđáo và rực rỡ, với những thành tựu tuyệt vời đóng góp cho sự phát triển của vănminh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.1.2.2. La Mã cổ đạiNơi phát sinh quốc gia La Mã cổ đại là bán đảo Ý – một dải đất dài và hẹp nhưchiếc hia duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải với diện tích lớn gấp 5 lần bán đảo HiLạp. Phía Bắc có dãy núi Apels như một bức tường thành tự nhiên ngăn cách bánđảo với lục địa châu Âu; ba phía Đông, Tây, Nam đều có biển bao bọc. Dãy núiApennines như một chiếc xương sống chạy dọc bán đảo từ Tây Bắc xuống ĐôngNam.Khác với Hi Lạp, điều kiện tự nhiên của La Mã tương đối thuận lợi hơn. Nơi đâycó nhiều đồng bằng rộng lớn, màu mỡ và phì nhiêu: đồng bằng sông Pô [miềnBắc], đồng bằng sông Tibrơ [miền Trung], các đồng bằng trên đảo Xixin. Ở miềnNam còn có nhiều đồng cỏ rộng lớn thuận tiện cho việc phát triển nghề nông vàchăn nuôi gia súc. Ở phía Tây và Nam, bờ biển có nhiều cảng, tàu bè ra vào dễdàng, thuận lợi cho giao thông và buôn bán. Tóm lạiVăn minh phương Tây cổ đại mà nền tảng là 2 nền văn minh của Hi Lạp và La Mãđã hình thành và phát triển trên cơ sở điều kiện tự nhiên của những cư dân gốc dumục. Khác với các quốc gia cổ đại phương Đông, nền văn minh chủ yếu được hìnhthành trên những khu vực gần các con sông lớn, thuận lợi cho sự phát triển nôngnghiệp, văn minh phương Tây cổ đại hình thành và phát triển trên những khu vựcđiều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt và phức tạp hơn. Điều kiện tự nhiên đótuy khó khăn cho sự phát triển của nông nghiệp, nhưng bù lại nền văn minhphương Tây có được sự trợ giúp tuyệt vời của biển đảo. Những con đường giaothương trên biển, hải cảng, tàu bè không chỉ tạo điều kiện phát triển trong mốiquốc gia mà còn thúc đẩy sự giao lưu, buôn bán giữa các nước, mang những thànhtựu văn hóa, văn minh phương Tây truyền bá khắp nơi trên thế giới. Sự phát triểnvề kinh tế, đặc biệt là kinh tế thương nghiệp hàng hải đã tạo ra một nền kinh tếgiàu mạnh cho các quốc gia phương Tây cổ đại, đặc biệt là sự phát triển cực thịnhcủa chế độ chiếm nô. Phương thức sản xuất chiếm nô thời bấy giờ đạt đến mứchoàn chỉnh và cao nhất của nó trong xã hội phương Tây cổ đại. Chính sự phát triểncủa chế độ chiếm nô đã tạo điều kiện cho sự sáng tạo ra những giá trị vật chất vàtinh thần của nền văn minh phương Tây. Sự giàu mạnh về kinh tế cùng với nhữngcon đường giao thông trên biển là những nguyên nhân quan trọng đã thúc đẩy quátrình bành trướng của các quốc gia được mệnh danh là đế quốc cổ đại: Hi Lạp vàLa Mã.Như vậy, điều kiện tự nhiên của Hi Lạp và La Mã không chỉ là nền tảng, cơ sở tạora nền văn minh phương Tây cổ đại với nhiều thành tựu rực rỡ mà điều kiện tựnhiên cũng là một yếu tố cực kỳ quan trọng đã mang nền văn minh phương Tây cổđại truyền bá khắp thế giới dù bằng nhiều con đường khác nhau: hòa bình hoặcchiến tranh.2. So sánh nền văn minh phương đông cổ đại và phương tây cổ đại về kinh tếCác quốc gia cổ đại phương đông và phương tây có sự giống và khác nhau về cácđặc điểm kinh tế.- Kinh tế của họ phát triển đến thời cổ đại đều đã kinh qua nền sản xuất nguyênthuỷ, công xã thị tộc. Hay nói cách khác sự tan rã của nền kinh tế nguyên thuỷ làtiền đề để hình thành nền kinh tế cổ đại ở cả các quốc gia phương đông và phươngtây.Vì đều trải qua nền sản xuất nguyên thuỷ nên họ đều có những điểm giốngnhau, đều trải qua mô hình sản xuất công xã thị tộc, công xã nông thôn, đều có nềnkinh tế đi lên từ nông nghiệp-Kinh tế của họ phát triển đều dựa vào điều kiện tự nhiên, phát huy thế mạnh mà tựnhiên ban tặng cũng như hạn chế đến mức tối đa các khó khăn từ điều kiện tựnhiên gây ra với kinh tế: ở phương đông là tận dụng lương mưa và đất phù sa đểphát triển nông nghiệp, hạn chế hậu quả do lũ lụt gây ra, ở phương tây là phát huythế mạnh về hàng hải và thủ công nghiệp, hạn chế khó khăn do thiếu hụt lươngthực gây ra[ở phương tây, đất đai không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nênphải dựa vào thương nghiệp để mua lương thực cho những năm mất mùa]- Ở cả các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây các ngành kinh tế nôngnghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp đều đã có đủ sự khác nhau chỉ ở chỗ họlấy nghành kinh tế nào là mũi nhọn để phát triển mà thôi.Ở phương Đông đặc trưng kinh tế của họ là nền kinh tế nông nghiệp mang tínhchất tự cấp,tự túc.Kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp có tồn tại nhưngkhông có điều kiện phát triển, được coi như nghề phụ trong những lúc nôngnhàn.Trái lại các quốc gia cổ đại phương tây nền kinh tế chủ yếu của họ là thủcông nghiệp và thương nghiệp.Đây là nơi hình thành và phát triển nền kinh tế hànghoá cổ đại.Sau đây ta sẽ đi rõ vào chi tiết từng ngành sản xuất để thấy rõ hơn sựkhác biệt trên2.1.Trong nông nghiệp:2.1.1.