Sáng kiến kinh nghiệm về phát triển chương trình giáo dục mầm non

skkn một số biện pháp chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non ở trường mầm non thị trấn bến sung, huyện như thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON Ở TRƯỜNG
MẦM NON THỊ TRẤN BẾN SUNG, HUYỆN NHƯ THANH,

Người thực hiện: Lê Thị Lương
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường mầm non Thị trấn Bến Sung
Như Thanh – Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý

THANH HÓA, NĂM 2018


MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu:........................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu:........................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................2
3.2. Kiến nghị...........................................................................................19


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
là nền tảng đầu tiên của ngành Giáo dục đào tạo. Chất lượng chăm sóc, giáo dục


trẻ ở trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học
tiếp theo.
Bởi thế, sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt đến sự
nghiệp giáo dục mầm non. Người đã dạy: “Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy
trẻ. Muốn làm được thế thì phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ
chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng
cây non được tốt thì sau này cây lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này các cháu thành
người tốt...” [2]. Thực hiện di huấn của người, trong quan điểm phát triển giáo
dục của Đảng và Nhà nước ta cũng đã xác định: “Cần đẩy mạnh việc chăm lo
phát triển giáo dục mầm non”. Và chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng của
giáo dục mầm non là nhằm giáo dục toàn diện cho trẻ về thể chất, tình cảm, đạo
đức, thẩm mỹ, trí tuệ, là cơ sở để hình thành nên nhân cách con người mới và
chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào trường tiểu học được tốt.
Trải qua quá trình lịch sử phát triển của đất nước, các cấp học, các bậc học
luôn phải đổi mới để đáp ứng với yêu cầu xã hội theo từng giai đoạn, trong đó
có bậc học giáo dục Mầm non. Qua hơn 60 năm hình thành và phát triển ngành
giáo dục Mầm non đã trải qua nhiều loại chương trình, đến nay là thực hiện
chương trình giáo dục mầm non theo thông tư số 28/2016/TT-BGD&ĐT ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung
một số nội dung của chương trình giáo dục mầm non ban hành kèm theo thông
tư 17/2009/TT-BGD&ĐT. Được sự chỉ đạo của phòng Giáo dục và Đào tạo Như
Thanh trường mầm non thị trấn Bến Sung đã và đang chỉ đạo thực hiện chương
trình giáo dục mầm non. Đến nay, hướng đi trong việc thực hiện chương trình đã
tương đối rõ ràng, tạo tiền đề, điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu chăm sóc
giáo dục trẻ phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và địa phương. Việc
thực hiện chương trình trong nhà trường đã được xây dựng theo tinh thần đổi
mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, các hình thức tổ chức hoạt
động, cách thức đánh giá đến điều kiện thực hiện chương trình. Trong đó, đổi
mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục là
yếu tố cốt lõi. Đây là chương trình mang tính chuẩn mực và có tính linh hoạt,

mềm dẻo làm cơ sở cho việc lựa chọn những nội dung giáo dục cụ thể, phù hợp
với kinh nghiệm sống và khả năng của trẻ.
Song hiện nay, việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non theo thông
tư 28/2016/TTBGD&ĐT trên thực tế chưa phát huy được thế mạnh của nó; việc
thực hiện chương trình giáo dục mầm non ở nhà trường chủ yếu đề cập đến nội
dung giáo dục mà chưa thể hiện một số thành tố khác của chương trình. Mục
tiêu giáo dục chưa chú trọng một cách đầy đủ đến giá trị nhân cách cần thiết
như: tính tự tin, tư duy độc lập, tính sáng tạo...Nội dung hoạt động giáo dục
chưa mang tính tích hợp hoặc tích hợp một cách ôm đồm; chưa tạo sự gắn kết,
1


thống nhất, đồng bộ đến sự phát triển của trẻ. Nội dung hoạt động học tập còn
nặng nề về cung cấp kiến thức một cách riêng lẻ, chưa chú trọng đến việc hình
thành và phát triển năng lực, kỹ năng sống cho trẻ . Chất lượng của một số giáo
viên còn bộc lộ những hạn chế: khả năng vận dụng phương pháp mới còn thiếu
linh hoạt, nhạy bén; xây dựng kế hoạch và công tác đánh giá trẻ còn lúng túng,
môi trường giáo dục trong và ngoài nhóm lớp chưa mang tính “mở”... Muốn có
một đội ngũ giảng dạy tốt, phát huy được khả năng tư duy sáng tạo của trẻ để lôi
cuốn trẻ tham gia các hoạt động một cách tích cực, đạt hiệu quả cao; thì một trong
những yêu cầu đặt ra đối với người cán bộ quản lý là phải luôn tích cực tìm tòi,
nghiên cứu, khảo nghiệm thực tiễn để đưa ra các giải pháp tối ưu nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý, chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục trong nhà trường.
Với những lý do trên việc chỉ đạo thực hiện chương trình chăm sóc giáo
dục trẻ mầm non là hết sức cần thiết và cấp bách. Với cương vị là cán bộ quản lý
trực tiếp chỉ đạo, triển khai việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non, tôi
đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện chương trình
giáo dục mầm non ở Trường Mầm non Thị trấn Bến Sung, huyện Như
Thanh” làm đề tài nghiên cứu. Kết quả của Sáng kiến kinh nghiệm này hy vọng
sẽ giúp cho các nhà quản lý và giáo viên mầm non hiểu nhiều hơn và thực hiện

tốt hơn về chương trình giáo dục mầm non.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng chỉ đạo thực
hiện chương trình giáo dục mầm non ở trường Mầm non Thị trấn Bến Sung
huyện Như Thanh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ mầm non trong
giai đoạn hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu: “Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện
chương trình giáo dục mầm non ở Trường Mầm non Thị trấn Bến Sung,
huyện Như Thanh”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
+ Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Nhóm phương pháp này nhằm
thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài.
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp phỏng vấn
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp thống kê
+ Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Chương trình giáo dục mầm non được xây dựng theo quan điểm giáo dục
tích hợp, lấy trẻ làm trung tâm đảm bảo nguyên tắc đồng tâm phát triển, tạo điều
kiện cho mỗi trẻ được hoạt động tích cực, đáp ứng nhu cầu và hứng thú của trẻ

trong quá trình chăm sóc giáo dục. Đây là khung chương trình “mở” cho cho
phép giáo viên được chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng phương
pháp dạy học và hình thức dạy học, phát huy tính chủ động, tích cực của trẻ.
Nhằm phát triển toàn diện ở trẻ [1].
Chương trình giáo dục mầm non thể hiện được mục tiêu giáo dục mầm
non: là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành
những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình
thành và phát triển ở trẻ những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất
mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy
và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp
học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Do đó, những người làm công tác
chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ mầm non phải xác định được vị trí, vai trò,
nội dung và nhiệm vụ của mình trong công nuôi dưỡng chăm sóc trẻ, phải làm
thế nào để phát triển toàn diện về các mặt, tạo điều kiện cho trẻ phát huy khả
năng sáng tạo của mình có những thói quen hành vi tốt, hình thành những cơ sở
đầu tiên của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa: Khoẻ mạnh, nhanh
nhẹn, cơ thể phát triển hài hoà cân đối. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi người
cán bộ quản lý phải có những biện pháp đổi mới trong công tác chỉ đạo thực
hiện chương trình giáo dục của nhà trường một cách khoa học và có hiệu quả,
phù hợp với từng độ tuổi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
2.2.1. Thuận lợi:
Trường Mầm non thị trấn Bến Sung là trường chuẩn quốc gia, các phòng
học rộng rãi thoáng mát, đảm bảo đúng quy định. Có đồ chơi ngoài trời, có vườn
hoa, cây xanh, cây cảnh, vườn cổ tích được bố trí hài hòa hợp lý nhằm tạo cảnh
quan môi trường thiên nhiên xanh - sạch - đẹp.
Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo từ phía Phòng giáo dục,
đặc biệt là bộ phận phụ trách chuyên môn của ngành. Sự ủng hộ của các cấp, các
ngành ở địa phương, của hội cha mẹ học sinh, các tổ chức xã hội và nhân dân
trên địa bàn cả về vật chất lẫn tinh thần, đã có những biện pháp chiến lược, từng

bước tháo gỡ những khó khăn, quyết tâm xây dựng trường trở thành trường
chuẩn quốc gia mức độ II.
Nhà trường có tổng số nhóm lớp là: 17 lớp = 552 cháu. Trong đó:
(Lớp mẫu giáo 5 tuổi: 5 lớp = 154 cháu; Lớp mẫu giáo 4 tuổi: 5 lớp = 151 cháu;
Lớp mẫu giáo 3 tuổi: 4 lớp = 134 cháu; Nhóm trẻ 24 – 36 tháng: 3 nhóm =
113cháu). Trẻ ăn bán trú: 552 cháu đạt tỷ lệ 100%.

3


Bản thân và 100% CBGV trong trường đã được tham gia đầy đủ các lớp
chuyên đề do Phòng GD&ĐT tổ chức, đặc biệt là chuyên đề giáo dục mầm non
sửa đổi bổ sung theo thông tư 28/2016/TT-BGD&ĐT. 100% CBGV đạt trình độ
trên chuẩn, đội ngũ giáo viên luôn nhiệt tình và có nhiều tâm huyết, giàu kinh
nghiệm trong nghề nghiệp.
100% nhóm lớp thực hiện Chương trình giáo dục mầm non theo thông tư
28/2016/TT-BDG&ĐT ngày 30 tháng 12 năm 2016. BGH nhà trường đã triển khai
đầy đủ, kịp thời các văn bản của Sở GD&ĐT, của Phòng GD&ĐT đến tận đội ngũ
cán bộ giáo viên trong nhà trường về thực hiện chương trình Giáo dục Mầm non.
2.2.2. Khó khăn
Cơ sở vật chất nhà trường tương đối đầy đủ nhưng các trang thiết bị trong
lớp vẫn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu học tập và vui chơi của trẻ
trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non. Nguồn kinh phí được cấp chưa
đáp ứng được nhu cầu tổ chức các hoạt động dạy học.
Đội ngũ giáo viên nhà trường mặc dù có trình độ chuẩn và trên chuẩn
100% nhưng khả năng sư phạm của từng người lại không đồng đều. Phần lớn
được đào tạo chắp vá, nhiều loại hình đào tạo nên năng lực thực tế chưa tương
thích với trình độ đào tạo.
Một số giáo viên còn nhiều khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện xây
dựng kế hoạch giáo dục (xác định mục tiêu, nội dung, hoạt động giáo dục, kế

hoạch giáo dục theo chủ đề chưa thể hiện đúng tính chất tích hợp nội dung phù
hợp, còn mang tính áp đặt bao trùm toàn bộ nội dung GD trong CTGDMN).
Nhiều giáo viên trẻ đang trong độ tuổi sinh đẻ, nuôi con nhỏ…Nên đã ảnh
hưởng không nhỏ tới chất lượng chung thực hiện chương trình giáo dục của nhà
trường.
2.2.3. Kết quả thực trạng:
Để làm tốt công tác chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non tôi
đã tiến hành khảo sát đầu năm học 2017 - 2018, kết quả như sau:
KẾT QUẢ KHẢO SÁT TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

- Đối với giáo viên:

Nội dung khảo sát

Tống
số

- Nhận thức về chương
trình GDMN theo thông
tư 28/2016/TTBGD&ĐT.