Ở các quốc gia cổ đại phương đông: nông nghiệp trồng lúa nước là ngànhkinh tế chủ yếu, là cơ sở kinh tế của tất cả các quốc gia cổ đại phương đông. Bêncạnh việc lấy nghề nông làm gốc, cư dân phương đông thời cổ đã biết chăn nuôigia súc như: bò, cừu, lợn , và biết trồng các loại ngũ cốc khác nhau như: ngô, lúamạch, kê, vừng và các loại cây ăn quả khác. Chính vì các nghành nông nghiệp pháttriển theo hướng tự túc, tự cấp như vậy nên kinh tế hàng hoá không phát triển, nhucầu trao đổi buôn bán hàng hoá ít. Lối sản xuất này của họ đã gần như bóp nghẹtkinh tế công thương nghiệp và tạo ra sự trì trệ tương đối nhưng vì 3 trong 4 quốcgia cổ đại phương đông nằm biệt lập với thế giới bên ngoài nên nền kinh tế tự túc,tự cấp là phù hợp với điều kiện phát triển của họ. Chỉ có Lưỡng Hà nằm ở nơi địahình bằng phẳng nên phát triển hơi khác về kinh tế họ phát triển công thươngnghiệp và là một trung tâm thương nghiệp lớn trong thế giới cổ đại họ có nhiều nétgiống các quốc gia cổ đại phương tây nhưng về bản chất họ vẫn lấy nghề nông làmgốc điều này thể hiện rất rõ qua bộ luật Hammurabi bộ luật thành văn đầu tiên củathế giới bộ luật này chủ yếu bảo vệ nông nghiệp và quan hệ sản xuất nông nghiệp.1.2:Ở các quốc gia cổ đại phương tây nền kinh tế nông nghiệp không phát triểnnhư các quốc gia cổ đaị phương đông. Nền nông nghiệp của họ chủ yếu gắn với thịtrường và phục vụ nhu cầu của thị trường. Cây trồng chính của họ không phải làcây lúa nước họ chủ yếu trồng lúa mì và các cây công nghiệp lâu năm như nho, ôliu Như vậy ta có thể thấy nền nông nghiệp của họ không chỉ để phục vụ nhu cầucá nhân mà còn phục vụ nhu cầu của thị trường. Từ đó ta có thể thấy rõ sự pháttriển của yếu tố thị trường trong sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là sự khác nhaucơ bản của sản xuất nông nghiệp phương đông và phương tây.2.2. Trong thủ công nghiệp2.1.2:Ở các quốc gia phương đông họ đã biết làm nhiều nghề thủ công với nhữngdấu ấn riêng ở mỗi quốc gia như: đồ gốm sứ ở Trung Quốc, Lưỡng Hà, dệt ở TrungQuốc, làm giấy ở Ai Cập nhưng kinh tế thủ công nghiệp ở đây vẫn bị cho là nềnkinh tế bổ trợ cho nông nghiệp. Vì vậy độ chuyên môn hoá trong sản xuất thủ côngnghiệp chưa cao. Ở nhiều nơi nghề thủ công chỉ được coi như “nghề phụ” là việclàm thêm trong lúc nông nhàn. Điều này càng cho thấy rõ tính chất tự cấp, tự túctrong nền nông nghiệp của các quốc gia cổ đại phương đông.2.1.2. Trong khi đó các quốc gia cổ đại phương tây lại có nền sản xuất thủ côngnghiệp hoàn toàn khác các mặt hàng thủ công nổi tiếng của họ là rượu nho dầu ôliu và các sản phẩm như vũ khí và đồ gỗ. Nền thủ công nghiệp của họ cũng gắnliền với nhu cầu của thị trường. Nhưng cái khác biệt lớn nhất của họ so với cácquốc gia phương đông là thủ công nghiệp của họ đã tách rời khỏi nông nghiệp đểtrở thành một nền sản xuất độc lập. Đây là bước tiến lớn của họ, nhờ vậy mà năngxuất lao động tăng lên không ngừng và cũng thể hiện nền thủ công nghiệp đã đượcchuyên môn hoá, đem lại năng xuất cao hơn2.3. Trong thương nghiệp2.3.1:Ở các quốc gia cổ đại phương đông nền kinh tế của họ mang tính tự cấp, tựtúc là chủ yếu nên nền thương nghiệp chưa phát triển, buôn bán trao đổi chủ yếudưới hình thức vật đổi lấy vật, tiền tệ đã xuất hiện nhưng chưa phổ biến. Nước cónền kinh tế thương nghiệp phát triển nhất phương đông là Lưỡng Hà cổ đại.2.3.2:Trong khi nền kinh tế thủ công nghiệp ở phương đông không phát triển đượcdo nền kinh tế mang chất tự cấp, tự túc thì nền thương nghiệp ở phương tây đã cósự phát triển mạnh mẽ đặc biệt là giao thương bằng đường biển. Các thuyền buôncủa họ đã nối liền 3 châu lục Á, Phi, Âu và đem về vô số tài sản cho lái buôn. Tóm lạiVậy tại sao lại có sự khác nhau về kinh tế giữa các quốc gia phương đông vàphương tây như vậy? đó là do giữa phương đông và phương tây có sự khác nhau vềđiều kiện tự nhiên. Ở buổi đầu của văn minh nhân loại con người phải sống phụthuộc vào tự nhiên chứ chưa có ý muốn cũng như khả năng để chinh phục nó. Laođộng là quá trình thúc đẩy sự tiến hoá của con người. Ở thời cổ đại con người cònở một trình độ sản xuất chưa cao. Nền kinh tế nông nghiệp phương đông phát triểntrên cơ sở trị thuỷ các dòng sông lớn, đất đai ở đây được phù sa các sông lớn nhưsông Nin ở Ai Cập, Sông Tigơrơ và Ơphơrát ở Lưỡng Hà, Sông Ấn và sông Hằngở Ấn Độ, Sông Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc. Chính các con sôngnày đã tạo nên các đồng bằng phì nhiêu, các vụ mùa bội thu và quan trọng nhất làtạo ra các nhà nước cổ đại phương đông. Không một quốc gia phương đông cổ đạinào mà lại không có một dòng sông lớn chảy qua. Nhờ lớp đất phù sa có nơi dàytới vài mét nên nông nghiệp phương đông vẫn phát triển dù thời kì đó công cụ laođộng của họ chủ yếu là gỗ, đá và đồng đỏ họ có thể canh tác mà không cần công cụbằng sắt. Một yếu tố tự nhiên khác làm cho sự phân hoá đông – tây là khí hậu vàđịa hình. Như ta đã biết một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì phải dựa vào điềukiện khí hậu và địa hình. Ví dụ ở nước ta cũng như đa số các quốc gia phươngđông nền kinh tế nông nghiệp lúa nước phát triển do nó hình thành trên cơ sở cácđồng bằng rộng lớn có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Sở dĩ 2 yếu tố này đi với nhau vìnó bổ xung lẫn nhau vì có những nơi như ở La Mã cổ đại có các đồng bằng khá lớnnhư đồng bằng Pô và đồng bằng Tibrơ nhưng nền kinh tế nông nghiệp không dữvai trò chủ đạo vì khí hậu ở đây là khí hậu Địa Trung Hải tuy có nhiều nét giốngvới khí hậu nhiệt đới nhưng lượng mưa hàng năm ít hơn nhiều, còn ở một số vùngnhư ở Trung Phi và một số vùng núi cao ở nước ta lượng mưa trong năm khá caonhưng do địa hình gồ ghề không có các đồng bằng châu thổ rộng lớn nên không cóđiều kiện phát triển nhà nước.Theo như những gì nãy giờ ta phân tích về sự quan trọng của sông ngòi, địa hình,khí hậu làm nền tảng cho nền nông nghiệp phương đông thì những điều kiện đókhông có đủ như ở các quốc gia phương tây. Vậy cơ sở tự nhiên để hình thành cácquốc gia cổ đại phương tây là gì? Như đã nói từ đầu nền kinh tế các quốc gia cổ đạiphương tây là nền kinh tế dựa trên sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp,nông nghiệp chỉ là thứ yếu, là nguyên liệu cho thủ công nghiệp và thương nghiệpvì thế các quốc gia cổ đại phương tây không cần các điều kiện như ở phương đông.Nhưng họ cũng là con người, cũng phải tuân theo các quy luật nhất định nhà nướcchỉ hình thành khi kinh tế đạt đến một mức nào đó khi mà quan hệ công xã thị tộcbị giải thể vì sự tư hữu trong tư liệu sản xuất. Các quốc gia phương tây không cầncác điêu kiện như phương đông vì họ dựa trên thủ công nghiệp và thương nghiệp.Hi Lạp và La Mã đều là các quốc gia nằm trên các bán đảo lớn ăn ra biển, có nhiềuvũng, vịnh kín gió thuận lợi cho phát triển hàng hải. Hơn nữa 2 bán đảo Bancăngvà Italia đều nằm trong vùng biển Địa Trung Hải vùng biển này 3 mặt là 3 châu lụcÁ, Phi, Âu bao bọc nên tương đối yên bình, ít bão lớn. Vì thế từ thời cổ đại khi kĩthuật đóng tàu chưa phát triển hoàn thiện người ta vẫn có thể vượt biển để buônbán. Đất đai và khí hậu ở đây tuy không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp lúanước nhưng bù lại khí hậu và đất đai ở đây lại thuận lợi cho việc trồng một số câycông nghiệp lâu năm như nho, ôliu. Đây là nguyên liệu để sản xuất rượu nho vàdầu ôliu 2 mặt hàng có thể cho là “đặc sản” của các quốc gia cổ đại phương tây.Hơn nữa đất đai của họ không thích hợp với sản xuất nông nghiệp nên để có nguồnlương thực đáp ứng nhu cầu họ phải tiến hành trao đổi, buôn bán với các quốc giadồi dào lương thực ở phương đông như Ai Cập, Lưỡng Hà đây cũng là những thịtrường tiêu thụ rộng lớn của họ.3. So sánh nền văn minh phương đông cổ đại và phương tây cổ đại về chính trị - xãhộiCũng giống như về kinh tế, về chính trị - xã hội cổ đại phương đông và xã hội cổđại phương tây có những nét giống và khác nhau nhất định.3.1. Giống nhau: Do cùng trải qua xã hội nguyên thuỷ trước khi hình thành cácquốc gia cổ đại của mình nên giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tâycũng có những nét giống nhau.- Cơ sở của việc hình thành nhà nước là sự phân chia giai cấp và sự tư hữu về tưliệu sản xuất nên xã hội cổ đại phương đông và phương tây đều chia làm 2 tầng lớplà tầng lớp thống trị bao gồm tăng lữ, quý tộc ở phương đông và chủ nô ở phươngtây, tầng lớp bị trị là những nông dân công xã, dân tự do và nô lệ.- Sự hình thành và phát triển của các quốc gia cổ đại dựa trên cơ sở sự bóc lột củatầng lớp thống trị với tầng lớp bị trị- Kế tiếp xã hội cổ đại là xã hội chiếm nô, cả các quốc gia phương đông và phươngtây đều như vậy nhưng do điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế mà các quốc giacổ đại phương đông không phát triển chế độ chiếm nô đến điển hình và thành thụcnhư ở các quốc gia cổ đại phương tây.3.2. Khác nhau:3.2.1: Về chính trị- Sự khác nhau đầu tiên và rất rõ ràng giữa các quốc gia cổ đại phương đông và cácquốc gia cổ đại phương tây là ở thể chế nhà nước, trong khi các quốc gia cổ đạiphương đông theo chế độ tập quyền chuyên chế thì ở phương tây thể chế nhà nướccủa họ là chế độ dân chủ chủ nô. Đây là 2 hình thức nhà nước cơ bản mà dựa vàonó các quốc gia phong kiến, hiện đại dùng để tổ chức bộ máy nhà nước. Ở cácquốc gia phương đông “vua có quyền lực tuyệt đối. Tên của các ông vua được gọitheo cá cách khác nhau ở Ai Cập gọi vua là Pharaông, ở Lưỡng Hà gọi là Patêxihay Enxi Vua được coi là con của thần hay thượng đế” nói chung vua các quốc giaphương đông có quyền lực vô hạn. Trái với các quốc gia phương đông các quốcgia phương tây cổ đại theo chế độ dân chủ chủ nô. Hội đồng nhân dân giữ vai tròquyết định, vua được chọn chỉ nhằm tổ chức nhà nước quyền lực của vua bị giớihạn bởi các cơ quan như “viện nguyên lão”, “đại hội công dân” hay thậm chí bởimột ông vua khác[chế độ của thành bang Xpác]- Sự khác nhau giữa các quốc gia phương đông và phương tây còn ở thời điểm rađời của nhà nước cổ đại các quốc gia cổ đại phương đông là những nhà nước đầutiên của nhân loại theo một số tài liệu như “Lịch sử thế giới cổ trung đại” doNghiêm Đình Vỳ chủ biên hay “Lịch sử thế giới cổ đại” của Chiêm Tế thì các quốcgia cổ đại phương đông hình thành từ khoảng thiên niên kỉ IV – III TCN, tức là khinhà nước của họ thành lập thì con người còn đang ở thời kì đá- đồng và dĩ nhiênchưa có sự xuất hiện của công cụ bằng sắt. “Thậm chí người Ai Cập mới chỉ biếtđến công cụ bằng đá và gỗ”[Lịch sử thế giới cổ trung đại]. Trong khi đó các quốcgia cổ đại phương tây bước vào quá trình hình thành nhà nước muộn hơn nhiềutheo một số tài liệu thì đó là vào khoảng thế kỉ VIII- VII TCN. Đây cũng là sự khácnhau về chính trị giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây.- Điểm khác nhau tiếp theo về chính trị giữa các quốc gia cổ đại phương đông vàphương tây là: các quốc gia cổ đại phương đông tồn tại một cách khá cách biệt vớithế giới bên ngoài nên họ tồn tại và phát triển một cách khá độc lập liên tục màkhông chịu ảnh hưởng của nền văn minh nào khác từ bên ngoài nếu bị xâm lược thìthường giành lại độc lập sau đó. Trong khi đó chính trị, xã hội của các quốc gia cổđại phương tây chịu ảnh hưởng khá lớn từ các lực lượng bên ngoài. Họ thườngphải chịu những cuộc xâm lược của các bộ tộc khác tiêu biểu là cuộc xâm lược củangười Giecmanh cuộc xâm lược này đã làm sụp đổ đế chế La Mã đồng thời cũngchấm dứt lịch sử cổ đại châu Âu mở ra thời kì phong kiến.- Về mặt tổ chức nhà nước thì các quốc gia cổ đại phương đông lãnh thổ của họthường khá rộng lớn và là một nhà nước thống nhất ví dụ như Ai Cập, Trung Quốc,Lưỡng Hà. Lịch sử Ấn Độ, Ai Cập, Trung Quốc cũng có một số thời kì bị chia cắtnhưng các vùng chia cắt thường không khác nhau lắm về chính trị, xã hội, hơn nữathì chúng thường được nhanh chóng thống nhất trở lại. Nhưng ở các quốc gia cổđại phương tây đặc biệt là ở Hi Lạp cổ đại, nhà nước của họ tồn tại dưới hình thứcthành bang tức là trên lãnh thổ đó tồn tại nhiều tiểu quốc nhỏ với chế độ tổ chứcnhà nước khác nhau giữa các thành bang không có sự giống nhau ví dụ: thành bangAten là thành bang có hình thức hội đồng 500 và hội đồng công dân đứng đầu là 10nhà chiến lược kiệt xuất được bầu chọn, ở Xpác cũng có hội đồng nhân dân nhưngchủ chốt lại là ở 2 vua và 5 quan giám sát. Ở Rôma thời kì đế chế tuy lãnh thổ mởrộng nhưng về bản chất vẫn không có sự quản lý chặt chẽ thành một khối như ởcác quốc gia cổ đại phương đông.3.2.2: Sự khác nhau về xã hội:- Theo quy luật khách quan của lịch sử thì tiếp theo xã hội cổ đại sẽ là xã hội chiếmnô nhưng do một số nguyên nhân về điều kiện tự nhiên và xã hội nên ở phươngđông tồn tại một cách dai dẳng chế độ công xã nông thôn 1 hình thức tổ chức xãhội mà trong đó duy trì nền kinh tế tự nhiên và nhiều tàn dư của công xã nguyênthuỷ. Vì vậy nên xã hội chiếm nô ở phương đông không phát triển đến mức thànhthục, điển hình như ở các quốc gia phương tây nơi số lượng nô lệ đông gấp hàngchục lần chủ nô và bình dân.- Điều khác nhau tiếp theo giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây làvề lực lượng chính lao động để làm ra của cải vật chất. Ở các quốc gia phương tâyvới nền kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, lực lượng chính làmra của cải vật chất là những người nô lệ, một thứ “công cụ biết nói”, còn ở cácquốc gia cổ đại phương đông với nền kinh tế nông nghiệp phát triển thì vai trò nàythuộc về những nông dân công xã. Lực lượng lao động chính khác nhau cũng chothấy sự khác nhau về bản chất xã hội giữa các quốc gia cổ đại phương đông và cácquốc gia cổ đại phương tây.- Do sự khác biệt trong lực lượng sản xuất chính giữa xã hội cổ đại phương đôngvà xã hội cổ đại phương tây nên mâu thuẫn xã hội giữa các quốc gia cổ đại phươngđông và phương tây cũng khác nhau. Ở xã hội cổ đại phương đông dó là mâu thuẫngiữa 2 giai tầng chính là giai cấp thống trị[ vua, quan, quý tộc] và giai cấp bịtrị[ nông dân công xã, nô và thợ thủ công]. Ở các quốc gia cổ đại phương tây thì cóvẻ phức tạp hơn vì ngoài 2 giai cấp đối kháng là chủ nô và nô lệ thì lại có thêm mộttầng lớp không bóc lột ai nhưng cũng không bị ai bóc lột, họ là những người dân tựdo nghèo, Mác đã gọi họ là tầng lớp “vô sản ăn bám” họ sống nhờ vào phúc lợi xãhội mà không cần phải lao động gì. Đó cũng là sự khác biệt giữa các quốc gia cổđại phương đông và các quốc gia đại phương tây.- Trong cơ cấu xã hội của các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây cũng cósự khác nhau. Trong xã hội cổ đại phương đông nông dân công xã chiếm phần lớndân số trong khi đó số lượng nô lệ của các quốc gia cổ đại phương tây cao gấphàng chục lần số lượng chủ nô và bình dân.- Một đặc điểm khác của xã hội cổ đại phương đông và phương tây là: do hình thứcthành bang phát triển nên tỉ lệ dân thành thị của họ rất cao, thành thị là trung tâmcủa thành bang, là nơi tập trung của cư dân. Trái lại ở các quốc gia phương tây tỉ lệdân nông thôn lại cao hơn thành thị điều này nói lên sự khác biệt về kinh tế xã hộigiữa các quốc gia cổ đại phương đông và các quốc gia phương tây cổ đại đồng thờinó cũng rất có ảnh hưởng với xã hội các quốc gia này trong những giai đoạn pháttriển sau.3.3. Giải thích sự giống và khác nhau về chính trị, xã hội giữa các quốc gia cổ đạiphương đông và phương tây.3. 3.1. Giải thích sự giống nhau về chính trị, xã hội-Có sự giống nhau giống nhau giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phươngtây vì các quốc gia này đều hình thành trên cơ sở tuân theo quy luật khách quan tấtyếu của lịch sử đó là “kế tiếp xã hội nguyên thuỷ cổ đại là xã hội chiếm nô với 2giai cấp cơ bản: Giai cấp thống trị chủ nô và giai cấp bị trị nô lệ”[Lịch sử thế giớicổ trung đại- Nghiêm Đình Vỳ chủ biên].