35

Loại tốt

Loại khá

Loại TB

Số

lượng

Tỷ lệ

Số
lượng

Tỷ lệ

Số
lượng

Tỷ
lệ

17

48.6

13

37,1

5

14,3

4



- Xây dựng kế hoạch phù
hợp với độ tuổi.
- Xây dựng môi trường
giáo dục có hiệu quả.
Tạo nhiều cơ hội cho trẻ
được trải nghiệm.
- Vận dụng sáng tạo, linh
hoạt các phương pháp và
hình thức tổ chức trong
các hoạt động
- Kỹ năng đánh giá trẻ

35

15

42,9

13

37,1

7

20

35

17


48,6

12

34,3

6

17,1

35

18

51,4

15

42,9

2

5,7

35

16

45,7


14

44

5

0,3

- Đối với học sinh:
Số trẻ đạt
Nội dung khảo sát

Tổng
số

Tốt
SL

Tỷ lệ

Khá
SL

Tỷ lệ

Trung
bình
SL

Số trẻ

chưa đạt
Tỷ
lệ

Tỷ lệ SL

- Trẻ nắm được
những kiến thức cơ
552 219 39,7 181 32,8
97 17,6 55 9,9
bản thông qua các
lĩnh vực phát triển.
- Trẻ tích cực, hứng
thú khi tham gia các 552 217 39,3 183 33,2
99 17,9 53 9,6
hoạt động
- Phát huy khả năng
tìm tòi, trí tưởng
552 215 38,9 179 32,4 101 18,3 57 10,4
tượng sáng tạo ở trẻ
Sau khi khảo sát tôi nhận thấy, việc thực hiện chương trình chăm sóc giáo
dục trẻ còn bộc lộ những hạn chế bất cập. Nội dung giáo dục còn mang tính
cứng nhắc, chưa thích ứng với tình hình thực tế của địa phương cũng như khả
năng tiếp cận thực tế của trẻ, giáo viên tổ chức hoạt động còn máy móc, rập
khuôn, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ. Nhiều giáo
viên khi lựa chọn phương pháp dạy học và phương tiện dạy học để truyền tải nội
dung chương trình chưa linh hoạt nên có những nội dung dạy học chưa phù hợp
với học sinh. Dẫn tới khả năng gây hứng thú, thu hút trẻ vào các hoạt động chưa
cao. Vì vậy việc nâng cao chất lượng thực hiện chương trình giáo dục mầm non
hết sức cần thiết và quan trọng.

2.3. CÁC GIẢI PHÁP SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

5


2.3.1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức và kỹ năng sư phạm cho đội ngũ
giáo viên về việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
Chất lượng đội ngũ giáo viên là một trong những yếu tố quyết định
tiên quyết đến chất lượng thực hiện chương trình giáo dục. Ảnh hưởng của
giáo viên đối với chất lượng giáo dục là hết sức lớn. Giáo viên là người lựa
chọn nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học. Là người trực tiếp thực
hiện chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ. Để thực hiện tốt chương trình
giáo dục mầm non, điều quan trọng nhất ở đây là vấn đề nhận thức của giáo viên
đối với chương trình cũng như những kỹ năng sư phạm mà giáo viên có được để
thực hiện chương trình một cách mềm dẻo, sáng tạo cho phù hợp với đối tượng
học sinh và môi trường sư phạm.
Nhận thức rõ điều đó, trong quá trình quản lý chỉ đạo chuyên môn tôi luôn
đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nâng cao nhận thức và kỹ năng sư phạm cho đội
ngũ giáo viên về việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non trong nhà trường.
Để thực hiện có hiệu quả chương trình, ngay từ đầu năm học tôi đã xây
dựng kế hoạch bồi dưỡng nâng cao nhận thức và kỹ năng sư phạm cho đội ngũ
giáo viên. Tôi lên kế hoạch và tham mưu với hiệu trưởng cử giáo viên đi đào
tạo, bồi dưỡng các chương trình để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và
lý luận chính trị.
Tham mưu cho hiệu trưởng phân công giáo viên tại các nhóm, lớp phù
hợp với yêu cầu của từng độ tuổi và lập kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp
vời tình hình thực tế của địa phương, của nhà trường.
Để giúp giáo viên tiếp cận tốt với chuyên môn về những vấn đề mới nhất
và những chuyên đề trọng tâm, nhà trường tổ chức cho giáo viên được tham gia
các lớp tập huấn chuyên đề do Phòng và Sở giáo dục tổ chức. Sau mỗi đợt học

tập đó, nhà trường thường tổ chức thành các buổi sinh hoạt chuyên đề với nội
dung cụ thể để giáo viên thảo luận, trao đổi, dạy thực nghiệm để rút kinh
nghiệm. Tổ chức cho giáo viên làm bài tập thực hành theo tổ, nhóm nhỏ từ đó
giúp giáo viên hiểu sâu hơn những nội dung vừa tiếp thu và ứng dụng chúng vào
thực tế giảng dạy trẻ cho phù hợp.
Chỉ đạo tổ chuyên môn sinh hoạt 2 lần/ tháng. Qua các buổi họp giáo viên
thảo luận, nêu lên những vấn đề còn khúc mắc của mình trong quá trình thực
hiện chương trình trong từng tuần. Hơn thế nữa là có kinh nghiệm hay thì chia
sẻ với đồng nghiệp. Qua đó giúp giáo viên hiểu sâu hơn về những vấn đề cần
quan tâm đồng thời thực hiện được việc bồi dưỡng và tự bồi dưỡng, giải quyết
những thắc mắc về cách tổ chức các hoạt động cũng như việc thực hiện chương
trình. Trong các buổi họp này giáo viên sẽ được góp ý, giúp đỡ trực tiếp cho
từng giáo viên đứng lớp trong việc xây dựng kế hoạch cũng như quá trình thực
hiện quan sát, đánh giá trẻ.
Nhà trường thường xuyên tổ chức thao giảng, dự giờ, thi giáo viên giỏi
các cấp. Khi có các hoạt động sinh hoạt chuyên môn theo chủ đề, chủ điểm thì
chỉ đạo giáo viên dự giờ thăm lớp để qua đó cọ xát chuyên môn, rút ra những
kinh nghiệm hữu ích trong thực hiện chương trình giảng dạy.
6


(Dự giờ tại lớp mẫu giáo 3 –4 tuổi)
Để nâng cao chất lượng thực hiện chương trình giáo dục, tôi đã chỉ đạo
thành lập tổ thanh tra, giám sát chuyên môn. Tổ giám sát chuyên môn sẽ tổ chức
dự giờ theo định kỳ và cả dự giờ đột xuất. Tuy nhiên, việc dự giờ đột xuất giáo
viên chỉ được báo trước từ 10 - 15 phút tuỳ từng hoạt động.
Sau mỗi hoạt động dự giờ tôi tổ chức cho giáo viên góp ý chỉ rõ những
ưu, khuyết điểm của hoạt động đó để giáo viên rút kinh nghiệm. Đối với những
giáo viên còn hạn chế về mặt chuyên môn, nghiệp vụ sẽ được phân công với
giáo viên có kinh nghiệm vững vàng tạo điều kiện để giúp đỡ chuyên môn; tổ

chức cho giáo viên được dự giờ học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp nhiều hơn.
Thực hiện dự giờ các hoạt động dạy học của các đồng chí đó để kiểm chứng sự
tiến bộ của giáo viên trong hoạt động này.
Tổ chức cho giáo viên được đi học tập, tham quan các mô hình dạy học ở
các trường mầm non trong tỉnh; để quan sát môi trường hoạt động trong và
ngoài lớp học ở các địa phương. Từ đó, nâng cao kinh nghiệm thực tiễn, giúp
giáo viên ứng dụng sáng tạo trong việc trang trí vào trường, lớp mình một cách
sinh động, hợp lý. Ngoài việc học tập, học hỏi lẫn nhau giữa giáo viên, thì việc
trau dồi kiến thức qua tài liệu, sách vở cũng cần được quan tâm. Nhà trường
thành lập tủ sách, mua sắm, sưu tầm nhiều loại sách báo, tập san, tài liệu liên
quan đến giáo dục mầm non, nhất là tài liệu chương trình giáo dục mầm non để
giáo viên tham khảo, qua đó bổ trợ thêm kiến thức và hiểu biết cho giáo viên về
chương trình giáo dục mầm non.
2.3.2. Tổ chức hướng dẫn cho giáo viên lập kế hoạch thực hiện chương
trình giáo dục mầm non

7


Kế hoạch giáo dục giúp cho việc thực hiện mục tiêu một cách đầy đủ, có
hệ thống, giúp giáo viên dự kiến trước thời gian, nội dung để tổ chức chương
trình giáo dục một cách hiệu quả.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng kế hoạch thực hiện
chương trình giáo dục mầm non theo thông tư 28/2016/TTBGD&ĐT. Để lập kế
hoạch chăm sóc, giáo dục, chuyên môn xây dựng kế hoạch giáo dục năm học
cho từng độ tuổi căn cứ vào thực trạng đã khảo sát về chất lượng trẻ. Hướng dẫn
giáo viên xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình cụ thể cho từng độ tuổi. Với
vai trò là phó hiệu trưởng tôi xây dựng kế hoạch nhiệm vụ chung của năm học.
Sau khi thu thập và xử lí các thông tin, tập hợp số liệu và hình thành bản kế
hoạch tổng thể thực hiện chương trình. Khi đã hình thành bản kế hoạch tổng thể

thực hiện chương trình giáo dục nhà trường, tôi xin ý kiến chỉ đạo của hiệu
trưởng và tổ chức họp công bố các chỉ tiêu, nhiệm vụ của năm học đã được dự
kiến và hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch cá nhân trên tinh thần của kế
hoạch đó.

(Hình ảnh nhà trường hướng dẫn giáo viên lập kế hoạch)
Đối với các kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục của giáo viên. Tôi
luôn chấp nhận những kế hoạch giáo dục phù hợp với điều kiện nhà trường, đối
tượng giáo dục và phát huy tốt hoạt động giáo dục. Để kế hoạch giáo dục không
mang tính hình thức, khuyến khích giáo viên thể hiện những ý tưởng mới, sáng
tạo, không khắt khe, gò ép theo khuôn mẫu. Kế hoạch giáo dục phải của riêng
giáo viên, không viết dài dòng, mang tính cá nhân.
Để giáo viên xây dựng được kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục
cần đáp ứng được mục tiêu: nhằm cụ thể hoá nội dung trong chương trình, phù
hợp với đặc điểm của từng trẻ, phù hợp với điều kiện vật chất của lớp, của
trường và văn hoá của địa phương, từ đó giúp giáo viên chủ động trong việc tiến
8


hành tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục và giúp trẻ phát triển theo mục
tiêu yêu cầu đã đề ra.
Yêu cầu giáo viên khi lên kế hoạch thực hiện một chương trình giáo dục
nào cũng phải dựa vào mục tiêu cần đạt ở cuối độ tuổi mà mình đang dạy để xây
dựng kế hoạch giáo dục. Kết hợp với kết quả mong đợi trong chương trình giáo
dục mầm non, các tiêu chí đánh giá trẻ trong lớp mình và cơ sở vật chất có trong
lớp, trong trường. Từ đó cụ thể hoá nội dung và dự kiến chủ đề, thời gian thực
hiện. Nội dung trong chương trình là những vấn đề cơ bản, cốt lõi. Vì vậy giáo
viên phải cụ thể nội dung và xác định phương pháp, phương tiện dạy học phù
hợp với đặc điểm trẻ của lớp mình và phù hợp với địa phương.
Ví dụ: Trong lĩnh vực phát triển thể chất. Nội dung giáo dục dinh dưỡng

của trẻ 5 tuổi làm quen với một số thao tác đơn giản trong chế biến món ăn, thức
uống. Giáo viên phải lựa chọn món ăn, thức uống nào cho phù hợp với trẻ ở địa
phương như: Làm món trộn (nộm), rán trứng, làm muối lạc, vừng ... Pha nước
cam, chanh, làm nước hoa quả...những món ăn thức uống này phù hợp với trẻ từ
đó mới kích thích trẻ hoạt động tích cực, bởi những món ăn, thức uống này trẻ
đã được ăn, được uống thường xuyên.
Việc cụ thể nội dung sẽ tạo ra một bản kế hoạch năm mang nét riêng biệt.
Từ đó nội dung cụ thể của từng lĩnh vực, giáo viên dự kiến chủ đề và thời gian
thực hiện dựa vào gợi ý mà chuyên môn đưa ra.
Đối với việc xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục theo chủ
đề. Tôi hướng dẫn giáo viên khi xác định nội dung chủ đề phải bám sát vào nội
dung chương trình đã được cụ thể trong bản kế hoạch giáo dục năm. Nội dung
của chủ đề là một phần nội dung của chương trình và phù hợp với nhu cầu và
hứng thú của trẻ. Việc chọn chủ đề chỉ là cái cớ để chuyển tải nội dung chương
trình. Do đó, nếu chỉ quan tâm đến nội dung chủ đề thì sẽ không có điểm dừng
và không đáp ứng được mục tiêu của chương trình.
Việc xây dựng mạng nội dung giáo viên có thể xây dựng mạng nội dung
bằng cách liệt kê những nội dung của các lĩnh vực trong kế hoạch giáo dục năm
có liên quan đến chủ đề, sau đó nhóm những nội dung tương tự nhau thành chủ
đề nhánh. Mỗi chủ đề nhánh được thực hiện trong khoảng từ 1- 2 tuần. Mỗi chủ
đề lớn thường có từ 2 – 4 tuần, thời gian của mỗi chủ đề lớn không nên kéo dài
quá 5 tuần để tránh nhàm chán cho trẻ.
Việc hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình giáo
dục giáo dục trong tuần. Tôi yêu cầu giáo viên xây dựng kế hoạch tuần không
dựa vào một thời khoá biểu cứng nhắc mà chỉ phụ thuộc vào mạng hoạt động.
Với cách tiếp cận “Lấy trẻ làm trung tâm” đòi hỏi giáo viên phải quan sát và
nắm vững khả năng của từng trẻ trong lớp, xác định các kiến thức, hệ thống kỹ
năng cần dạy cho trẻ để linh hoạt sắp xếp các hoạt động vào các thời điểm trong
ngày một cách phù hợp.
Khi lập kế hoạch tuần, giáo viên cần lưu ý: Các nội dung được thực hiện

thông qua hoạt động học là những nội dung mới và chưa biết đối với trẻ. Những
9


nội dung mà trẻ đã biết và quen thuộc thì tố chức ở các thời điểm khác trong
ngày (đón trẻ, trả trẻ, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời...)
2.3.3. Xây dựng môi trường giáo dục cho trẻ hoạt động:
Để nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ, việc xây dựng môi
trường giáo dục được nhà trường và giáo viên đặc biệt quan tâm. Đây là yếu tố
quan trọng để cho trẻ học tập và vui chơi. Xây dựng môi trường giáo dục tốt
phát huy tính tích cực độc lập của trẻ. Trẻ ở độ tuổi mầm non đã có những biểu
hiện đầu tiên của tính tích cực. Chính điều này đòi hỏi người giáo viên phải tạo
cơ hội cho trẻ được thể hiện mình, tự khẳng định khả năng của trẻ trên tất cả các
hoạt động, tin tưởng vào ý kiến của trẻ, tránh áp đặt ý kiến lên trẻ. Khi tổ chức
các hoạt động yêu cầu giáo viên đặc biệt lưu ý đến cách nhìn, cách nghĩ và sự
hứng thú của trẻ.
Để nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ tôi chỉ đạo giáo viên đặc
biệt quan tâm đến việc trang trí môi trường trong lớp học. Đây là yếu tố quan
trọng để cho trẻ học tập và vui chơi, nên các phòng học được bố trí đảm bảo về
diện tích, các đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc học hành, giải trí và ăn, nghỉ
của trẻ như: tivi kết nối mạng internet, bàn ghế, chăn, chiếu, các góc chơi được
sắp xếp hợp lý, khoa học, đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp vào mùa đông.

(Hình ảnh các góc hoạt động được bố trí sắp xếp hợp lý)
Nhằm đảm bảo cho trẻ học và chơi ở mỗi góc được tốt hơn và đạt hiệu
quả cao hơn tôi yêu cầu giáo viên sắp xếp, bố trí các giá đồ chơi, giá góc đầy đủ
về số lượng, đảm bảo về quy cách và an toàn cho trẻ, đồ dùng đồ chơi cho trẻ
hoạt động được để ở vị trí dễ lấy, dễ tìm, dễ sử dụng. Môi trường bên trong lớp
học được giáo viên quan tâm trú trọng đến việc sắp xếp các góc chơi theo đúng


10


nguyên tắc như: góc học tập, góc nghệ thuật, góc phân vai, góc xây dựng cho
đến góc thiên nhiên...

(Hình ảnh trẻ đangchơi ở các góc)
Ngoài môi trường trong lớp tôi còn tham mưu với hiệu trưởng đầu tư kinh
phí để xây dựng môi trường giáo dục ngoài lớp tạo cơ hội cho trẻ tìm hiểu, khám
phá, trải nghiệm. Trẻ ở độ tuổi mầm non còn rất hiếu động, ham thích được hoạt
động. Vì thế, để thu hút trẻ vào các hoạt động có tính chất tìm kiếm, khám phá,
giáo viên cần phải biết tạo môi trường và biết lựa chọn các hoạt động phù hợp
với lứa tuổi, chuẩn bị thật chu đáo các điều kiện để trẻ được hoạt động trải
nghiệm và gây hứng thú, tạo tình huống để trẻ tham gia hoạt động trải nghiệm
một cách tự nhiên nhất.
Với lợi thế khuôn viên sân trường rộng rãi, có nhiều cây bóng mát, tôi đã
tham mưu với nhà trường và lãnh đạo các cấp bố trí, sắp xếp các khu hoạt động
hợp lý, an toàn để trẻ được vui chơi một cách tích cực và có hiệu quả như: Khu
vực vận động có: Sân vận động, sân bóng đá mini; Khu vực môi trường có vườn
cổ tích, cát nước, trẻ chơi với con vật; Khu vực yên tỉnh, khu vực chơi sáng tạo,
để mỗi khi ra chơi trẻ được lựa chọn trò chơi và khu vực chơi mình yêu thích.

11


(Hình ảnh khu vực trẻ làm quen và chơi với con vật)
Trong khu vực môi trường tôi cùng giáo viên xây dựng khu vực chơi cát
nước. Trò chơi với cát, nước và sỏi là trò mà trẻ tập trung cao độ giúp trẻ hiểu
được quy luật chìm nổi, trẻ biết đong đếm khi chơi với nước, biết in hình ngộ
nghĩnh trên cát, xếp hình bằng sỏi và giúp trẻ kiên trì để câu cá... Trò chơi khám

phá khoa học giúp trẻ tìm hiểu khám phá các kiến thức khác nhau về sự vật hiện
tượng có xung quanh trẻ.

(Khu vực trẻ chơi với cát, nước)
12


Bằng các nguyên liệu sẵn có tại địa phương như tre, luồng, lá dừa tươi tôi
chỉ đạo giáo viên tạo ra các liều lá và sắp xếp tại khu vực yên tĩnh để trẻ được
nghỉ ngơi thư giãn, trẻ thả mình vào không gian thư giãn với những hoạt động
nhẹ nhàng (trẻ có thể đấm lưng cho nhau, chơi các trò chơi dân gian nhẹ nhàng:
ô ăn quan, nu na nu nống.., hoặc trẻ cùng nhau đọc sách; làm con vật bằng lá
cây, ngồi nói chuyện chia sẽ cùng bạn bè…)

(Hình ảnh trẻ chơi ở khu vực yên tĩnh)
Để xây dựng môi trường và tổ chức các hoạt động theo hướng tích hợp và
“Lấy trẻ làm trung tâm”, nếu không có sự đầu tư về đồ dùng, đồ chơi thì khó có
thể thực hiện tốt các nội dung của chương trình. Vì thế tôi phát động phong trào
làm đồ dùng đồ chơi đến mỗi giáo viên, coi như đây là một tiêu chí đánh giá,
xếp loại hàng tháng. Xuất phát từ yêu cầu thực tế của từng khối lớp mà giáo viên
tự sáng tạo, làm ra các loại đồ dùng, đồ chơi từ các nguyên vật liệu phế thải, các
loại nguyên liệu của địa phương để tổ chức các hoạt động cho trẻ. Từ các loại đồ
dùng, đồ chơi giúp trẻ được khám phá các chủ đề theo nhiều hướng khác nhau.
Từ đó, trẻ có ham muốn khám phá và thích thú khi tham gia các hoạt động.
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi mời những giáo viên có nhiều sáng
tạo trong việc làm đồ dùng, đồ chơi lên giới thiệu cách làm cũng như cách sử
dụng các đồ chơi đó. Các giáo viên khác trong trường có thể tham khảo hoặc
góp ý thêm về phương pháp, cách tổ chức, việc sử dụng đồ dùng, đồ chơi có
hiệu quả hơn ở các độ tuổi khác nhau.
Cùng với việc tổ chức hướng dẫn giáo viên làm đồ dùng, nhà trường cần

khuyến khích động viên giáo viên tổ chức, hướng dẫn cho trẻ làm đồ dùng, đồ chơi
sáng tạo, đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Để làm được điều này, giáo viên cần
chuẩn bị các loại nguyên liệu đa dạng, phong phú và cho trẻ tự do suy nghĩ, nhớ lại,
tự chọn cách làm ra các sản phẩm. Trong quá trình thực hiện, cô gợi ý, hướng dẫn
để trẻ sáng tạo và giúp trẻ những thao tác cần thiết để tạo ra sản phẩm.
13