-Như ta đều biết nhà nước ra đời khi xã hội ẩn chứa nhiều mâu thuẫn, khi mà sự tưhữu về tư liệu sản xuất đã đạt tới một mức độ nhất định. Nhà nước cổ đại có vai tròquản lý, điều hoà mâu thuẫn đó nhưng chủ yếu là thay mặt tầng lớp trên trong xãhội để trấn áp, bóc lột nhân dân. Vì thế về bản chất nhà nước là một cơ quan bóclột nhân dân không phân biệt sự khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội-Do cùng ra đời vào thời cổ đại nên xét cho cùng tổ chức chính trị, xã hội có mộtsố điểm giống nhau nhất định như tính sơ khai, tính bóc lột nguyên thuỷ3.3.2. Giải thích sự khác nhau về chính trị, xã hội- Nguyên nhân hình thành chế độ tập quyền chuyên chế ở phương đông và nền dânchủ chủ nô ở phương tây. Do ở phương đông nền kinh tế nông nghiệp tự túc, tựcấp phát trỉển còn ở phương tây có nền kinh tế hàng hoá, công thương nghiệp pháttriển nên yêu cầu về chính trị, xã hội khác nhau. Ở phương đông với nền kinh tếnông nghiệp thì thuỷ lợi là vấn đề hàng đầu, nhưng trị thuỷ phải có sự góp sức củanhiều người vì thế chế độ tập quyền chuyên chế giúp vua có khả năng trong điềuhành các công việc chung dễ dàng hơn. Ngoài ra các vị vua phương đông thườngmượn thần quyền để tăng uy tín của mình. Trái lại ở phương tây họ hình thành cácquốc gia cổ đại muộn hơn nên có thể tiếp thu thành tựu phương đông. Trong cácquốc gia phương đông cổ đại Lưỡng Hà là nước dân chủ hơn cả cộng thêm vớiviệc thương nghiệp ở đây phát triển nên theo tôi các quốc gia phương tây đã họctập và hoàn thiện chế độ ở Lưỡng Hà và lập ra các nhà nước dân chủ chủ nô nhằmhạn chế sự chuyên quyền của vua đồng thời tạo tính dân chủ trong xã hội. Hơn nữanền kinh tế công thương nghiệp của họ không cần có một vị vua chuyên quyền đểcai trị, nền kinh tế công thương coi trọng sự công bằng hơn nữa họ muốn khôngchỉ có địa vị kinh tế mà còn có địa vị xã hội nên đó cũng có thể là lý do hình thànhnhà nước dân chủ chủ nô ở các quốc gia cổ đạu phương tây.- Nguyên nhân nhà nước chiếm hữu nô lệ phương tây phát triển một cách thuầnthục và điển hình trong khi ở các quốc gia phương đông thì không: do ở phươngtây, kinh tế công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ lực lượng dân tự do không đápứng kịp từ đó nảy sinh nhu cầu cần một lực lượng chính chuyên môn hoá sản xuất,phục vụ cho nhu cầu công thương nghiệp hơn nữa giữa các quốc gia cổ đại phươngtây thường sảy ra chiến tranh để cướp đoạt nô lệ, của cải vì thế số lượng bình dângiảm nhưng số lượng nô lệ lại tăng vì thế bóc lột bình dân như ở các nước phươngđông không không còn phù hợp. Vì thế theo em ban đầu nô lệ ở phương tây cũngmang tính gia trưởng như ở phương đông nhưng sau đó do nhu cầu phát triển kinhtế công thương nghiệp nên xã hội chiếm nô ở đây ngày càng phát triển tới mứcthành thục và điển hình.- Nguyên nhân của sự chênh lệch về thời gian hình thành giữa các quốc gia cổ đạiphương đông và phương tây: do ở phương đông có điều kiện tự nhiên thuận lợi khíhậu phù hợp, đất phù sa màu mỡ rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp nhưngcũng phải lo làm thuỷ lợi phòng lũ lụt nên từ rất sớm các công xã nông thôn đã hợpnhất thành các liên minh bộ lạc lớn rồi từ đó hình thành các quốc gia cổ đại vì thếngay cả khi loài người còn đang ở thời kì đá - đồng, khi mà công cụ bằng sắt chưaxuất hiện thì họ vẫn có thể thành lập các nhà nước cổ đại. Trái lại, ở phương tâyđất canh tác không màu mỡ bằng, khí hậu không phù hợp để canh tác nông nghiệpvì thế chỉ khi công cụ bằng sắt ra đời từ khoảng giữa TNK I TCN thì các quốc giacổ đại phương tây mới hình thành. Ở đây ta lại có thắc mắc tại sao các quốc giaphương tây phát triển công thương nghiệp lại cần sự phát triển nông nghiệp ở thờiđồ sắt lý do rất đơn giản vì nông nghiệp là cơ sở của mọi ngành kinh tế, là hìnhthức kinh tế giúp con người tồn tại, không ở đâu là không cần nông nghiệp pháttriển kể cả các quốc gia phương tây vì nông nghiệp là cơ sở để duy trì sự tồn tạicủa xã hội- Nguyên nhân sự khác nhau về giai cấp đối kháng giữa các quốc gia cổ đạiphương đông và phương tây:lý do sự khác nhau đó đến từ thể chế chính trị, xã hội.Ở các quốc gia phương đông cổ đại hình thức chính trị xã hội chủ yếu của họ làhình thức tập quyền chuyên chế vì thế mâu thuẫn giai cấp chủ yếu sảy ra giữa nôngdân công xã và quý tộc, quan lại trong khi đó ở các quốc gia cổ đại phương tây nềndân chủ chủ nô phát triển mâu thuẫn chủ yếu là giữa chủ nô và nô lệ nhưng trongxã hội cổ đại phương tây lại có sự phức tạp hơn phương đông ở chỗ ngoài hai giaicấp đối kháng chủ yếu là chủ nô và nô lệ còn xuất hiện giai cấp bình dân họ khôngbị bóc lột như nô lệ nhưng cũng không bóc lột trực tiếp đối với nô lệ họ sống nhờvào phúc lợi xã hội [giai cấp vô sản ăn bám] . Giai cấp này hình thành trên cơ sở sựphát triển của chế độ chiếm nô khi của cải trong xã hội đã tích luỹ 1 lượng của cảiđủ nuôi sống cả xã hội. Họ sống nhờ vào chính quyền chiếm nô nên có quan hệ lệthuộc vào giai cấp trên, nhưng họ vẫn là dân nghèo nên cũng có những mâu thuẫnnhất định với giai cấp trên.- Nguyên nhân lãnh thổ của các quốc gia phương đông cổ đại lại rộng lớn vàthường xuyên ở tình trạng thống nhất hơn các quốc gia phương tây: Do ở phươngđông có nhu cầu chung sức trị thuỷ các dòng sông lớn nên các tiểu quốc thường cóxu hướng hợp nhất với nhau vì thế các quốc gia phương đông cổ đại thường cólãnh thổ rộng lớn và thống nhất lãnh thổ hơn các quốc gia phương tây cổ đại[trừ đếchế Rôma]. Còn ở các quốc gia cổ đại phương tây tiêu biểu là Hi Lạp các quốc giathường mang tính chất thành bang diện tích nhỏ và không có sự thống nhất về lãnhthổ là do không có nhu cầu trị thuỷ các dòng sông lớn, sự phát triển của kinh tếcông thương nghiệp không đòi hỏi nhu cầu thống nhất lãnh thổ nhưng về cơ bảnvẫn là do bị địa hình chia cắt bởi núi cao, sông dài. Chính sự chia cắt về tự nhiênvà việc các thành bang không thống nhất với nhau đã khiến lãnh thổ Hi Lạp cổ đạichưa từng có 1 vương triều thống nhất có chăng chỉ là một số thành bang mạnhvươn lên làm “minh chủ” một thời gian rồi sau này lại trở về cục diện ban đầu.=> Sự khác biệt chủ yếu giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây là vềxã hội kinh tế, chính trị, điều kiện tự nhiên giống nhau đến mấy cũng không rõràng bằng nhà nước đó dựa vào nô lệ hay nông dân công xã là lực lượng chính laođộng để làm ra của cải vật chất. Theo tôi đó là cái thước đo xem nhà nước cổ đạinày thuộc các quốc gia cổ đại phương đông hay phương tây4. So sánh nền văn minh phương đông cổ đại và phương tây cổ đại về nghệ thuậtBên cạnh các thành tựu khác như văn học, toán học, vật lý, y học, . ko thể ko kểđến nghệ thuật Kiến trúc và điêu khắc của văn minh phương tây và phương đôngcổ đại Nói đến nghệ thuật là nói tới cái đẹp. Thông qua sự phát triển của nghệ thuậtchúng ta có thể hiểu được ngoài nhu cầu vật chất con người còn có nhu cầu hưởngthụ về tinh thần, ngoài ra, thông qua nghệ thuật chúng ta còn có thể thấy được sựphát triển của khoa học kỹ thuật và sức sáng tạo kỳ diệu của con người qua từnggiai đoạn lịch sử4.1.Phương đôngKtruc cổ của các nước phương Đông có đặc điểm là thường gắn với tôn giáo,người pđ rất trọng tâm linh nên họ thường tập trung của cải, sức lực để xây dựngcác đền tháp đồ sộ để mời các vị thần về, cầu mong các thần phù hộ. Do đó, ởPhương Đông nhiều công trình mang tính chất tôn giáo đã ra đời và dựng lên ở hầukhắp các nước một tấm thảm nghệ thuật vô cùng đa dạng và huyền bí . Từ nhữngtác phẩm nhỏ bé và tinh xảo tới những công trình khổng lồ , vừa mang nét thiêngliêng phồn thịnh của nền mỹ thuật Ấn Độ lại có những tác phẩm mang vẻ đẹp tinhvi óng chuốt của phong cách siêu quán Trung Hoa .Có thể nói, trong quá trình phát triển văn minh, người Phương Đông nói chung vàngười Ai Cập cổ đại nói riêng đã tạo ra những di sản văn hóa cực kỳ quý báu và đồsộ trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là kiến trúc Ai Cập cổ đại đã đạt tới một trìnhđộ rất cao. Kiến trúc Ai Cập cổ đại chủ yếu là các đền đài tôn giáo với các cấu trúckhổng lồ và sự thần bí của không gian, được xác định bởi các bờ tường dày và dốcvới ít lỗ mở. Các công trình kiến trúc tiêu biểu là cung điện, đền miếu và đặc biệtlà Kim tự tháp. Nói đến Ai Cập người ta nghĩ ngay đến những Kim tự tháp đứngsừng sững giữa sa mạc mênh mông. Chúng như những tấm bia khổng lồ ghi lạimột thời đại huy hoàng trong lịch sử kiến trúc nhân loại, thể hiện được sức sángtạo kỳ diệu của những người xây dựng nên nó. Bằng bàn tay và khối óc của mình,người dân Ai Cập cổ đại đã để lại cho nền văn minh nhân loại những giá trị nghệthuật kiến trúc vô giá.Bên cạnh những giá trị về mặt kiến trúc, Nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cũng cónhiều thành tựu lớn, thành tựu đó biểu hiện ở hai mặt: tượng và phù điêu. độc đáonhất trong lĩnh vực điêu khắc của Ai Cập cổ đại là tượng Xphanh khổng lồ: gọi lànhân sư, là những bức tượng mình sư tử, đầu người hoặc dê. Đây là một quái vậthuyền thoại của người Ai Cập, thể hiện sức sáng tạo kỳ diệu của người dân Ai cậpcổ xưa.Ngoài những công trình lớn nêu trên, mỹ thuật Ai Cập Cổ đại còn đạt tới trình độhoàn hảo, trong các tranh tượng vừa và nhỏ, theo phong cách tả thực rất tinh vi vàđặc sắc trong đó kết hợp chặt chẽ giữa điêu khắc và hội họa . Các tác phẩm tiêubiểu như : Tượng đá vôi màu ; Viên thư lại ngồi ,tượng gỗ Cheikh e Beled là tượnggỗ vào loai đẹp và cổ nhất Ai Cập còn lưu lại đến ngày nay. Phù điêu đá vôiTigrane Pacha . tượng đồng Reine Karomama . Đặc biệt bức phù điêu tuyệt đẹptrên đá tô màu Seti I và Nữ Thần HathorNằm ở khu vực Tây Á, Lưỡng Hà cổ đại thuộc vùng đất nằm trong lãnh thổ hainước Irắc vàCoóet ngàynay.