Ví dụ: Cô hướng dẫn trẻ làm con chuồn chuồn, con cua từ 1 thìa và hạt
hướng dương, từ vỏ lạc; làm con vật bằng lá cây:

(Giáo viên hướng dẫn trẻ làm các con vật từ vật liệu thiên nhiên)
Trong các dịp như: Họp phụ huynh, đầu chủ đề, ngày hội ngày lễ... giáo
viên tuyên truyền, phát động cho các bậc phụ huynh hỗ trợ nguyên vật liệu hoặc
làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ chơi ở nhà; mang đến lớp, đến trường cho bạn
cùng chơi,… nhất là các đồ chơi dân gian, sử dụng các nguyên liệu địa phương.
Qua đó tạo được mối quan hệ khăng khít giữa nhà trường và gia đình trong việc
làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ thực hiện các chủ đề.
2.3.4. Cung cấp kiến thức về việc khám phá một chủ đề cho giáo viên:
Để thực hiện tốt một chủ đề, lưu ý cho giáo viên những vấn đề sau:
Nắm chắc 3 bước để phát triển 1 chủ đề:
Chủ đề giống như một câu chuyện có mở đầu, phần giữa và phần kết thúc.
Cấu trúc này giúp giáo viên tổ chức hoạt động theo sự phát triển những mối
quan tâm của trẻ và môi trường cá nhân với chủ đề học. Trong kế hoạch chuẩn
bị, giáo viên sẽ lựa chọn chủ đề (dựa vào sự quan tâm của trẻ, dựa vào chương
trình...). Giáo viên cũng phải vận dụng kinh nghiệm, kiến thức và ý tưởng của
bản thân đưa chúng vào mạng chủ đề. Mạng này sẽ tiếp tục được bổ sung thêm
trong quá trình khám phá và dùng để khám phá chủ đề.
Bước 1: Bắt đầu chủ đề
Bước 2: Phát triển chủ đề

Bước 3: Kết thúc chủ đề:
Lựa chọn chủ đề: Khi lựa chọn chủ đề cần đảm bảo những yêu cầu sau:
- Chủ đề gần gũi với trẻ
- Chủ đề có thể tạo kinh nghiệm cho trẻ
- Gần gũi với các lĩnh vực xã hội
- Lựa chọn chủ đề phụ huynh có thể tham gia
14


- Liên kết các yếu tố tự nhiên, xã hội
- Có thể tạo hứng thú cho tất cả trẻ, chủ đề có thể phát triển bằng nhiều
cách khác nhau.
- Chủ đề có thể ứng dụng nhiều kỹ năng cơ bản.
- Phạm vi của chủ đề đúng mức, không rộng quá, không hẹp quá.
2.3.5. Tăng cường việc hướng dẫn giáo viên thực hiện tốt việc giáo dục
tích hợp các hoạt động một cách phù hợp.
Thực hiện chương trình giáo dục mầm non gắn liền với quan niệm “Tích
hợp”. Thế nhưng hiện nay, việc dạy theo hướng tích hợp vẫn còn bị nhiều người
quan niệm chưa thực sự đúng. Vì vậy, tôi luôn đẩy mạnh việc trang bị quan điểm
tích hợp cho giáo viên thực hiện chương trình giáo dục.
Việc giáo dục tích hợp cho trẻ không chú trọng vào việc trang bị kiến thức
mà chủ yếu nhằm phát triển toàn diện cho trẻ. Nếu giáo viên chú trọng việc
trang bị kiến thức thì khó có cơ hội giáo dục tích hợp. Đây là cách giúp giáo
viên tiết kiệm thời gian trong ngày để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra.
Ví dụ: Khi dạy trẻ đánh răng, ngoài việc dạy cho trẻ thói quen vệ sinh,
giáo viên còn giúp trẻ học nhiều thứ khác như: Nhận biết đồ dùng, thiết bị vệ
sinh và chức năng của chúng; cảm nhận, phân biệt được ướt, khô, quan sát được
tuýp đánh răng hết dần đi sau một thời gian, cảm nhận được tính chất của nước...
Giáo dục tích hợp luôn song hành với việc tổ chức học chủ động, tích cực
từ phía trẻ. Khi nào trẻ được khuyến khích chủ động hỏi, tự tìm hiểu, quan sát,

bày tỏ cảm xúc và thể hiện cách làm riêng... khi đó mới tạo cơ hội và tình huống
cho giáo viên mở rộng, tích hợp vào các nội dung giáo dục đã lên kế hoạch trước.
Không nhất thiết lúc nào chúng ta cũng phải tích hợp. Có những hoạt
động đặc thù mà ở đó giáo viên cần phải hình thành những kỹ năng chuyên biệt
nào đó (ví dụ kỹ năng tạo hình).

15


(Hình ảnh giáo viên hướng dẫn trẻ thực hiện hoạt động tạo hình)
Tuy nhiên, giáo viên cũng nên giành nhiều thời gian nghiên cứu, sau đó
hướng dẫn, làm mẫu những gì thực sự cần thiết và thường xuên tổ chức cho trẻ
tự thực hành.
2.3.6. Tăng cường và khai thác hiệu quả các điều kiện về cơ sở vật chất,
thiết bị, đồ dùng, đồ chơi hiện có.
Nhà trường đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của lãnh đạo các cấp trong
việc đầu tư mua sắm trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi. Ngoài ra, nhà trường luôn
làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục; vận động hội cha mẹ học sinh ủng hộ nhà
trường mua sắm các loại trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học cũng
như các hoạt động của trẻ trong ngày.
Cùng với việc mua sắm đồ dùng, đồ chơi mới nhà trường đã tổ chức rà
soát lại cơ sở vật chất hiện có của nhà trường và các nhóm lớp. Lên kế hoạch
mua bổ sung các thiết bị theo danh mục quy định như: máy chiếu, máy tính sách
tay, các đồ dùng phục vụ học tập, các loại sách phục vụ công tác chuyên môn...
Lập kế hoạch sử dụng tối đa và hiệu quả diện tích sân vườn, không gian
trong và ngoài lớp học, các phòng chức năng để phục vụ các hoạt động đa dạng
của trẻ và phù hợp với hoạt động của từng nhóm lớp. Xây dựng và điều phối lịch
sử dụng của toàn trường. Theo dõi việc thực hiện của các nhóm lớp, tránh tình
trạng “Học đồng loạt, chơi đồng loạt” không tận dụng được không gian hợp lý.
Phân bổ kinh phí một cách hợp lý, dành một phần thích đáng cho việc

mua học liệu để thực hiện các hoạt động khám phá của trẻ, các nguyên liệu để
giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi. Tránh tình trạng giáo viên mất nhiều thời gian
cho việc tìm kiếm những thứ này.
Để tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng phục vụ công tác
nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ. Tôi cùng với BCH làm tốt công tác xã hội
hoá giáo dục. Vì vậy trong năm học phụ huynh đã ủng hộ nhà trường làm khu
vực mái tôn và vẽ tranh toàn bộ khuôn viên nhà trường với tổng kinh phí là:
115.000.000đ.
Tham mưu với chính quyền địa phương về việc tu sửa và mua sắm mới
một số đồ dùng dạy và học như: tu sửa các phòng học, tạo môi trường cho trẻ
hoạt động tại vườn cổ tích; khu vực chơi với con vật...Phát huy tối đa việc xây
dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Trong quá trình thực hiện chương trình, CSVC chỉ đáp ứng một phần,
điều quan trọng là giáo viên đứng lớp phải có nguồn tài liệu đủ theo danh mục
để thực hiệm nhiệm vụ chuyên môn. Ngay từ đầu năm học nhà trường đã cung
cấp đầy đủ các loại tài liệu chương trình giáo dục mầm non theo thông tư
28/2016/TT-BGĐT cho tất cả cán bộ giáo viên. Giáo viên được nghiên cứu
những nội dung sửa đổi, bổ sung so với chương trình GDMN theo thông tư
28/2016/TT-BGĐT.
2.4. Hiệu quả của SKKN

16


Bằng kinh nghiệm thực tiễn sau một thời gian áp dụng các biện pháp trên
chất lượng nhà trường được nâng lên rõ rệt, đội ngũ giáo viên kịp thời nắm bắt
thông tin, bồi dưỡng thường xuyên về nội dung, phương pháp thực hiện chương
trình. Các nhóm lớp đáp ứng tốt về cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho
việc chăm sóc giáo dục trẻ, trang bị cho lớp 5 tuổi đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng
đồ chơi đáp ứng Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, ứng dụng công

nghệ thông tin trong giáo dục, xây dựng nguồn tư liệu cho chủ đề. Môi trường
cho trẻ hoạt động trong và ngoài lớp đảm bảo kích thích được tư duy, suy nghĩ
độc lập cuả trẻ thông qua nội dung bài tập ở các góc chơi trong lớp. Giáo viên
các khối lớp đã nâng cao hiểu biết về Chương trình giáo dục mầm non, tạo điều
kiện cho giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch phù hợp với khả năng và điều
kiện của lớp, kiến thức của trẻ để tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ. Điều quan
trọng là giáo viên biết cách, chủ động lập kế hoạch giáo dục theo chủ đề khi sử
dụng kế hoạch giáo dục năm học của ban giám hiệu, xây dựng môi trường giáo
dục phong phú đa dạng tạo nhiều cơ hội và tình huống cho trẻ được trải nghiệm.
Linh hoạt sáng tạo trong sử dụng phương pháp tổ chức các hoạt động. Bằng
nhiều hình thức tổ chức khác nhau nhưng để đạt được mục đích cuối cùng là thu
hút được trẻ tham gia và giúp trẻ có cảm giác thoải mái trong quá trình tham gia
các hoạt động.
KẾT QUẢ SAU KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

- Đối với giáo viên:
Nội dung
- Nhận thức về chương
trình GDMN theo thông
tư 28/2016/TTBGD&ĐT
- Xây dựng kế hoạch phù
hợp với độ tuổi.
- Xây dựng môi trường
giáo dục có hiệu quả.
Tạo nhiều cơ hội cho trẻ
được trải nghiệm.
- Vận dụng sáng tạo, linh
hoạt các phương pháp
trong tổ chức hoạt động
- Kỹ năng đánh giá trẻ


Tống
số

Loại tốt

Loại khá

Loại TB

Số
lượng

Tỷ lệ

Số
lượng

Tỷ lệ

Số
lượng

35

32

91,4

3


8,6

0

35

31

88,6

4

11,4

0

35

26

74,3

9

25,7

0

35


30

85,7

5

14,3

0

35

28

80

7

20

0

17

Tỷ
lệ


- Đối với học sinh:

Số trẻ đạt
Nội dung khảo sát

- Trẻ nắm được
những kiến thức cơ
bản thông qua các
lĩnh vực phát triển.
- Trẻ tích cực, hứng
thú khi tham gia các
hoạt động
- Phát huy khả năng
tìm tòi, trí tưởng
tượng sáng tạo ở trẻ

Tổng
số

Tốt

Khá

Trung
bình

Số trẻ
chưa đạt

SL

Tỷ lệ


SL

Tỷ lệ

SL

Tỷ lệ SL

552

265

48

218

39,5

69

12,5

0

552

267

48,4


215

38,9

70

12,7

0

552

269

48,7

215

38,9

68

12,4

0

Tỷ
lệ


* Kết quả đạt được qua các hội thi các cấp:
- Giáo viên giỏi cấp trường: 30/35 = 85.7%; Giáo viên giỏi cấp huyện: 4
= 11,4%; Giáo viên giỏi cấp tỉnh: 3 = 8,8%.
+ Tập thể đạt giải nhì cấp huyện và cấp Tỉnh cuộc thi “Xây dựng môi
trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”. Cuộc thi không những xây dựng được
môi trường giáo dục trong và ngoài lớp học mà trẻ còn được tham gia các hoạt
động trải nghiệm có hiệu quả. Qua cuộc thi đã thu hút được sự ủng hộ của hội
cha mẹ học sinh và cộng đồng.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua một thời gian nghiên cứu về lí luận và thực tiễn công tác chỉ đạo giáo
viên thực hiện chương trình giáo dục trong trường Mầm non, tôi rút ra một số
kết luận về công tác này như sau:
Chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non là một
trong những yếu tố hết sức quan trọng để góp phần nâng cao chất lượng chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ trong nhà trường. Chỉ đạo giáo viên thực hiện
tốt chương trình giáo dục mầm non là một công việc hết sức cần thiết đối với
những người làm công tác quản lý. Đặc biệt là quản lý chuyên môn của trường
mầm non. Nếu tất cả giáo viên làm tốt công việc này thì một thế hệ măng non
của chúng ta sẽ được tiếp nhận sự chăm sóc giáo dục một cách đúng đắn, toàn
diện và khoa học. Trẻ có cơ hội để phát triển đầy đủ các mặt: Đức, trí, thể, mỹ,
lao động góp phần tạo nên con người mới, phù hợp với sự phát triển chung của
xã hội và toàn thế giới trong xu thế hội nhập hiện nay.
18


Như vậy, với thời gian thực hiện chương trình giáo dục mầm non. Nhà
trường đã từng bước đi sâu vào nội hàm của việc nâng cao chất lượng của
chương trình, từ đó có các biện pháp chỉ đạo hữu hiệu để cho giáo viên thực
hiện chương trình một cách tốt nhất, phát huy được tính chủ động sáng tạo của

từng giáo viên, rèn cho giáo viên cách tư duy độc lập, sáng tạo. Từ đó, chất
lượng giáo dục của nhà trường ngày càng được nâng lên rõ rệt.
3.2. Kiến nghị
Để đảm bảo yêu cầu chăm sóc giáo dục trẻ trong giai đoạn mới, đáp ứng
với xu thế hội nhập hiện nay, tôi xin mạnh dạn có một số những kiến nghị và đề
xuất sau:
Đối với UBND huyện
Chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời công tác: hợp đồng cô nuôi, luân chuyển giáo
viên, để đảm bảo cân đối đội ngũ giáo viên trong các nhà trường.
Chỉ đạo các địa phương tăng cường chăm lo xây dựng CSVC, trang thiết
bị theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, kiên cố hoá trường học.
Đối với Phòng GD&ĐT huyện:
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên mầm non.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi với mong muốn nâng cao
chất lượng thực hiện Chương trình giáo dục mầm non ở Trường mầm non Thị
trấn Bến Sung. Rất mong nhận được sự đóng góp, xây dựng ý kiến của các cấp
lãnh đạo, của Hội đồng khoa học các cấp và bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến
kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện và hiệu quả hơn.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Như Thanh, ngày 25 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Hoàng Thị Chung
Lê Thị Lương


19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Chương trình giáo dục mầm non, Nhà xuất bản
Giáo Dục Việt Nam tháng 10 năm 2017 [1].
2. Lời dặn của Bác Hồ với giáo viên Mầm non ngày 23/9/1959 [2].
3. Bộ Giáo dục và đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ
quản lí giáo viên mầm non, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam năm 2016 [3].
4. Bộ Giáo dục và đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ
quản lí giáo viên mầm non, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam năm 2017 [4].
5. TS: Lê Thu Hương, Trần Thị Ngọc Trâm; PGS,TS: Lê Thị Ánh Tuyết
(Đồng Chủ biên), Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non mẫu giáo lớn (5- 6 tuổi), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tháng 08 năm 2017 [5].
6. TS: Lê Thu Hương, Trần Thị Ngọc Trâm; PGS,TS: Lê Thị Ánh Tuyết
(Đồng Chủ biên), Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non
- mẫu giáo nhỡ (4 - 5 tuổi), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, ngày 11 tháng 8
năm 2017 [6].
7. TS: Lê Thu Hương, Trần Thị Ngọc Trâm; PGS,TS: Lê Thị Ánh Tuyết
(Đồng Chủ biên), Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non
- mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, ngày 11 tháng 8
năm 2017 [7].
8. Chủ biên: Trần Thị Ngọc Trâm: Hướng dẫn xây dựng và thực hiện kế
hoạch theo chủ đề - nhà trẻ (25 - 36 tháng tuổi), nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam, 2016[8].
9. TS: Lê Thu Hương, PGS,TS: Lê Thị Ánh Tuyết (Đồng Chủ biên),
Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non - nhà trẻ (25 - 36
tháng tuổi), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, ngày 11 tháng 8 năm 2009. [9]
10. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non, [10].

20



21



SKKN: Công tác chỉ đạo lập kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non Liên Thủy, thuộc huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình

Việc đổi mới chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non là hết sức cần thiết và cấp bách, đáp ứng xu thế đổi mới Giáo dục nói chung, đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn đầu chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà... » Xem thêm