Đất đai Lưỡng Hà được hai con sông Tigre vàEuphrate bồi đắp phù sa màu mỡ . Ở đây đã có một nền nghệ thuật phát triển rấtcao, nhưng do điều kiện địa lý, họ đã phải dùng nhiều vật liệu không bền như gạchkhông nung trong kiến trúc, nên nhiều công trình bị động đất và thời gian tàn phá.Thời cổ đại, các công trình kiến trúc chủ yếu là tháp, cung điện, đền miếu, thành,vườn hoa, . Nổi lên trên quần thể kiến trúc: thành, cung điện là vườn treoBabilon.Toàn bộ vườn treo thực chất là một vườn hoa được tạo dựng trên không,được xây dựng vào cuối thế kỷ VII, đầu thế kỷ VI [TCN]. Đây là công trình kiếntrúc, là chứng tích cho một huyền thoại về tình yêu cuồng nhiệt của những vị vua,hoàng hậu, và công chúa xinh đẹp xứ Mađi.Nghệ thuật điêu khắc gồm tượng và phù điêu . Những tác phẩm tương đối tiêu biểulà “ bia diều hâu” [2800 Tr.CN] được tạc để kỷ niệm chiến thắng của Vua thànhLagash , bia Naram Sin [ khoảng 2700 Tr.CN , Bảo tàng Louwre] bia này làm bằngsa thạch đỏ cao 2 mét nay còn nguyên vẹn , vốn là để kỉ niệm chiến thắng của vuaNaram Sin . các tượng Vua Goudea [2400Tr.CN] là đỉnh cao của nghệ thuật Sumervà Akkad với phong cách dứt khoát và mạnh mẽ . Ngoài ra ta còn biết tài hoa củacác nghệ sỹ qua Con dấu trục , “Cột đá naramxin”, “bia điều luật Hamourabi”, phùđiêu Sư tử cái bị thương các tượng thần AtxiriẤn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiềunước Đông Nam Á. ấn Độ là mảnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng những tôn giáo dunhập vào nơi đây vì vạy Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôngiáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòngnghệ thuật: Hinđu giáo, Phật giáo, Hồi giáo.Trong đó, Đạo Hồi đươc nhắc tới trướctiên bởi vì Đạo Hồi không chỉ du nhập vào ấn Độ mà nó còn dần trở thành quốcgiáo của mảnh đất này.Vì vậy ở ấn Độ, những công trình kiến trúc Hồi Giáo xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy,nguy nga, tráng lệ và trường tồn với dòng chảy của thời gian cũng như trong niềmtự hào của những tín đồ Đạo Hồi. Đặc biệt, bên ngoài vẻ đẹp hoành tráng của kiếntrúc, thánh đường Hồi Giáo còn ẩn chứa nhiều nét đẹp văn hoá của người HồiGiáo, đó cũng là những giá trị tinh thần cao quý nhất.Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajantaở miền trung Ấn Độ. Từ một dải núi đá khổng lồ, người Ấn Độ cổ đại đã đục đẽo,chạm khắc tạo nên những công trình kiến trúc với tầm vóc kỳ vĩ cùng sự tỉ mỉ, tinhtế trong từng chi tiết. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa,các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hangcó những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp. Tư tưởng Phật Giáo hòa quyệnmột cách tự nhiên giữa thế giới thánh thần và đời sống con người. Trong 16 ngôichùa hang có nhiều tranh vẽ bằng màu đỏ, xanh lá cây, xanh lam trên nền đá cẩmthạch, mô tả sinh động những điển tích Phật giáo. Đó là những tác phẩm mỹ thuậtvừa lộng lẫy vừa uy linh Những chùa hang ở Ajanta do bàn tay con người tạo nênbằng đá và khổng lồ như núi lớn, trong đó là cả một kho báu khổng lồ vô giá,không chỉ là nghệ thuật, mà còn là lịch sử, là dân tộc học, là xã hội học, là tôn giáohọc .Nghệ thuật Trung quốc phát triển theo hai hướng tạo thành hai cách mĩ cảm- Hướng trau chốt nghệ thuật cầu kì đến mức điêu luyện, được gọi là hướng “ khắcvàng vẽ nét, chạm trổ loá mắt” .- hướng bieu hiện nghệ thuật theo cái đẹp tự nhiên, chân chất, mộc mạc ,nhưngsâu xa, ý vị . Người Trung quốc gọi hướng này là khai thác cái đẹp” Phù dung mớinhú, tự nhiên đáng yêu” .Hai hướng nghệ thuật này đã chi phối toàn bộ sáng tạo nghệ thuật Trung quốc .Thành tựu hội hoạ Trung quốc :Hội hoạ Trung quốc phát triển rất sớm, gắn với lối viết thao hình vẽ “chữ tượnghình” . Từ cơ sở này , dẫn tới nguyên tắc “ thư hoạ đồng nguyên”, và đẻ ra thưpháp [ viết chữ đẹp như vẽ ], đó cũng là kiểu “chơi tài hoa” trên nét bút .Bức hoạ trên lụa đầu tiên tìm thấy vào thời Chu [1200-900 năm trước công lịch ,tức là trước thời Hán mất thế kỷ ], bức hoạ này thể hiện cuộc đấu tranh giữa thiệnvà ác đã được tìm thấy ở một ngôi mộ cổ .Vẽ kỹ thuật biểu hiện : Hội hoạ Phương Tây rất phong phú về đề tài và chủ đề, vìnó thiên về hiện thực . Ngay tranh tôn giáo cũng biết bao nhiêu cảnh : Chúa trời tạoAđam – Êva .Ađam Êva phạm tội, Giêsu sinh ra trong máng cỏ , Ông GioăngBatixita bị vua Hêrôđơ Ăngtipát sai người chém đầu đặt lên đĩa,v.vHội hoạ Trung Hoa truyền thống khác hẳn , đề tài và chủ đề rất chung, trừu tượng,ước lệ; hướng tới một phẩm chất , chứ không phải một hiện tượng , một vấn đề . Vìthế, tranh Trung quốc đều hướng tới sự giản dị, bình thản , tao nhã ,trang trọng,thanh tú , thuần hậu v.v Nói chung họ mượn cảnh để nói tình, vì thế không quá câunệ vào các chi tiết, hoặc các biến cố khách quan . Đặc điểm trên đã chi phối cảhình hoạ lẫn lối sử dụng màu sắc và ánh sáng, bố cục .Rõ ràng , tranh Trung hoa không vẽ cái đang chuyển động trước mắt . Trong sốmuôn vàn sự vật đang biến đổi, hoạ sỹ Trung hoa chỉ muốn thâu lấy một vài trạngthái vĩnh cửu, một đặc điểm cơ bản của hiện tượng để người xem có thể mở tâmhồn mà đưa mình vào cõi mộng . Cũng có hoạ sỹ vẽ tỉ mỉ từng cảnh vật , tỉa tót rấtkỹ từng bụi cây, cành lá “ Thực” để nói cái “Hư”, vẫn không ngoài dụng ý dắt dẫnngười xem dò lần từng bước, vượt suối, băng đèo, cheo leo bên sườn núi lên títtrên cao, ẩn mình nơi chùa cổ, hoà mình vào tận cảnh sơn lâm, thuỷ tận .Với lối vẽ như vậy , thì cái nhìn của hội hoạ Trung Hoa đã không bị lệ thuộc vàoluật viễn cận , mà bố cục theo phép “ lên cao, thấy xa” , “ lấy lớn , thấy nhỏ”,Người ta còn gọi lối bố cục này là lối “ bố cục theo cảm nhận trực giác” .4.2. Phương TâyNếu như đối với Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại, nghệ thuật thể hiện cái đẹp rất đặctrưng của văn hóa Phương Đông thì khi nghiên