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO LẬP KẾ HOẠCH THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC MẦM NON MỚI CHO TRẺ MẪU GIÁO Ở TRƯỜNG MẦM NON LIÊN THỦY, THUỘC HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH
  2. PHẦN MỞ ĐẦU Giáo dục - đào tạo là một bộ phận hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng văn hóa dân tộc. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quôc lần thứ X khẳng định “ Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Giáo dục là một trong những nhân tố quyết định sự nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn tiến hành tốt thì phải đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo. Phát huy mọi nguồn lực con người là yếu tố cơ bản của việc phát triển nhanh và bền vững. Trách nhiệm này đầu tiên đặt lên vai của ngành giáo dục, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu tìm tòi, thiết kế nội dung chương trình, đặc biệt là đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học một cách tích cực. Giáo dục không chỉ hoàn thành việc đào tạo những con người thích ứng với xã hội mà còn đào tạo ra những con người có đủ phẩm chất và trí tuệ để đón đầu sự phát triển của xã hội. Cùng với xu thế phát triển chung của xã hội, nhu cầu và phát triển của trẻ em trong những năm gần đây có những thay đổi đòi hỏi cần có chương trình giáo dục phù hợp. Đổi mới chương trình giáo dục trẻ là việc cần làm thường xuyên để đáp ứng với nhu cầu và sự phát triển chung của xã hội. Đổi mới đồng bộ các thành tố của chương trình ( mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức, các điều kiện thực hiện, đánh giá ). Xây dựng chương trình giáo dục mầm non theo hướng tiếp cận phát triển và tiếp cận tích hợp, giáo dục hướng vào trẻ, lấy trẻ làm trung tâm. Nhân dân ta vốn có truyền thống: “Tôn sư trọng đạo” luôn đề cao nghề dạy học. Vì thế là một người cán bộ quản lý đứng trước một ngành học tôi nhận thức được trách nhiệm của chính bản thân mình. Phải suy nghỉ đầu tư vào chỉ đạo thực hiện chương trình mới hiện hành cho giáo viên, tạo mọi điều kiện để từng giáo viên phấn đấu học tập rèn luyện trở thành người
  3. chiến sỹ cách mạng trên mặt trận tư tưởng văn hóa, cách mạng của giai cấp công nhân, tinh hoa văn hóa của dân tộc, bồi dưỡng cho trẻ những phẩm chất cao quý và những năng lực sáng tạo của con người lao động mới xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ giáo viên là lực lượng nồng cốt trong sự nghiệp giáo dục, góp phần quyết định sự thành công trong đổi mới giáo dục. Chính vì thế mà đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ văn hóa, có trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, có tâm huyết với nghề nghiệp, có lòng yêu nghề mến trẻ, chăm sóc trẻ như chính con em mình. Cô giáo luôn là tấm gương bốn mặt cho trẻ noi theo, được tin yêu, tôn trọng và thực sự người mẹ thứ hai của các cháu. Việc chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới là vấn đề cần thiết, cần được quan tâm trong đội ngũ giáo viên hiện nay, nhận thức được vấn đề này tôi đã nghiên cứu, tham khảo, xây dựng kế hoạch, nội dung và phương pháp cụ thể dựa vào mục tiêu giáo dục mầm non mới. Với những lý do nêu trên, việc đổi mới chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non là hết sức cần thiết và cấp bách, đáp ứng xu thế đổi mới Giáo dục nói chung, đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn đầu chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Chính vì thế tôi đã chọn: Công tác chỉ đạo lập kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non Liên Thủy, thuộc Huyện Lệ Thủy, Tỉnh Quảng Bình PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sỡ khoa học Trẻ em như búp trên cành Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan. ( Trích thơ Bác Hồ)
  4. Bác Hồ của chúng ta có một mong muốn là tất cả trẻ em Việt Nam phải được quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng từ lứa tuổi nhà trẻ - mẫu giáo. Người đã chăm lo đến từng bữa ăn giấc ngủ cho các cháu. Hiểu được lời nói của Bác bản thân là người cán bộ quản lý, chỉ đạo đứng trước một bậc học tôi hiểu rỏ trách nhiệm của mình cần phải làm gì ? để góp phần vào mục tiêu giáo dục mầm non. Nhằm chăm sóc nuôi dưỡng trẻ từ 5 - 6 tuổi đạt chất lượng tốt và việc chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non cho đội ngũ giáo viên đạt hiệu quả. Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, tình cảm, thẫm mĩ của trẻ em Việt Nam. Phát triển giáo dục mầm non là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm quản lý, tăng cường đầu tư cho giáo dục mầm non, hổ trợ cơ sỡ vật chất, đào tạo đội ngũ nhà giáo, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách để mọi tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục mầm non. Xây dựng sự gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Mỡ rộng và nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ cho các bậc phụ huynh, cha mẹ của trẻ, nhằm phối hợp đa dạng hóa nhiều phương thức chăm sóc giáo dục trẻ em. Chương trình được xây dựng là chương trình khung, bao gồm những nội dung cơ bản cốt lõi và có tính linh hoạt, mềm dẻo làm cơ sỡ cho việc lựa chọn những nội dung giáo dục cụ thể, phù hợp với kinh nghiệm sống, khả năng của trẻ và thực tế của từng địa phương, vùng miền. II. Cơ sỡ thực tiễn:
  5. Nội dung chủ yếu và những điểm mới của chương trình giáo dục mầm non: Những vấn đề chung, bao gồm các nội dung: Mục tiêu giáo dục mầm non: Quan điểm xây dựng và phát triển chương trình: Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục, đánh giá trẻ: Cấu trúc chương trình: Quy định và hướng dẫn thực hiện chương trình. Chương trình giáo dục nhà trẻ và mẫu giáo được cấu trúc thành một văn bản chương trình khung với tên: Chương trình giáo dục mầm non. Chương trình Giáo dục mầm non quốc gia mang tính chất khung. + Nội dung chương trình gồm những nội dung cốt lõi, cơ bản phù hợp theo từng độ tuổi. + Chương trình có độ mở, cho phép linh hoạt nhằm tăng cường tính chủ động của giáo viên trong việc lựa chọn những nội dung giáo dục cụ thể phù hợp với kinh nghiệm sống và khả năng của trẻ, điều kiện thực tế của địa phương. + Các hoạt động giáo dục, hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục; đánh giá sự phát triển của trẻ được đưa vào như một thành tố của chương trình. + Kết quả mong đợi được đưa vào chương trình nhằm định hướng cho giáo viên tổ chức hướng dẫn có hiệu quả các hoạt động giáo dục, phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội, thẫm mĩ, chuẩn bị tốt cho trẻ khi vào ở trường phổ thông. - Mục tiêu: + Mục tiêu được xây dựng cho trẻ cuối độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo theo các lĩnh vực phát triển của trẻ, nhằm hướng đến phát triển trẻ toàn diện về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội, thẫm mĩ.
  6. + Chú trọng hình thành ở trẻ những chức năng tâm lý, năng lực chung của con người. Phát triển tối đa tiềm năng vốn có, hình thành những kĩ năng sống cần thiết cho trẻ và phù hợp với yêu cầu của gia đình, cộng đồng, xã hội. + Chuẩn bị tốt cho trẻ vào học giai đoạn sau. Nội dung giáo dục mẫu giáo: Được xây dựng theo các lĩnh vực phát triển của trẻ: 4 lĩnh vực ( phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát triển tình cảm - xã hội và thẫm mĩ ) - Phương pháp giáo dục: + Tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động với các hình thức đa dạng phong phú, đáp ứng các nhu cầu hứng thú và hoạt động tích cực của trẻ. + Tạo cơ hội cho trẻ hoạt động, trải nghiệm khám phá, bằng vận động thân thể và các giác quan dưới nhiều hình thức + Chú trọng tổ chức hoạt động chủ đạo của từng độ tuổi + Chú trọng đến việc trẻ học: “ Như thế nào” hơn là “ học cái gì”, coi trọng quá trình hơn là kết quả hoạt động; học một cách tích cực qua tìm hiểu, trải nghiệm; học thông qua sự hợp tác giữa trẻ với người lớn và giữa trẻ với trẻ. + Coi trọng môi trường tổ chức cho trẻ hoạt động Tạo môi trường kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo và phát triển phù hợp với từng cá nhân trẻ. Xây dựng các khu vực hoạt động, tận dụng các điều kiện, hoàn cảnh sẵn có của địa phương, sữ dụng các nguyên vật liệu sẵn có ( nguyên vật liệu thiên nhiên và nguyên vật liệu tái sử dụng ) + Chú trọng việc giao tiếp, gắn bó giữa người lớn với trẻ và trẻ với trẻ, phối hợp các phương pháp hợp lý nhằm tăng cường ở trẻ tính chủ động,
  7. tích cực hoạt động, đảm bảo trẻ “ học mà chơi, chơi mà học”. Coi trọng tiếp cận cá nhân trong chăm sóc- giáo dục trẻ - Đánh giá sự phát triển của trẻ: Có sự phối hợp nhiều phương pháp, hình thức đánh giá. Chú trọng đánh giá sự tiến bộ của từng trẻ, trên cơ sở đó, giúp giáo viên điều chỉnh kế hoạch giáo dục, tổ chức các hoạt động giáo dục tiếp theo ( nội dung, phương pháp ) cho phù hợp với thực tế và với trẻ. Coi trọng đánh giá trẻ thường xuyên qua quan sát hoạt động hàng ngày. III. Thực trạng của đề tài Trường mầm non Liên Thủy là một xã vùng giữa của Huyện Lệ Thủy, là một xã đồng bằng nằm sát thị trấn Kiến Giang, Đa số gia đình sống làm nghề nông nghiệp, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, để đáp ứng với nhu cầu về học tập là rất cần thiết cho người dân. Đứng trước điều kiện hoàn cảnh kinh tế của địa phương, là người quản lý chỉ đạo, cần lập kế hoạch cụ thể chỉ đạo theo từng điểm trường. Đội ngũ cán bộ giáo viên của trường hiện có: 28 người, trong đó có 4 người trong biên chế, giáo viên trực tiếp đứng lớp 100% đạt chuẩn và trên chuẩn. Trình độ: Đại học: 1/28; Cao đẳng: 16/28; Trung cấp 11/28 Tổng số cháu: 330 cháu/ 10 lớp, trong đó có 1 lớp nhà trẻ ( 2 nhóm ). Thực hiện theo 3 loại chương trình: Chương trình chỉnh lý: 1 nhóm trẻ 19-24 tháng. Chương trình đổi mới hình thức tổ chức giáo dục 3-5 tuổi: 5 lớp Chương trình giáo dục mầm non mới: 5 lớp mẫu giáo 3-5 tuổi và 1 nhóm trẻ 24-36 tháng. Trong đó có 189 cháu thực hiện chương trình giáo dục mầm non. Những năm qua nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của sở giáo dục đào tạo, đặc biệt là sự chỉ đạo sâu sát của phòng
  8. giáo dục đào tạo Lệ Thuỷ, chính quyền địa phương. Cơ sỡ vất chất khá đồng bộ, đáp ứng được yêu cầu về đổi mới, lãnh đạo nhà trường năng động, nhiệt tình, sáng tạo. Đội ngũ cán bộ giáo viên đa số trẻ, khỏe, nhiệt tình có trách nhiệm cao, được đào tạo bằng nhiều hình thức, nhạy bén linh hoạt tiếp cận cái mới, cập nhật những kiến thức khoa học một cách nhanh chóng. Ban đại diện cha mẹ trẻ nhiệt tình, tích cực hổ trợ về vật chất và tinh thần, cùng với nhà trường làm tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Nhiều năm liền trường đều đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc cấp tỉnh, đạt danh hiệu đơn vị văn hóa và trường đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2002- 2005. Năm học 2009-2010 nhà trường thực hiện chương trình đổi mới hình thức tổ chức giáo dục trẻ từ nhà trẻ đến mẫu giáo, bắt đầu từ tháng 11 năm 2009 phòng giáo dục yêu cầu nhà trường thực hiện thí điểm chương trình giáo dục mầm non mới từ nhóm trẻ 24-36 tháng và 5 lớp mẫu giáo 3 - 5 tuổi. Bên cạnh những thuận lợi trường vẫn gặp không ít những khó khăn nhất định. Cơ sỡ vật chất nhà trường ngày càng xuống cấp, những trang thiết bị bên trong, bên ngoài chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra ở trường trọng điểm ảnh hưởng không nhỏ đến việc chỉ đạo thực hiện chương trình này. - Do ảnh hưởng của chương trình đổi mới hình thức, nên một số giáo viên còn lúng túng, thiếu tự tin. - Các cháu chịu ảnh hưởng của chương trình củ nên trẻ còn thụ động. - Tâm lý của một số giáo viên thiếu mạnh dạn, tự tin trong việc thực hiện chương trình, chưa mạnh dạn làm, làm sợ sai, xây dựng kế hoạch còn hình thức, lẫn lộn giữa mục tiêu và nội dung, xây dựng nội dung và các lĩnh vực chưa khoa học, chưa cân đối.
  9. - Giáo viên chưa tạo cơ hội để cho trẻ được khám phá, được trải nghiệm, xây dựng môi trường còn mang tính trang trí, chưa lưu giữ sản phẩm của trẻ để tuyên truyền cho phụ huynh biết việc học chương trình mới này. - Chương trình mới ban hành trong tháng 9-10, nên việc tìm tòi nghiên cứu tài liệu còn nhiều hạn chế, hơn thế nữa tài liệu, học liệu bổ sung còn quá ít, không đáp ứng kịp nhu cầu đặt ra của chương trình, ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, các lớp 5 tuổi chưa có máy vi tính cho trẻ học, giáo viên chưa soạn giáo án trên máy vi tính. - Khảo sát chất lượng trẻ đầu năm: Tổng số cháu tham gia học chương trình giáo dục mầm non là:189/300 cháu, tỷ lệ: 63%, trong đó mặt bằng chất lượng từ trung bình trở lên: 125/189, tỷ lệ 66.1 %. Chưa đạt yêu cầu: 64/189, tỷ lệ: 33.9 % Từ những thực trạng như vậy, để chỉ đạo thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non mới cho trẻ mẫu giáo bản thân đã thực hiện các biện pháp sau. IV. Một số biện pháp chỉ đạo lập kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới cho trẻ mẫu giáo. Căn cứ tình hình thực tế và nhiệm vụ được giao để xây dựng các lớp mẫu giáo thực hiện chương trình giáo dục mầm non, sở giáo dục tổ chức mở lớp tập huấn, ban giám hiệu nhà trường cử tôi và 2 giáo viên dạy lớp điểm tham gia dự lớp tập huấn, chúng tôi được dự ba lớp tập huấn liên tục trong tháng 9-10/2009, kể cả lớp mở tại phòng giáo dục, cho giáo viên cốt cán và giáo viên dạy chương trình mới của trường thay phiên nhau đi học, vừa học vừa nghiên cứu tài liệu để về truyền đạt lại kiến thức cho toàn đội ngũ giáo viên trong trường, ban giám hiệu tham mưu với chuyên môn
  10. phòng giáo dục mở một điểm trường trung tâm dạy thực hiện chương trình mới, để đúc rút kinh nghiệm cho năm học mở đại trà trong toàn trường. 1. Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn: Trước hết chúng tôi phát tài liệu cho toàn đội ngũ giáo viên, tự đọc, tự nghiên cứu giáo viên phải hiểu nắm vững mục tiêu, nội dung của chương trình phù hợp với từng độ tuổi. Sau khi hiểu cho giáo viên chỉ ra điểm mới của chương trình giáo dục mầm non. Ví dụ: Nhận biết các ngày trong tuần, sử dụng các lá cây, hoa, đồ hộp nhựa bỏ đi để chắp ghép thành các con côn trùng ngộ nghĩnh như thật ( con bướm, con sâu, con chuồn chuồn...) Lĩnh vực: phát triển thẫm mĩ về âm nhạc như; sáng tác lời mới, nghe nhạc không lời, nhạc cổ điễn. Sau khi tổ chức học lý thuyết, giáo viên đã nắm vững nội dung, mục tiêu, phương pháp tiến hành tổ chức dạy thực hành. Những giáo viên được dự các lớp tập huấn, do sở, phòng giáo dục tổ chức là những giáo viên mà nhà trường tin tưởng và có triển vọng về kinh nghiệm, sáng tạo mỗi giáo viên được phân công dạy một lớp từ bé, nhỡ, lớn tuỳ theo năng lực, những giáo viên đó còn có năng khiếu riêng cho từng lĩnh vực cụ thể. Giáo viên được học tập bằng lý thuyết, được dự giờ thực hành mẫu của giáo viên trường Hoa Hồng, Đồng Mỹ, được xâm nhập vào bài dạy theo chương trình mới, cùng với ban giám hiệu nhất là bản thân chỉ đạo mãng chuyên môn này, tiếp tục trở lại trường tiến hành bồi dưỡng bằng lý thuyết và thực hành cho toàn đội ngũ kể cả những giáo viên năm nay chưa thực hiện nhưng đã tiếp cận dần với chương trình mới. Ngoài những giờ dạy mẫu, chúng tôi còn chỉ đạo giáo viên có năng lực dạy thực hành để cho những giáo viên chưa được học hỏi nhiều tiếp tục dự giờ, thực tế mà nói lúc đầu nhiều giáo viên mặc dầu đã học bằng lý thuyết nhưng chưa hiểu sâu sắc về chương trình mới, nên rất khó trong việc tổ chức hoạt động học cho trẻ.
  11. Ban giám hiệu thường xuyên kiểm tra dự giờ: Đối với những giáo viên năng lực còn hạn chế, tôi tranh thủ thời gian để góp ý, trực tiếp các hoạt động của giáo viên, nhằm giúp giáo viên đúc rút kinh nghiệm tại chổ, để giúp giáo viên sớm thay đổi cách dạy, cách soạn bài, nhiều giáo viên còn sa vào chương trình củ, không soạn theo các lĩnh vực, soạn hoạt động góc quá dài dòng. Thường xuyên kiểm tra giáo án, cách đánh giá cuối chủ đề để nhắc nhỡ thêm cho giáo viên. Bổ sung học liệu máy vi tính, nối mạng lan để giáo viên cho trẻ học và chơi trên máy vi tính, soạn bài trên máy, tìm tài liệu trên mạng chuyển tải về dạy cho trẻ. Nhờ những cách làm trên mà chỉ mới hơn 3 tháng thực hiện chương trình giáo dục mầm non, nhiều giáo viên đã nhận thức được việc dạy chương trình này còn dễ dàng hơn việc thực hiện đổi mới hình thức tổ chức giáo dục trẻ. Vì chương trình cũng đã có giáo án tham khảo, có sách hướng dẫn thực hiện, sách thiết kế các hoạt động học có chủ đích, hoạt động góc và hoạt động ngoài trời theo các chủ đề, nên một số bài có thể tham khảo được tài liệu, như vậy giáo viên phần nào tiếp cận với việc thực hiện chương trinh giáo dục mầm non. Mỗi tháng chúng tôi tổ chức thao giảng 1 lĩnh vực để cho giáo viên toàn trường được dự, học tập, rút kinh nghiệm, tham gia sinh hoạt chuyên môn liên trường mỗi tháng 1 lần. Cho giáo viên dự giờ bạn đồng nghiệp. Thông qua tổ chuyên môn các khối và những giáo viên có năng lực tốt kèm cặp những giáo viên có năng lực còn hạn chế. Tổ chức rút kinh nghiệm, so sánh giữa lý thuyết và thực hành có gì chưa rỏ bổ sung ưu điểm, tồn tại, hoàn thiện tiết mẫu và đưa ra hướng thực hiện trong toàn trường. Nhà trường bằng nhiều biện pháp để bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên nhất là những giáo viên còn yếu. Bố trí đội ngũ giáo viên phù hợp với trình độ chuyên môn. Công tác kiểm tra, dự giờ, thao giảng, bình quân 1
  12. giáo viên 2 tiết / tháng. Tạo điều kiện để giáo viên học tập rút kinh nghiệm nâng cao tay nghề cho bản thân. 2. Xây dựng chương trình, kế hoạch: Trước hết ban giám hiệu nhà trường xây dựng kế hoạch chung, kế hoạch dài hạn, kế hoạch cho năm học ( dự kiến các chủ đề, phân phối quỹ thời gian cho từng chủ đề cho từng khối lớp ) và phổ biến hướng dẫn tổ chức thực hiện cho giáo viên trong toàn trường. Xây dựng kế hoạch phải tùy theo tình hình thực tế để xây dựng. Khi lập kế hoạch giáo viên cần căn cứ vào những điểm sau đây: - Nội dung chương trình theo độ tuổi trong chương trình giáo dục mầm non - Điều kiện, tình hình thực tế của nhà trường, của địa phương, của lớp mình và khả năng phát triển của trẻ, đồ dùng đồ chơi và thiết bị, nhu cầu và sự tham gia của cha mẹ vào chăm sóc giáo dục trẻ. Dựa vào những căn cứ trên, giáo viên đưa ra các nội dung giáo dục dự kiến thực hiện trong năm học ( đây là những kết quả mong đợi trẻ có thể biết được và có thể làm được ở từng lĩnh vực ) giáo viên có thể lược bớt những nội dung không gần gũi với trẻ trong lớp, cao hơn hoặc thấp hơn so với khả năng của trẻ, hoặc có thể đưa thêm nội dung giáo dục cho phù hợp với khả năng của trẻ và điều kiện ở lớp mình phụ trách. Nội dung giáo dục trẻ theo các lĩnh vực sẽ là cơ sở để giáo viên lập kế hoạch thực hiện chương trình theo tháng/chủ đề. Trước hết phải xác định được những căn cứ để xây dựng kế hoạch giáo dục: - Mục tiêu và nội dung chương trình giáo dục mẫu giáo đã quy định trong chương trình giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành. - Thời gian quy định trong năm học
  13. - Điều kiện cơ sở vật chất và các nguồn lực khác của địa phương, trường, lớp mầm non. - Nhu cầu và trình độ phát triển của trẻ trong lớp mẫu giáo. Dựa vào kế hoạch chung của nhà trường, giáo viên xây dựng kế hoạch cụ thể hàng tháng và hàng tuần cho lớp mình: Giáo viên thực hiện các bước chủ đề nhánh, bao gồm chọn chủ đề cụ thể, xác định mục tiêu giáo dục, xây dựng mạng nội dung, mạng hoạt động của chủ đề và lên kế hoạch cụ thể hàng tuần cho phù hợp với trẻ và điều kiện thực tế của lớp. Khi thiết kế chủ đề, giáo viên cần lưu ý một chủ đề cần thoả mãn 4 yêu cầu sau: + Cần tính đến nhu cầu, hứng thú của trẻ và những kiến thức bắt nguồn từ thực tế cuộc sống gần gũi với trẻ. + Cần được thực hiện trong các hoạt động ở trường. + Cần được thể hiện ở sự lựa chọn và cung cấp các đồ dùng, học liệu ở các khu vực chơi trong lớp. + Cần được tiến hành tối thiểu trong một tuần, đảm bảo có sự lặp lại và mở rộng các cơ hội học cho trẻ ở các độ tuổi khác nhau ( bé, nhỡ, lớn ). Dự kiến các chủ đề trong năm học được xây dựng như sau; ví dụ: Chương trình mẫu giáo lớn. Tháng Chủ đề Số tuần 9 Trường mầm non, Tết Trung thu 3 tuần 9-10 Bản thân 3 tuần 10-11 Gia đình và ngày 20/11 5 tuần 12 Một số nghề và ngày 22/12 5 tuần 1-2 Thế giới động vật 4 tuần 2-3 Thế giới thực vật; Tết nguyên đán 6 tuần