cứu về nghệ thuật Phương Tây cổđại, trừ giai đoạn đầu có chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Phương Đông, người họckhông khỏi ngạc nhiên trước những nét đẹp mang đậm màu sắc Tôn giáo củaPhương Tây, nét đẹp đó thể hiện qua ba mặt chủ yếu là kiến trúc, điêu khắc và hộihoạ.4.2.1. Hy Lạp4.2.1.1.Kiến trúcKiến trúc Hy Lạp cổ đại và điêu khắc của nền văn minh Hy Lạp phát triển rực rỡvà để lại dấu ấn sâu sắc hơn cả. Những công trình điêu khắc Hy Lạp cổ thời gianđầu chịu ảnh hưởng của trường phái nghệ thuật phương Đông. Nhưng nghệ thuậttạo hình và điêu khắc đạt đến đỉnh cao là ở thời kỳ Hy Lạp hóa [thế kỷ V đến thếkỷ IV trước Công nguyên]. Nhiều công trình được sáng tạo bởi Polygnotus,Myron, Phidias. Tác phẩm Tượng thần Athena và Marsyas [tại Vườn Bách thảocủa Copenhagen] được sáng tác bởi Myron. Kiến trúc và điêu khắc Hy Lạp cổthường đi song hành bên nhau, những giá trị lớn tập trung tại các công trình kiếntrúc lớn, những bức tranh tường, những bức tượng lớn trong một đại sảnh là hìnhảnh thường gặp ở Athena. Nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc của Hy Lạp cổ đại đãcó tác dụng kinh điển và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nền nghệ thuật của nhiềuquốc gia từ cổ đại cho đến ngày nay.Mặc dù kế thừa những thành tựu nghệ thuật của Ai Cập và Lưỡng Hà nhưng ngwờiHi Lạp đã sáng tạo và phát triển một cách mạnh mẽ phong cách nghệ thuật riêngbiệt của mình, tạo ra những giá trị nghệ thuật đạt mức điêu luyện. Trong lĩnh vựckiến trúc, người Hi Lạp đã tạo ra những công trình kiến trúc bất hủ với thời gian.Công trình kiến trúc đẹp nhất của Hi Lạp là đền Parthenon. Đây được xem là kiệttác về kiến trúc và là biểu tượng của kiến trúc Hi Lạp cổ. Người xây dựng nêncông trình này là là kiến trúc sư Ictinus dưới sự hướng dẫn của nhà điêu khắc thiêntài Phidias.Toàn bộ đền được xây bằng đá trắng, xung quanh là dãy cột đã cẩm thạch hình trònđược chạm khắc tinh vi. Công trình thể hiện tài năng của một bậc thầy xuất chúngvề kiến trúc và điêu khắc. Kiệt tác này được giữ nguyên vẹn suốt 2000 năm, đến1697 mới bị chiến tranh tàn phá.Trong nghệ thuật kiến trúc của Hi Lạp, người ta dễ dàng nhận thấy nổi bật lên lốikiến trúc cột. Kiến trúc cột là cách người Hi Lạp tìm kiếm vẻ đẹp lý tưởng trongnghệ thuật kiến trúc. Những thức cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một hìnhthức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu trưng cho vẻ đẹptrong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Có 3 loại thức cột cơ bảntrong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột Ionic và cột Corinth. Thức cột Hy Lạp đượcxem như biểu tượng của kiến trúc cổ điển.Công trình tiêu biểu: quần thể Aropolis ở Athens, trong đó có đền Pathernon.Mãi đến thời đế chế, nghệ thuật La Mã mới có điều kiện phát triển mang tính chấtriêng biệt và phản ánh đúng bản sắc nghệ thuật dân tộc. Mặc dù chịu ảnh hưởngnhất định của nghệ thuật Hi Lạp nhưng người La Mã cũng đã tạo ra những côngtrình mang đậm bản sắc riêng của mình với số lượng và quy mô vượt trội.4.2.1.2.Kiến trúc La Mã mang tính chất thực dụng, bề thế và đồ sộ. Khi thiết kếnhững công trình kiến trúc, người La Mã chú ý đến tính năng sử dụng của nó hơnlà sự hài hòa, cân đối giữa công trình với môi trường xung quanh. Những đườngnét uốn lượn thay bằng những nét sổ thẳng hình học, vóc dáng các công trình đơnđiệu, nặng nề nhưng vững chắc.Ba công trình tiêu biểu cho nghệ thuật và nếp sống của người La Mã là đấu trườngColosseum, nhà tắm Caracalla và đền thờ Pantheon.Kiến trúc của đấu trường Colosseum biểu hiện cho sự hùng cường và vĩ đại của đếchế La Mã triều đại Flavius. Công trình được xây dựng trong suốt 8 năm, chu vi524m, bao gồm nhiều tầng với vật liệu chủ yếu là đá cẩm thạch. Theo tính toánhiện nay, đấu trường chứa được khoảng 45.000 đến 50.000 người. do sự hủy hoạicuả thiên nhiên và con người, công trình hiện nay chỉ còn khoảng một phần ba.Caracalla là một công trình nhà tắm công cộng được hoàn thành dưới thời hoàngđế Alexander năm 235 với tổng diện tích lên đến 14.000 hecta. Đây không chỉ đơnthuần là nơi giải trí mà còn là một công trình văn hóa với các thư viện và phòngđọc sách, được trang bị các khu thi đấu thể thao, nghỉ dưỡng, nhà hàng ăn, phòngtrưng bày nghệ thuật Đây là một sự tiến bộ không chỉ về nghệ thuật mà còn là sựvăn minh trong đời sống văn hóa của người La Mã.Đền Pantheon được xây dựng dưới thời hoàng đế Agustus. Công trình bị hủy hoạisau hai trận hỏa hoạn và được xây dựng lại vào thời hoàng đế Hadrian [117-138]sau đó được chuyển thành nhà thờ Công giáo.Điêu khắcCùng với nghệ thuật kiến trúc với những công trình đã trở thành kiệt tác của nhânloại, nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cũng được xem là những giá trị có một không haitrong nền nghệ thuật thế giới. Hai nhà điêu khắc vĩ đại nhất của Hi Lạp là Praxitelevà Scopas ở thế kỉ IV TCN. Tượng thần Hermes và thần Aphrodite [thần vệ nữ Venus], được xem là những mẫu mực của nghệ thuật điêu khắc cổ đại, thể hiện vẻđẹp hoàn hảo của nam và nữ. Cho đến ngày nay, với một nền nghệ thuật hiện đại,

Video liên quan

Chủ Đề