  14. 3-4 Phương tiện và luật lệ giao thông; Ngày 8/3 2 tuần 4 Các hiện tượng tự nhiên 3 tuần 4-5 Quê hương, đát nước, Bác Hồ, trường tiểu 4 tuần học Cộng 35 tuần Tuy nhiên tên chủ đề, số lượng chủ đề, dự kiến cho thực hiện chủ đề có thể linh hoạt thay đổi tuỳ theo hứng thú, nhu cầu, khả năng của trẻ và điều kiện triển khai của từng lớp cụ thể. Ví dụ: Chủ đề về lễ hội có thể thực hiện trong 3-5 ngày. Trong quá trình thực hiện, giáo viên cần linh hoạt, thường xuyên xem xét và điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với nhu cầu hiểu biết và trình độ phát triển của trẻ trong lớp mình, cũng như cơ sở vật chất ở địa phương. Ngoài ra giáo viên cần linh hoạt sáng tạo trong việc đặt tên chủ đề cụ thể, gần gũi với trẻ. Thời gian thực hiện một chủ đề cần tính đến hứng thú của trẻ, không nên kéo dài quá khi trẻ không còn hứng thú nữa. Thông thường một chủ đề có thể kéo dài từ 1 đến 4 tuần. Giáo viên có thể kéo dài hoặc giảm bớt thời gian tuỳ thuộc vào hứng thú của trẻ và điều kiện thực hiện chủ đề đó. Trình tự thực hiện có thể thay đổi, tuỳ thuộc vào điều kiện, thời điểm để thực hiện chủ đề đó tốt nhất ( trẻ có thể quan sát và thực hành ). Do vậy tên chủ đề, thời gian thực hiện một chủ đề, số lượng chủ đề và trình tự thực hiện chủ đề ở các lớp có thể khác nhau. Tiếp theo hướng dẫn giáo viên xây dựng nội dung giáo dục theo từng độ tuổi dự kiến cho cả năm học, theo từng chủ đề. Ví dụ: Nội dung giáo dục lớp mẫu giáo 3-4 tuổi .
  15. Chủ đề Phát Phát triển Phát triển ngôn Phát triển Phát triển triển thể nhận thức ngữ tình cảm thẫm mĩ chất và kĩ năng xã hội Chủ Trẻ biết Trẻ biết 1 số Trẻ biết lắng Trẻ biết Trẻ vui đề: ném xa hoạt động nghe, hiểu lời nói được sướng, vổ tay Trường băng 1 trong trường nói và thực tên hát, vận động mầm tay, tung mầm non, đồ hiện được trường, tự nhiên các non bóng, dùng đồ chơi những yêu cầu lớp, bạn bài hát: cháu bật về và cách sử. đơn giản của bè, biết đi mẫu giáo, phía Nhận biết cô, biết đọc nhận ra vui đến trước được các loại thuộc các bài niềm vui trường, hình một số thơ: Bé đến khi đến trường chúng đồ dùng trong trường, cô giáo lớp, đến cháu là trường mầm của em trường trường mầm non non... Nội dung của chủ đề sẽ là phương tiện để hình thành và phát triển các kĩ năng, tình cảm, thái độ ở trẻ. Do đó tùy thuộc vào nội dung mỗi chủ đề cụ thể giáo viên chủ động phát triển ở các lĩnh vực nhất định. Ví dụ: Những chủ đề thuộc lĩnh vực tự nhiên có ưu thế phát triển về nhận thức, ngôn ngữ; những chủ đề thuộc lĩnh vực xã hội có ưu thế hơn về phát triển tình cảm xã hội, thái độ... 3. Chỉ đạo giáo viên xây dựng và phát triển chủ đề: Ngay khi đã chọn được chủ đề, giáo viên cần dựa vào nội dung nhà trường đã xây dựng, dựa vào từng độ tuổi để giáo viên lựa chọn mục tiêu
  16. cho phù hợp xác định các mục tiêu giáo dục của chủ đề hoặc nói cách khác là những kết quả mong đợi mà trẻ có thể đạt được sau khi học chủ đề đó. Mục tiêu của chủ đề đưa ra cần bám sát mục tiêu của từng lĩnh vực giáo dục trong chương trình giáo dục mầm non, các tiêu chí cần cụ thể, có thể đo đạc được, vừa sức phù hợp với độ tuổi, nhằm giúp trẻ từng bước đạt được mục tiêu giáo dục mầm non. Khi viết mục tiêu bao giờ cũng bắt đầu bằng động từ như; Trẻ có thể, có khả năng, biết, nhận biết, yêu thích... Khi giáo viên đã xác định được mục tiêu giáo dục, đưa ra hoạt động giáo dục, đưa các nội dung hoạt động vào các lĩnh vực phát triển cho phù hợp. Tổ chức thảo luận theo khối: Cắn cứ mục tiêu, xây dựng nội dung và khai thác, giáo viên phải linh hoạt sáng tạo, lúc này ban giám hiệu vào cuộc để cùng nhau bàn bạc tháo gỡ những vướng mắc. Ví dụ: Thế giới động vật: Bám vào chương trình giáo dục mầm non để xác định được mục tiêu, kết quả mong đợi của trẻ có thể đạt được đó là: - Về thể chất: + Thực hiện thành thạo một số vận động cơ bản ( bò, chui, chạy, nhảy, bắt chước dáng đi của con vật ) + Có khả năng phối hợp vận động và các giác quan ( tay- mắt ) chính xác. + Cảm nhận được sự sảng khoái, dễ chịu khi tiếp xúc với môi trường thiên nhiên trong lành và các con vật quen thuộc, gần gũi. - Về ngôn ngũ: + Biết sử dụng các từ chỉ tên gọi các bộ phận và một số đặc điểm nổi bật, rỏ nét của một số con vật gần gũi.
  17. + Biết nhận xét nói và kể lại những điều mà trẻ quan sát được; biết trao đổi thảo luận với người lớn và các bạn về các con vật, về những sự việc, hiện tượng...đã được nhìn thấy. - Về nhận thức: + Phát triển tính tò mò, ham hiểu biết, óc quan sát, phán đoán, khả năng so sánh, phân loại, nhận xét ( theo các đặc điểm, số lượng, hình dạng và kích thước...) về các sự vật, các con vật quen thuộc, môi trường thiên nhiên xung quanh. + Có một số kiến thức hiểu biết sơ đẳng, thiết thực về một số con vật gần gũi, lợi ích cũng như tác hại của chúng đối với đời sống con người. - Về tình cảm, kĩ năng xã hội: + Yêu thích các con vật nuôi, mong muốn bảo vệ môi trường sống và các con vật quý hiếm. + Quý trọng người chăn nuôi + Có một số thói quen, kĩ năng đơn giản, cần thiết về việc bảo vệ, chăm sóc vật nuôi sống gần gũi trong gia đình, trường lớp mầm non - Về thẫm mĩ: + Yêu thích cái đẹp và sự đa dạng phong phú của thế giới động vật + Thể hiện cảm xúc, tình cảm về thế giới động vật qua tranh vẽ, bài hát, múa, vận động... Căn cứ vào mục đích giáo dục, giáo viên xác định nội dung cho từng lĩnh vực. Giáo viên có thể sử dụng sơ đồ mạng để thiết kế mạng chủ đề ( bao gồm mạng nội dung và mạng hoạt động ). Mạng nội dung chứa đựng những nội dung chính trong 5 lĩnh vực của Chương trình liên quan đến chủ đề, mà qua đó giáo viên muốn cung cấp những kiến thức ( khái niệm, thông tin ) kĩ năng, thái độ đến cho trẻ.
  18. Mạng nội dung giúp cho giáo viên biết trình tự trước sau: từ những nội dung, kiến thức, kĩ năng đơn giản, gần gũi đến mở rộng, phức tạp hơn; từ những điều trẻ đã biết đến chưa biết và biết một cách đầy đủ trọn vẹn hơn; từ tổng thể đến chi tiết, sao cho phù hợp với độ tuổi và sự hiểu biết của trẻ theo nguyên tắc đồng tâm phát triển. Từ chủ đề chính, giáo viên có thể phân chia thành các chủ đề nhánh. Mỗi chủ đề nhánh có thể thực hiện trong thời gian 1 - 2 tuần. Xây dựng mạng hoạt động là đưa ra hàng loạt các hoạt động giáo dục theo chương trình mà giáo viên dự kiến cho trẻ trải nghiệm hàng ngày, hàng tuần để tìm hiểu, khám phá các nội dung của chủ đề, từ đó trẻ tiếp thu được các kĩ năng, kinh nghiệm cần thiết cho sự phát triển toàn diện của trẻ. Mạng hoạt động gợi cho giáo viên cách thức tiếp cận dạy và học tích hợp trong giáo dục mầm non. Đó là cách thức phối hợp một cách tự nhiên những hoạt động cho trẻ trải nghiệm như hoạt động: Khám phá khoa học về tự nhiên - xã hội; làm quen với toán; phát triển vận động; kể chuyện, đọc thơ; làm quen với đọc viết; hoạt động âm nhạc; hoạt động tạo hình ( vẽ, tô màu, nặn, xé, gấp, cắt, dán và các loại trò chơi ) các hình thức lao động phù hợp nhằm giúp trẻ phát triển đồng thời các mặt nhận thức, ngôn ngữ, thể lực, tình cảm, xã hội và thẫm mĩ. Cách tiếp cận này cho phép giáo viên có thể điều chỉnh giáo án một cách linh hoạt, có thể đưa vào các tình huống tự nhiên vào kế hoạch hàng ngày nhằm đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ và làm cho không khí lớp học thêm sinh động. Nhờ sơ đồ mạng giáo viên dễ dàng nhìn thấy sự liên kết giữa các nội dung giáo dục và các hoạt động, sự đan xen giữa các lĩnh vực phát triển, như vậy khi tiến hành sẽ ít bị động và làm tăng hiệu quả giáo dục 4. Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch hoạt động học Xây dựng kế hoạch là gì và tại sao phải xây dựng kế hoạch ?
  19. Phải xây dựng kế hoạch vì: xây dựng kế hoạch là một biện pháp quan trọng trong quá trình thực hiện những việc cần làm của người giáo viên. Nó giúp giáo viên hình dung rỏ ràng mọi công việc, từ đó mà chủ động trong công việc. Kế hoạch là cơ sở để thống nhất mọi hoạt động. Giáo viên phải hình dung được rỏ ràng công việc sắp phải làm và hoàn toàn chủ động công việc trong nhóm, lớp, đồng thời đưa các hoạt động vào nề nếp. Không có kế hoạch thì mọi hoạt động của con người sẽ trở nên vô mục đích, lộn xộn và phó thác cho may rủi. Xây đựng kế hoạch giúp mọi người hiểu được những nhiệm vụ phải thực hiện và những đường hướng họ phải tuân theo khi thực hiện các công việc đó. Như vậy chung quy lại là giáo viên phải thực hiện theo đúng chương trình đã xây dựng phù hợp với độ tuổi mà mình đang đảm nhiệm. Hoạt động học là một trong ba hoạt động cơ bản trong trường, lớp mẫu giáo, hoạt động học được giáo viên tổ chức hướng dẫn để thực hiện nội dung giáo dục trong chương trình giáo dục mầm non, phù hợp chủ đề nhằm phát triển toàn diện trẻ trên các mặt: nhận thức, thể chất, ngôn ngữ, tình cảm-xã hội và thẫm mĩ. Xuất phát từ đặc điểm nhận thức và hoạt động của trẻ mẫu giáo là hoạt động chơi, được thực hiện một cách ngẫu nhiên, trẻ tự tiếp thu kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm sống một cách tự nhiên chủ yếu thông qua việc trẻ tham gia tích cực vào các trò chơi khác nhau trong các khu vực hoạt động ở các góc, hoạt động ngoài trời, dạo chơi, tham quan, tiếp xúc với môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội gần gũi xung quanh và thông qua các hoạt động sinh hoạt hàng ngày trong trường mầm non Học dưới sự định hướng và hướng dẫn của giáo viên; giúp trẻ lĩnh hội, cũng cố và chính xác hoá các kiến thức, kĩ năng. Hình thành hành vi,
  20. thái độ, phẩm chất và những năng lực cần thiết trên các mặt: Thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, kĩ năng xã hội và thẫm mĩ. Ví dụ: Tổ chức hoạt động học thuộc chủ đề: nghề nghiệp; độ tuổi: 5- 6. Nội dung: Phát triển vận động: Trèo lên xuống thang, bò chui qua cổng Nội dung tích hợp: phân loại các dụng cụ theo một số nghề và đếm Hoạt động: Cháu tập làm lính cứu hoả. Mục đích: Trẻ thực hiện được động tác, trèo lên xuống thang, bò chui qua cổng; thể hiện tình cảm bản thân với những người làm nghề cứu hoả, phòng cháy chữa cháy... Chuẩn bị: Tranh vẽ lính cứu hoả, thang leo, cổng chui. Tranh lô tô các nghề. Tiến hành: Cho trẻ đứng xung quanh, cô hướng sự chú ý của trẻ qua tranh vẽ về chú: “ lính cứu hoả”. Trò chuyện với trẻ về những công việc của chú lính cứu hoả. - Hoạt động 1: Cho trẻ đi chạy kết hợp các kiểu làm chú lính cứu hoả, thành một vòng tròn - Hoạt động 2: + Tập bài tập phát triển chung: Tay, chân, lưng, bụng trong bài thể dục sáng. + Cô làm mẫu: Lần 1 không giải thích, lần 2: minh họa từng động tác trèo lên xuống thang, sau đó bò chui qua cổng, cô giải thích rỏ ràng từng động tác, lần 3 cho 2 trẻ lên làm thử, lần lượt cho từng trẻ lên thực hiện. Mỗi trẻ được thực hiện 3 lần...